ĐỜI THƯỜNG

CHỨNG NHÂN GIỮA GIÒNG ĐỜI -

I.- ANH ROBERT DUTTON
    Là Kitô hữu xác tín và dấn thân, Robert Dutton điều khiển công ty RONA trong chức vụ chủ tịch tổng giám đốc từ năm 1992. Dưới sự quản trị của anh, RONA đã đứng đầu trong nước Canada về ngành buôn bán sản phẩm ngũ kim và những vật liệu xây cất.

    Robert Dutton có bằng cấp cử nhân ngành quản trị, chuyên môn về tài chánh và nghiên cứu thị trường của Trường Thương Mãi và Kinh Doanh Montréal năm 1977. Trong những năm gần đây, anh đã nhận được những giấy ban khen của nhiều cơ quan khác nhau, trong đó có Đại Học McGill. Anh cũng rất hoạt động trong những công tác từ thiện khác nữa.
“TÔI CÓ THỂ GIÚP BẠN ĐƯỢC KHÔNG?”

Đó không phải là một câu hỏi không đúng chỗ. Đối với một người như tôi đã lớn lên trong ngành buôn bán ngũ kim và ngày hôm nay đang điều khiển một xí nghiệp bán lẻ, thì câu nói: “Tôi có thể giúp bạn được không?”đã nằm trong ngữ vựng hằng ngày của tôi. Đó là điều tự nhiên mỗi khi tôi giúp đỡ những ai cần đến tôi.

Nhưng trong khuôn khổ bài nầy, thật tình tôi không thể giúp đỡ quí bạn được. Tôi không có tham vọng làm điều đó. Đúng hơn, tôi muốn “trình bày” với quí bạn sự hỗ trợ thiêng liêng đã cho phép tôi trở nên một người như ngày hôm nay. Sự hỗ trợ linh thiêng đó luôn luôn trở nên đèn soi và nhờ thế tôi đã triển khai những giá trị thâm sâu để hướng dẫn tôi trong mọi sự lựa chọn - trên bình diện cá nhân cũng như nghề nghiệp.

Tôi nay được 47 tuổi và mỗi lần tôi phải làm một sự lựa chọn quan trọng, mỗi khi ở ngã ba đường đời của tôi, tôi đã gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Kitô và Thánh Linh của Ngài. Và do đó tôi cũng tiếp cận với đức tin, đức cậy và đức mến. Với một tinh thần khiêm tốn, tôi mong ước được chia sẻ với quí bạn hành trình cá nhân của tôi trong việc gặp gỡ Thiên Chúa.

CUỘC GẶP GỠ ĐẦU TIÊN

Tôi được bốn tuổi khi cha mẹ tôi mở một cửa tiệm nho nhỏ bán ngũ kim và những vật liệu xây cất có tên gọi là RONA trong vùng Laval, tỉnh bang Québec, Canada. Những dãy hàng đinh ốc và đinh bù lon, những dãy kệ bày bán dụng cụ và những quầy hàng bán đủ các loại sơn đã trở thành mảnh đất giải trí của anh chị em tôi và của tôi nữa.

Chúng tôi đã sống thời thơ ấu hạnh phúc, được cha mẹ rộng lượng nuông chiều. Họ đã gieo nơi chúng tôi những giá trị thật cao cả. Những giá trị đó gây nguồn hứng khởi không những đối với những cam kết có tính cách cá nhân và nghề nghiệp mà còn là một cách sống đức tin của tôi. Cha mẹ tôi đã truyền đạt cho tôi ba giá trị thiết yếu sau đây:
  • Niềm vui được giúp đỡ kẻ khác: bằng việc làm tôi đã theo gương mẹ tôi và bằng việc cam kết trong cộng đồng như gương ba tôi đã sống.
  • Ý thức về bổn phận: bằng tinh thần trách nhiệm và tôn trọng những điều đã cam kết qua gương can đảm của mẹ tôi.
  • Sự quan trọng của gia đình: bằng cách đặt tầm mức quan trọng vào sự hợp nhất và liên kết giữa những phần tử trong gia đình với nhau.
Tôi thật may mắn có được những bậc cha mẹ như thế và tôi vô cùng biết ơn.

Cũng như những thiếu niên cùng thế hệ với tôi, tôi đã không được lớn lên trong một khung cảnh xã hội rất đạo đức. Đó là thời kỳ tiếp theo sau Công Đồng Vatican II, với mọi sự đảo lộn như người ta đã biết. Cha mẹ tôi đã có một thái độ mà tôi có thể tạm gọi là “chừng mực” đối với tôn giáo. Cần phải nói rõ là cha tôi đã sinh trưởng trong một môi trường mà căn rễ đạo giáo là Tin Lành. Khác với hầu hết những tín hữu tỉnh bang Québec, trong gia đình tôi không có ai sống đời thánh hiến, không có linh mục hay tu sĩ.

