SƠ THẢO ĐÔI NÉT VỀ HIỆN TÌNH HỘI THÁNH TẠI VIỆT NAM
Hiện tình Hội thánh tại Việt Nam nhìn bên ngoài thấy khá lạc quan, tuy còn nhiều khó khăn và hạn chế. So với mười mấy năm về trước, tình hình có vẻ dễ chịu hơn. Con số linh mục, giám mục, tu sĩ, chủng sinh, tập sinh, đệ tử tăng thêm nhiều.
Các thứ lễ ở một số thành phố lớn được tổ chức linh đình trọng thể không kém trước kia, mà có khi còn hơn nữa, với những màn quay vidéo và ăn uống tiệc tùng, với tiền mừng và quà cáp từ nước ngoài cũng như trong nước gửi tới.
Linh mục, tu sĩ trước kia đi đâu thì kín đáo không dám tỏ lộ danh tính, nhưng bây giờ thì công khai, không sợ hãi chi.
Các nhà thờ, nhà dòng thi nhau mọc lên từ Nam chí Bắc.
Rồi các cuộc hành hương, đại hội. các lễ mừng 25. 50, 60, 100 năm diễn ra dường như liên tiếp.
Có một thời Hội thánh của chúng ta như bị tước đoạt, hóa ra nghèo tiền, nghèo thế và nên như tấm bia cho thiên hạ đàm tiếu. Nhưng rồi cùng với thời gian, Hội thánh xem ra lấy lại được cái thế của mình, tuy còn mỏng manh, chưa có gì là vững chắc. Cái thế đó làm cho nhiều người vui mừng và lấy làm hãnh diện. Cũng phải thôi.
Nhưng trong cái phải đó có một cái nguy. Cái nguy đó là Hội thánh vô tình để cho mình rơi vào vết xe cũ. Vết xe đó là tính thích nổi nang và tỏ ra bề thế. Có thể nói, nếu không để ý thì Hội thánh ở đâu cũng dễ mắc phải tính này.
Phải chăng vì vậy, nhà thần học Yves Congar mới viết một cuốn sách nhỏ đề là “Pour une Eglise servante et pauvre” để cảnh báo về mối nguy này. Ngoài ra, trong một bài báo vào thời đang họp Công đồng, tác giả còn nói là phải đợi cho đến bây giờ Hội thánh mới rũ bỏ được những lớp bụi bám trên ngai tòa thánh Phê-rô từ thế kỷ IV tới nay.
Một nhà thần học nổi tiếng khác, cha Karl Rahner, người Đức cũng viết trong một số báo Actualités religieuses về thiểu số những người Ki-tô hữu sống rải rác đó đây, giữa những người không tin hay dửng dưng với tôn giáo.
Đó là điều đang xẩy ra bây giờ tại nhiều nước bên Âu-Mỹ. Người Ki-tô hữu không còn ở thế mạnh nữa. Hội thánh cũng không còn là điểm qui chiếu cho người ta như trước. Vậy phải chuẩn bị để sống trong tình thế này và coi đó như một sự bình thường.
Tình thế này đòi buộc chúng ta phải chấp nhận mình không được người ta coi trọng, không có phương tiện vật chất dồi dào. Tâm lý người công giáo Việt Nam khó chấp nhận điều này. Họ muốn Hội thánh mình phải mạnh, phải nổi; các giám mục, linh mục, tu sĩ phải đưọc trọng vọng, nể vì. Nhưng đó là những ý tưởng xa lạ với Tin Mừng và chắc hẳn Chúa không muốn cho các linh mục của Người chạy theo.
Đứng trước hiện tình khá tốt đẹp như mới phác hoạ trên, nhiều người lạc quan, dễ tính sẽ lấy làm bằng lòng. Quả thật, xét về một phương diện, tưởng cũng nên hài lòng. Nhưng xét về lâu về dài, chúng ta cũng nên cảnh giác đề phòng cho mình khỏi bị ru ngủ bởi cái vẻ bề ngoài xem ra xán lạn kia, nhưng thực ra lại mong manh giả tạo.
