Nhân phẩm con người và đặc tính của nền văn hóa Á Châu
Phần II: Hội Nhập Phúc Âm Qua Việc: Gìn Giữ, Phát Huy và Cổ Võ
2.1.3. Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC): Một sự nhìn nhận muộn màng
Vào kỳ nghị hội lần đầu tiên vào năm 1974, FABC chỉ gián tiếp đề cập đến các nền văn hóa bản xứ, và chỉ xem chúng như là “các cội rễ vũ trụ” trong mọi nền văn hóa chính của Á Châu mà thôi. Một trong những lời đề nghị của Hội Đồng được đọc lại như sau: “rằng FABC, trong việc hợp tác với Bộ Chuyên Về Việc Rao Giảng Phúc Âm cho Các Dân Tộc và các Văn Phòng Thư Ký Tòa Thánh … để cùng rút ra một khái niệm thích hợp (như là cách thức để hội nhập) của việc phúc âm hóa vốn bao gồm cuộc đối thoại đích thực với những nền văn hóa sống động lâu đời của Á Châu như thuyết duy linh, vân vân.”
Vì sự đề cập gián tiếp và lơ là này, các dân tộc gốc bản xứ đã hoàn toàn bị quên lãng bởi các Đức Giám Mục tại Á Châu trong suốt gần 25 năm, dẫu rằng đây lại là cộng đồng thiểu số Kitô giáo lớn nhất tại Á Châu! Thậm chí ngay cả khi những vấn đề về sinh thái môi trường và nhân quyền được xem xét tới, thì những người dân tộc gốc bản xứ này vẫn còn chưa có ai them chú tới, kể cả FABC diện đối với những vấn đề về tâm linh, về việc phúc âm hóa lẫn việc đối thoại. Chính vì thế, vì công trình vĩ đại qua việc đối thoại liên tôn giáo và liên văn hóa, FABC khi đó mới chú trọng vào những người dân tộc gốc bản xứ.
Vào năm 1995 đã có một sự tham vấn về việc rao giảng phúc âm hóa và những người dân tộc gốc bản xứ. Công trình này đã được đính kèm trong Nghị Hội và mãi cho đến kỳ họp thứ bảy của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu vào năm 2000 nó mới được bàn thảo nhiều. Những đề nghị từ việc tham vấn của FABC vào năm 1995 đã được tóm lược lại trong các văn kiện của Nghị Hội và sau đó được đính kèm trong bản báo cáo hội thảo. Quan trọng hơn hết, có lẽ là vấn đề có liên quan đến người dân bản xứ, và nó đã chiếm một trong năm những mối quan tâm về mục vụ trong bảng báo cáo tổng kết của Nghị Hội. Thì lời phát biểu ngắn gọn này rất quan trọng trong việc tiếp cận thể luận: nó nhìn nhận về sự bóc lột xảy ra đối với các dân tộc bản xứ trong khi đó lại hoan nghênh những đóng góp về mặt văn hóa và thiêng liêng của họ. Nó đã tạo ra được tiếng van cùng với những tiếng nói được đưa ra trong suốt kỳ Nghị Hội vào năm 1998, cũng như tại Hội Đồng:
“Những người dân tộc gốc bản xứ chiếm một phần quan trọng thiết yếu trong xã hội và Giáo Hội tại Á Châu. Những cộng đồng này chính là những cộng đồng xưa cổ và gắn kết mật thiết với nhau, để bảo tồn những giá trị quan trọng về con người và xã hội. Ngày nay, tại rất nhiều nước ở Á Châu, quyền sở hữu về đất đai của họ đang bị đe dọa và những cánh đồng của họ đã bị biến thành những bãi trống vắng, tha ma; chính bản thân họ lại trở thành những đối tượng của việc bóc lột kinh tế, bị loại khỏi mọi thể chế chính trị, và được xem như là những thứ công dân hạng hai trong xã hội. Sự giải tán các bộ lạc, một quá trình được áp đặt ra nhằm gây chia rẽ họ và những cội rễ về xã hội lẫn văn hóa của họ, thậm chí lại là một chính sách bí ẩn ở tại nhiều quốc gia. Những nền văn hóa của họ đang bị khống chế bởi những nền văn hóa khác. Những dự án của trời đất về việc khai thác các khoáng sản, lâm nghiệp và những nguồn nước dự trữ, trong những vùng đất vốn là nhà cửa, quê quán của nhóm dân bộ lạc, đang bị làm cạn kiệt gây bất lợi lớn cho các bộ lạc.”