Khoảng mười sáu tuổi, tôi nhận thấy rằng tôi là người duy nhất thuộc một nhóm bạn bè năng lui tới nhà thờ trong giáo xứ của tôi. Tệ hơn nữa, tôi lại “thích” lui tới nhà thờ và thích cầu nguyện. Tôi cảm thấy bị thu hút bởi sự linh thánh. Tôi luôn luôn muốn được chia sẻ những giây phút sống thân mật với Thiên Chúa, cho dù rất vắn vỏi. Tôi cảm thấy cần được một sự hiện diện của Bên Trên.

Lúc bấy giờ tôi thật sự ý thức sự hiện hữu của Thiên Chúa, một Thiên Chúa đồng hành với tôi và để mắt trông coi tôi. Tôi thường nhớ tới Thánh vịnh số 8, câu 5: “Con người là chi mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm?” Điều đó đã mang lại cho tâm hồn thanh xuân của tôi những vấn nạn sau đây: Thiên Chúa là ai mà yêu thương chúng ta như thế? Nếu Ngài đến gặp gỡ tôi, liệu tôi có hiểu được điều Ngài mong muốn nơi tôi không?

Lúc mười sáu tuổi, người ta thắc mắc rất nhiều về tương lai, về những gì sẽ xảy ra trong cuộc đời mình. Người ta mơ mộng, hoài bão nhiều lý tưởng. Người ta tìm kiếm một sứ vụ cho mình, một định hướng mà xưa kia thường mệnh danh là “ơn gọi”. Tôi không khác biệt với những đứa trẻ cùng lứa tuổi với tôi, nhưng sự say mê tôn giáo và đời sống nội tâm của tôi đã vượt rất xa những bạn bè và các bạn học cùng lớp. Và Thiên Chúa Quan Phòng đã không đặt để một người yêu trên đường đời để tôi có thể chia sẻ cuộc sống với người đó.

Bởi vì tôi không tìm được câu trả lời cho những vấn nạn của tôi, tôi bắt đầu say mê đọc Lời Chúa để hiểu biết Ngài nhiều hơn. Cuối cùng tôi nhận ra rằng:
  • Thiên Chúa đã chọn tôi và tôi là con Ngài, con rất yêu dấu của Ngài.
  • Ngài đã yêu tôi trước tiên. Tôi nhận chân điều đó qua cha mẹ tôi mà Ngài đã ban tặng.
  • Ngài đã chúc phúc cho tôi bằng cách trao ban đức tin cho tôi.
  • Ở trong tôi có một cung thánh mà tôi có thể tha hồ gặp gỡ Ngài. Tôi sẽ không bao giờ cô đơn.
Nhờ sự thinh lặng, cầu nguyện và rước lễ, Ngài đã trở thành nơi trú ẩn của tôi. Tôi cảm nhận một cách chắc chắn sự hiện hữu của Thiên Chúa là Cha đã cho chúng ta Con Ngài, tử nạn và phục sinh cho chúng ta. Đó là cốt lõi đức tin của tôi.

CUỘC GẶP GỠ THỨ HAI

Tôi lăn xả vào việc học, ngoài ra còn dấn thân vào những công việc của xí nghiệp gia đình. Do đó tôi khá bận rộn. Sau thời gian học tập ở Trường Kinh Doanh và Thương Mãi, tôi đã duyệt xét tỉ mỉ những cơ hội liên quan đến nghề nghiệp đang mở rộng trước tầm mắt tôi. Lúc bấy giờ tôi quyết định đảm trách một vai trò ngày càng lớn mạnh ở ngay trong xí nghiệp gia đình để chuẩn bị một ngày nào đó giúp đỡ cha mẹ tôi làm cho xí nghiệp phát triển hơn lên.

Vào thời điểm đó, tôi là con người dè dặt và e lệ. Tôi thiếu sự tự tin ở nơi tôi. Đó là một khuyết điểm lớn lao mà tôi đã thành công trong việc khắc phục được nhờ những cố gắng phi thường.

Tôi luôn luôn nói với cha mẹ tôi là tôi sẽ làm việc trong tiệm bán ngũ kim của cha mẹ tôi, nhưng chẳng bao giờ sẽ làm việc cho một đại xí nghiệp có tên gọi là RONA. Sự tổ hợp loại đó không làm tôi thích thú, cho dù cha tôi hãnh diện ra mặt khi được đóng góp vào sự hình thành như vậy.