Những kinh nghiệm thấm thía mấy chục năm về trước có thể làm cho chúng ta cảm nhận được tính tạm bợ, bấp bênh của những gì chúng ta có. Những kinh nghiệm đó đã góp phần giúp cho nhiều người suy nghĩ và giúp cho Hội thánh thanh luyện mình. Nhưng tiếc thay so với bây giờ thì những kinh nghiệm kia dường như đã bị lãng quên và tiêu tan mất rồi!
Ngày nay đứng trước một tiền đồ có vẻ rực rỡ như đang thấy, chúng ta vẫn phải coi chừng. Trong bài “L’Eglise et les défis du troisième millénaire” của Đức Hồng Y Godfried Danneels đăng trong La documentation catholique số 2269 ra ngày 5.5.2002, cuối trang 446 có viết : “Dù sao, chúng ta chỉ có thể tồn tại nhờ phẩm chất của lòng tin, lòng mến và nhất là lòng cậy của chúng ta. Chắc chắn là ít bởi quyền hành và uy thế, ít bởi cái vẻ bên ngoài hơn là thực chất bên trong”. (Quoiqu’il en soit, nous ne survivrons que par la qualité de notre foi, de notre amour et surtout de notre espérance. Ce sera moins par le pouvoir et le prestige, par le paraitre, que par l’être).
Xã hội chúng ta vẫn là một xã hội có tôn ty đẳng cấp, dù nói là dân chủ. Cái dáng dấp và ảnh hưởng phong kiến vẫn còn cả ở ngoài đời lẫn trong đạo. Chính óc phong kiến này đã cầm chân xã hội chúng ta lại không cho tiến bước. Chúng ta chỉ việc nhìn lại những việc đã xẩy ra vào giữa thế kỷ XIX trong triều đình vua quan nhà Nguyễn cũng đủ thấy ảnh hưởng khốc hại của óc phong kiến này.
Riêng trong nhà đạo chúng ta, kiểu cách phong kiến vẫn còn cho đến ngày nay trong cách dùng người và cắt đặt các chức vụ. Người nào biết đưa đẩy, không dám có ý kiến riêng dù là xây dựng, thường dễ được trọng dụng và cắt cử vào những chức vụ quan yếu hơn.
Trong Hội Đồng Giám Mục, các vị giám mục trẻ thường nể các vị cao niên và không dám có ý kiến ngược lại. Trong họ đạo, thường cha sở nắm mọi quyền hành và cho mình như thông thạo đủ thứ. Trong các đoàn thể, người nhỏ phải theo người lớn cho đúng với nguyên tắc “kính lão đắc thọ”, trong khi trào lưu dân chủ và kỹ thuật điều hành các xí nghiệp trên thế giới, người ta có khuynh hướng dùng người trẻ và đến tuổi nào đó, người lớn phải nhường chỗ cho người nhỏ, để đoàn thể và tổ chức nhờ vậy luôn năng động và có sức sống mới.
Còn một điều nữa đáng nói là mục vụ của các cha sở và lối hành đạo của giáo dân cần phải thay đổi cho phù hợp với tình thế mới. Các cha sở không thể để giáo dân sống mãi trong tình trạng ấu trĩ về đức tin, cũng như không thể giữ mãi những lề thói có tính mị dân, để duy trì lòng cung kính của họ đối với mình. Gần đây trong một số báo Công giáo và Dân tộc, có ý kiến của một nữ độc giả ngoài công giáo về lòng trọng kính quá đáng của giáo dân đối với linh mục. Chúa bảo chúng ta đừng gọi ai là cha hay thày là muốn dạy chúng ta đừng thích hay đòi cho người ta trọng vọng mình.