Nhưng vài tuần lễ sau khi hoàn tất việc học, một cuộc thi tuyển nhân dịp đó đã đưa tôi vào làm việc ở RONA. Người ta ủy thác cho tôi trong vòng hai năm ở cương vị cố vấn đặc trách việc đưa ra một dịch vụ nghiên cứu thị trường để bán hàng hóa. Và tôi đã bắt gặp tiếng sét ái tình đối với ngành buôn bán ngũ kim và vật liệu xây cất!

Trước hết tôi cảm thấy bị thu hút bởi sự thách đố mà RONA đã cung ứng cho tôi. Đó là một tổ hợp của những người dân tỉnh bang Québec đã chứng tỏ một sự lớn mạnh ngày cành vững chắc. Tổ hợp đó được nổi bật bởi sự linh động phi thường của những thành viên tổ hợp. Những người nầy đã bày tỏ và còn tiếp tục bày tỏ cho đến ngày hôm nay ý muốn của họ là ước mong xây đắp tổ hợp và nhìn thấy tổ hợp ngày càng lớn mạnh.

Tôi cũng bị thu hút bởi nhóm chuyên viên trong tổ hợp khắng khít làm việc với nhau. Nhờ họ, tôi đã tìm thấy tinh thần gia đình mà trong đó tôi đã lớn lên. Một năm sau, tôi được bổ nhiệm làm giám đốc dịch vụ để nghiên cứu thị trường. Ba năm sau, họ giao phó cho tôi hồ sơ quảng cáo. Rồi năm 28 tuổi, tôi trở thành phó tổng giám đốc đặc trách nghiên cứu thị trường và phát triển.

Khi gần ba mươi tuổi, tôi đã quyết định làm bảng tổng kết đầu tiên về cuộc đời tôi. Lúc đó tôi đang đi vào giai đoạn thứ hai rất quan trọng trong đời sống tôi. Vào cái tuổi đó, người ta bắt đầu ý thức thời gian đi qua rất nhanh. Người ta nhìn lại quá khứ và bắt đầu cân nhắc tầm mức quan trọng của những mục tiêu đã vạch ra hay ít nhất là những chuyển hướng của cuộc đời, bắt đầu từ sự thực hiện những dự án canh cánh bên lòng. Do đó người ta thấy rõ ràng hơn những ước mơ của đời mình.

Tôi đã lợi dụng một chuyến đi về miền Tây Canada để suy tư về cuộc đời của tôi. Tôi đang có một nghề nghiệp trong tay khá đảm bảo. Tôi còn độc thân và chưa bao giờ gặp được một người đàn bà mà tôi ao ước lập gia đình với người đó. Lúc bấy giờ tôi đã ý thức về một điều rất quan trọng: tôi không cảm thấy sự độc thân đó như là một thách đố. Đứng trước sự ghi nhận đó, tôi cảm thấy sẵn sàng phác họa một chương trình với những mục tiêu rõ rệt cho đời sống cá nhân cũng như đời sống nghề nghiệp và tâm linh.