Các linh mục không cần phải đòi người ta kính trọng, nhưng nếu các vị ăn ở cho đúng bậc mình như lời sau đây của Công đồng Tứ Xuyên (1802, in tại Đàng Ngoài, địa phận Tây 1873, trang 4) thì chắc chắn sự trọng kính kia sẽ đến :
“Thày cả phải có nhân đức lọn lành hơn người ta, phải cầu nguyện cho sốt sắng hơn, xem sách cho cần mẫn hơn, giữ mình sạch sẽ cho cẩn thận hơn, ăn uống cho tiết độ hơn, chịu khó cho bằng lòng hơn, giữ sự vui cười cho nhiệm nhặt hơn, ăn nói cho mềm mại hơn, giữ mặt mũi chân tay hình dong cho nghiêm trang hơn, lời nói cho hẳn hoi hơn, thế thì mới xứng đạo làm thày mà chớ.” (s.đ. d. trang 4)
Tiếp đến là lối hành đạo của giáo xứ. Lối này cũ quá rồi. Thường bổn đạo chỉ biết đọc kinh rườm rà luộm thuộm. Cần phải điều chỉnh lại việc kinh hạt và dạy cho bổn đạo biết cầu nguyện theo phụng vụ. Đạo của giáo hữu là đạo tình cảm và theo lòng sùng kính mà chưa phải là đạo phụng vụ.
Cuối cùng là các tu sĩ, đặc biệt là nữ tu. Nữ tu bây giờ xây cất nhiều quá! Coi chừng có vấn đề đức nghèo khó mà vô tình họ không để ý hay bỏ qua. Chúng ta cũng phải nghĩ đến những người bên ngoài đạo nữa, xem lối sống và hành đạo của chúng ta có sinh gương xấu hay gây khó chịu cho người ta không, như đi rước kiệu nghênh ngang ngoài đường phố làm cản trở giao thông, như tiệc tùng linh đình tốn phí, như phiền nhiễu giáo dân trong vấn đề tiền bạc v.v...
Nói tóm lại, đứng trước một Hội thánh đang dần dần phục hồi lại khí thế như Hội thánh tại Việt Nam, chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng đồng thời cũng phải lưu tâm đến một số biểu hiện nguy hại có thể làm xói mòn sinh lực của Hội thánh chúng ta. Đó là :
Hiện tình Hội thánh tại Việt Nam nhìn bên ngoài thấy khá lạc quan, tuy còn nhiều khó khăn và hạn chế. So với mười mấy năm về trước, tình hình có vẻ dễ chịu hơn. Con số linh mục, giám mục, tu sĩ, chủng sinh, tập sinh, đệ tử tăng thêm nhiều.
Các thứ lễ ở một số thành phố lớn được tổ chức linh đình trọng thể không kém trước kia, mà có khi còn hơn nữa, với những màn quay vidéo và ăn uống tiệc tùng, với tiền mừng và quà cáp từ nước ngoài cũng như trong nước gửi tới.
Linh mục, tu sĩ trước kia đi đâu thì kín đáo không dám tỏ lộ danh tính, nhưng bây giờ thì công khai, không sợ hãi chi.
Các nhà thờ, nhà dòng thi nhau mọc lên từ Nam chí Bắc.
Rồi các cuộc hành hương, đại hội. các lễ mừng 25. 50, 60, 100 năm diễn ra dường như liên tiếp.
Có một thời Hội thánh của chúng ta như bị tước đoạt, hóa ra nghèo tiền, nghèo thế và nên như tấm bia cho thiên hạ đàm tiếu. Nhưng rồi cùng với thời gian, Hội thánh xem ra lấy lại được cái thế của mình, tuy còn mỏng manh, chưa có gì là vững chắc. Cái thế đó làm cho nhiều người vui mừng và lấy làm hãnh diện. Cũng phải thôi.
Nhưng trong cái phải đó có một cái nguy. Cái nguy đó là Hội thánh vô tình để cho mình rơi vào vết xe cũ. Vết xe đó là tính thích nổi nang và tỏ ra bề thế. Có thể nói, nếu không để ý thì Hội thánh ở đâu cũng dễ mắc phải tính này.
Phải chăng vì vậy, nhà thần học Yves Congar mới viết một cuốn sách nhỏ đề là “Pour une Eglise servante et pauvre” để cảnh báo về mối nguy này. Ngoài ra, trong một bài báo vào thời đang họp Công đồng, tác giả còn nói là phải đợi cho đến bây giờ Hội thánh mới rũ bỏ được những lớp bụi bám trên ngai tòa thánh Phê-rô từ thế kỷ IV tới nay.