Đối với đời sống cá nhân, tôi có những quyết định sau đây:
  • Tôi trao phó cho Chúa Quan Phòng để Ngài định liệu về vấn đề độc thân của tôi.
  • Tôi đặt trọng tâm vào việc sống một đời sống quân bình, bao gồm việc đặt để một chỗ quan trọng trong cuộc sống của tôi đối với gia đình, bè bạn và sức khoẻ thể xác cũng như tâm linh.
  • Tôi đặc biệt nhấn mạnh đến những cam kết trong đời sống xã hội.
Đối với đời sống nghề nghiệp, tôi lấy nguồn cảm hứng từ câu nói của Aristote: “Người ta thành nhân bằng cách mỗi ngày vươn lên.” Vì vậy tôi ước định:
  • Tôi luôn luôn được thúc đẩy bởi động cơ chấp nhận những thách đố nhằm đưa tới việc thích thú phục vụ kẻ khác.
  • Tôi muốn một ngày kia điều hướng định mệnh của công ty. Tôi đã có một thị kiến và tôi sẵn sàng làm việc tận lực để những tổ viên độc lập của RONA có một chỗ đứng xứng đáng với họ trong nền kinh tế của tỉnh bang Québec.
Đối với đời sống tâm linh, tôi quyết định để Chúa ảnh hưởng nhiều hơn trong việc quyết định những mục tiêu vươn lên của tôi. Vì vậy tôi bắt đầu suy tư về đời sống đạo đức cá nhân và luân lý của tôi. Lúc bấy giờ tôi đã đưa ra ba nguyên tắc để đóng khung cuộc đời của tôi và phong cách quản trị của tôi:
  • Không làm việc chỉ vì đồng tiền mà thôi: đừng để đồng tiền làm trung tâm điểm những mục tiêu của đời sống, quí trọng đồng tiền nhưng không tôn sùng nó.
  • Nên thận trọng với quyền bính: phải ý thức rằng quyền bính là một thứ nha phiến phát sinh những ảo tưởng khiến xa rời thực tế, xa rời những giá trị đích thực.
  • Đừng bao giờ tìm kiếm sự biết ơn của quần chúng: điều gì tôi làm là làm cho Thiên Chúa, chứ không phải cho ai khác. Tôi muốn được phục vụ bằng cách lấy nguồn cảm hứng từ Đức Kitô không tự cho mình ngang hàng với Thiên Chúa. Ngài đã làm người để trở thành một tôi đòi (Xem Phi-lip-phê 2, 6-11).
Tôi bắt đầu suy tư về cách thức làm cho đức tin của tôi lớn lên. Lại một lần nữa, tôi tự hỏi điều mà Thiên Chúa có thể chờ đợi nơi tôi. Câu hỏi thời danh: “Tôi có thể giúp bạn được không?” lại xuất hiện. Giúp đỡ Đức Kitô, phục vụ Ngài, trước hết, như thánh sử Mát-Thêu đã công bố là lo cho những người bị bỏ rơi, những người nghèo khó, những tù nhân, theo gương những khuôn mẫu thời đại là Jean Vanier, Mẹ Têrêxa…

Tôi phải đối diện với một song đề. Một mặt, tôi chưa sẵn sàng buông bỏ hết mọi mục tiêu nghề nghiệp, tôi có nhiều việc phải làm trên đời nầy. Mặt khác, tôi muốn nuôi dưỡng đời sống nội tâm.

Trước hết tôi thực hành thường xuyên hơn việc nhận lãnh bí tích Thánh Thể và bí tích hòa giải. Tiếp theo đó tôi đặt cho mình một kỷ luật bằng cách mỗi ngày dành nhiều thời giờ hơn cho việc cầu nguyện, đọc và suy gẫm Phúc Am. Dần dần tôi quen với sự thinh lặng của Đấng nghe tôi trong cô tịch. Sự cầu nguyện tới một cách tự nhiên trong cuộc sống nội tâm của tôi, như thần học gia Henri Nouwen đã quả quyết: “Cầu nguyện là suy tư và sống trước mặt Thiên Chúa. Do đó người ta cầu nguyện liên lĩ và đó cũng là cách thức mà tôi cầu nguyện.”

Bắt đầu từ đó, sự cầu nguyện đã chiếm một vị thế căn bản trong đời sống tôi. Không có sự cầu nguyện, cuộc đời của tôi là một chuỗi tiếp nối những biến cố vô nghĩa, những hư từ, những cuộc hội ngộ vô bổ. Tôi cảm thấy một nhu cầu thâm sâu được hằng ngày chia sẻ với Chúa về những gì tôi sống và cảm nhận, những đau buồn cũng như mừng vui, những gì làm tôi hứng khởi hay nổi loạn. Tôi cũng chia sẻ với Chúa những quyết định của tôi để Ngài soi sáng.

Đó không phải là những lời cầu nguyện thâm sâu. Thật ra những lời cầu nguyện đó chất chứa những vọng động, những mê lầm và những sự chia trí. Tuy nhiên những giây phút đó đã giúp tôi gặp lại sự tự do. Đó là những giây phút làm cho tôi được dịu bớt, được tiếp dưỡng khí và nhất là chứng minh cho tôi thấy rằng tôi được Thiên Chúa yêu mến.

Vào lúc đặt lại vấn đề cho tuổi ba mươi - tam thập nhi lập - đời sống tâm linh của tôi còn giới hạn lắm. Tôi chưa hội nhập cuộc sống nội tâm đó vào trong đời sống của tôi một cách trọn vẹn. Dĩ nhiên cuộc sống nội tâm đó là một phần quan trọng, nhưng chưa trở thành chất xi-măng để hàn gắn tất cả những yếu tố kết thành đời sống lại với nhau. Nhưng tôi hy vọng Chúa sẽ làm cho tôi khám phá sự vươn lên có tính cách siêu đẳng mà Ngài đã mời gọi tôi. Đó là thời kỳ xây đắp trên sự cậy trông.

(CÒN TIẾP)