Một nhà thần học nổi tiếng khác, cha Karl Rahner, người Đức cũng viết trong một số báo Actualités religieuses về thiểu số những người Ki-tô hữu sống rải rác đó đây, giữa những người không tin hay dửng dưng với tôn giáo.
Đó là điều đang xẩy ra bây giờ tại nhiều nước bên Âu-Mỹ. Người Ki-tô hữu không còn ở thế mạnh nữa. Hội thánh cũng không còn là điểm qui chiếu cho người ta như trước. Vậy phải chuẩn bị để sống trong tình thế này và coi đó như một sự bình thường.
Tình thế này đòi buộc chúng ta phải chấp nhận mình không được người ta coi trọng, không có phương tiện vật chất dồi dào. Tâm lý người công giáo Việt Nam khó chấp nhận điều này. Họ muốn Hội thánh mình phải mạnh, phải nổi; các giám mục, linh mục, tu sĩ phải đưọc trọng vọng, nể vì. Nhưng đó là những ý tưởng xa lạ với Tin Mừng và chắc hẳn Chúa không muốn cho các linh mục của Người chạy theo.
Đứng trước hiện tình khá tốt đẹp như mới phác hoạ trên, nhiều người lạc quan, dễ tính sẽ lấy làm bằng lòng. Quả thật, xét về một phương diện, tưởng cũng nên hài lòng. Nhưng xét về lâu về dài, chúng ta cũng nên cảnh giác đề phòng cho mình khỏi bị ru ngủ bởi cái vẻ bề ngoài xem ra xán lạn kia, nhưng thực ra lại mong manh giả tạo.
Những kinh nghiệm thấm thía mấy chục năm về trước có thể làm cho chúng ta cảm nhận được tính tạm bợ, bấp bênh của những gì chúng ta có. Những kinh nghiệm đó đã góp phần giúp cho nhiều người suy nghĩ và giúp cho Hội thánh thanh luyện mình. Nhưng tiếc thay so với bây giờ thì những kinh nghiệm kia dường như đã bị lãng quên và tiêu tan mất rồi!
Ngày nay đứng trước một tiền đồ có vẻ rực rỡ như đang thấy, chúng ta vẫn phải coi chừng. Trong bài “L’Eglise et les défis du troisième millénaire” của Đức Hồng Y Godfried Danneels đăng trong La documentation catholique số 2269 ra ngày 5.5.2002, cuối trang 446 có viết : “Dù sao, chúng ta chỉ có thể tồn tại nhờ phẩm chất của lòng tin, lòng mến và nhất là lòng cậy của chúng ta. Chắc chắn là ít bởi quyền hành và uy thế, ít bởi cái vẻ bên ngoài hơn là thực chất bên trong”. (Quoiqu’il en soit, nous ne survivrons que par la qualité de notre foi, de notre amour et surtout de notre espérance. Ce sera moins par le pouvoir et le prestige, par le paraitre, que par l’être).
Xã hội chúng ta vẫn là một xã hội có tôn ty đẳng cấp, dù nói là dân chủ. Cái dáng dấp và ảnh hưởng phong kiến vẫn còn cả ở ngoài đời lẫn trong đạo. Chính óc phong kiến này đã cầm chân xã hội chúng ta lại không cho tiến bước. Chúng ta chỉ việc nhìn lại những việc đã xẩy ra vào giữa thế kỷ XIX trong triều đình vua quan nhà Nguyễn cũng đủ thấy ảnh hưởng khốc hại của óc phong kiến này.
Riêng trong nhà đạo chúng ta, kiểu cách phong kiến vẫn còn cho đến ngày nay trong cách dùng người và cắt đặt các chức vụ. Người nào biết đưa đẩy, không dám có ý kiến riêng dù là xây dựng, thường dễ được trọng dụng và cắt cử vào những chức vụ quan yếu hơn.
Trong Hội Đồng Giám Mục, các vị giám mục trẻ thường nể các vị cao niên và không dám có ý kiến ngược lại. Trong họ đạo, thường cha sở nắm mọi quyền hành và cho mình như thông thạo đủ thứ. Trong các đoàn thể, người nhỏ phải theo người lớn cho đúng với nguyên tắc “kính lão đắc thọ”, trong khi trào lưu dân chủ và kỹ thuật điều hành các xí nghiệp trên thế giới, người ta có khuynh hướng dùng người trẻ và đến tuổi nào đó, người lớn phải nhường chỗ cho người nhỏ, để đoàn thể và tổ chức nhờ vậy luôn năng động và có sức sống mới.
Còn một điều nữa đáng nói là mục vụ của các cha sở và lối hành đạo của giáo dân cần phải thay đổi cho phù hợp với tình thế mới. Các cha sở không thể để giáo dân sống mãi trong tình trạng ấu trĩ về đức tin, cũng như không thể giữ mãi những lề thói có tính mị dân, để duy trì lòng cung kính của họ đối với mình. Gần đây trong một số báo Công giáo và Dân tộc, có ý kiến của một nữ độc giả ngoài công giáo về lòng trọng kính quá đáng của giáo dân đối với linh mục. Chúa bảo chúng ta đừng gọi ai là cha hay thày là muốn dạy chúng ta đừng thích hay đòi cho người ta trọng vọng mình.
Các linh mục không cần phải đòi người ta kính trọng, nhưng nếu các vị ăn ở cho đúng bậc mình như lời sau đây của Công đồng Tứ Xuyên (1802, in tại Đàng Ngoài, địa phận Tây 1873, trang 4) thì chắc chắn sự trọng kính kia sẽ đến :
“Thày cả phải có nhân đức lọn lành hơn người ta, phải cầu nguyện cho sốt sắng hơn, xem sách cho cần mẫn hơn, giữ mình sạch sẽ cho cẩn thận hơn, ăn uống cho tiết độ hơn, chịu khó cho bằng lòng hơn, giữ sự vui cười cho nhiệm nhặt hơn, ăn nói cho mềm mại hơn, giữ mặt mũi chân tay hình dong cho nghiêm trang hơn, lời nói cho hẳn hoi hơn, thế thì mới xứng đạo làm thày mà chớ.” (s.đ. d. trang 4)
Tiếp đến là lối hành đạo của giáo xứ. Lối này cũ quá rồi. Thường bổn đạo chỉ biết đọc kinh rườm rà luộm thuộm. Cần phải điều chỉnh lại việc kinh hạt và dạy cho bổn đạo biết cầu nguyện theo phụng vụ. Đạo của giáo hữu là đạo tình cảm và theo lòng sùng kính mà chưa phải là đạo phụng vụ.
Cuối cùng là các tu sĩ, đặc biệt là nữ tu. Nữ tu bây giờ xây cất nhiều quá! Coi chừng có vấn đề đức nghèo khó mà vô tình họ không để ý hay bỏ qua. Chúng ta cũng phải nghĩ đến những người bên ngoài đạo nữa, xem lối sống và hành đạo của chúng ta có sinh gương xấu hay gây khó chịu cho người ta không, như đi rước kiệu nghênh ngang ngoài đường phố làm cản trở giao thông, như tiệc tùng linh đình tốn phí, như phiền nhiễu giáo dân trong vấn đề tiền bạc v.v...
Nói tóm lại, đứng trước một Hội thánh đang dần dần phục hồi lại khí thế như Hội thánh tại Việt Nam, chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng đồng thời cũng phải lưu tâm đến một số biểu hiện nguy hại có thể làm xói mòn sinh lực của Hội thánh chúng ta. Đó là :
- * tính thích phô trương, chuộng hình thức
- * tính cả nể và óc phong kiến
- * khuynh hướng háo thắng
- * tính ù lỳ cứ muốn trước sao sau vậy cho khỏi phải thay đổi rắc rối
- * thiếu nhân bản trong cách giao tế.