“Trong xã hội hiện nay của chúng ta, một xã hội đang có sự xói mòn một cách đều đặn về những giá trị truyền thống Châu Á, những cộng đồng Á Châu bản xứ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Gần gũi với thiên nhiên, họ bảo tồn các giá trị và quan niệm sống với vũ trụ trời đất, với cách xẽ chia đẳng cấp trong một xã hội dân chủ. Họ vẫn rất ư là mộc mạc, và hiếu khách. Những giá trị và nền văn hóa của họ có thể giúp sửa đổi lại nền văn hóa thời nay, một nền văn hóa vốn bị các giá trị về vật chất và tiêu dùng thống trị.”
Thì mối quan ngại chính về mục vụ này của FABC trong giai đoạn từ năm 2000-2004 đặt Giáo Hội trong tình thần hiệp kết với các dân tộc bản xứ khi họ đang cố dành được sự nhìn nhận và công lý xã hội, và cũng đồng thời Giáo Hội biết mở rộng ra với các nền tôn giáo và các giá trị văn hóa bản xứ. Trước khi xem xét việc làm cách nào để chúng ta có thể thi hành được mối quan tâm mục vụ này, tôi muốn đề cập ngắn gọn tới việc giảng dạy của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị và lịch sử đã giúp hình thành nên các Giáo Hội tại Á Châu.
(Còn tiếp …..)
Phần II: Hội Nhập Phúc Âm Qua Việc: Gìn Giữ, Phát Huy và Cổ Võ
2.1.3. Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC): Một sự nhìn nhận muộn màng
Vào kỳ nghị hội lần đầu tiên vào năm 1974, FABC chỉ gián tiếp đề cập đến các nền văn hóa bản xứ, và chỉ xem chúng như là “các cội rễ vũ trụ” trong mọi nền văn hóa chính của Á Châu mà thôi. Một trong những lời đề nghị của Hội Đồng được đọc lại như sau: “rằng FABC, trong việc hợp tác với Bộ Chuyên Về Việc Rao Giảng Phúc Âm cho Các Dân Tộc và các Văn Phòng Thư Ký Tòa Thánh … để cùng rút ra một khái niệm thích hợp (như là cách thức để hội nhập) của việc phúc âm hóa vốn bao gồm cuộc đối thoại đích thực với những nền văn hóa sống động lâu đời của Á Châu như thuyết duy linh, vân vân.”
Vì sự đề cập gián tiếp và lơ là này, các dân tộc gốc bản xứ đã hoàn toàn bị quên lãng bởi các Đức Giám Mục tại Á Châu trong suốt gần 25 năm, dẫu rằng đây lại là cộng đồng thiểu số Kitô giáo lớn nhất tại Á Châu! Thậm chí ngay cả khi những vấn đề về sinh thái môi trường và nhân quyền được xem xét tới, thì những người dân tộc gốc bản xứ này vẫn còn chưa có ai them chú tới, kể cả FABC diện đối với những vấn đề về tâm linh, về việc phúc âm hóa lẫn việc đối thoại. Chính vì thế, vì công trình vĩ đại qua việc đối thoại liên tôn giáo và liên văn hóa, FABC khi đó mới chú trọng vào những người dân tộc gốc bản xứ.
Vào năm 1995 đã có một sự tham vấn về việc rao giảng phúc âm hóa và những người dân tộc gốc bản xứ. Công trình này đã được đính kèm trong Nghị Hội và mãi cho đến kỳ họp thứ bảy của Thượng Hội Đồng Giám Mục Á Châu vào năm 2000 nó mới được bàn thảo nhiều. Những đề nghị từ việc tham vấn của FABC vào năm 1995 đã được tóm lược lại trong các văn kiện của Nghị Hội và sau đó được đính kèm trong bản báo cáo hội thảo. Quan trọng hơn hết, có lẽ là vấn đề có liên quan đến người dân bản xứ, và nó đã chiếm một trong năm những mối quan tâm về mục vụ trong bảng báo cáo tổng kết của Nghị Hội. Thì lời phát biểu ngắn gọn này rất quan trọng trong việc tiếp cận thể luận: nó nhìn nhận về sự bóc lột xảy ra đối với các dân tộc bản xứ trong khi đó lại hoan nghênh những đóng góp về mặt văn hóa và thiêng liêng của họ. Nó đã tạo ra được tiếng van cùng với những tiếng nói được đưa ra trong suốt kỳ Nghị Hội vào năm 1998, cũng như tại Hội Đồng:
“Những người dân tộc gốc bản xứ chiếm một phần quan trọng thiết yếu trong xã hội và Giáo Hội tại Á Châu. Những cộng đồng này chính là những cộng đồng xưa cổ và gắn kết mật thiết với nhau, để bảo tồn những giá trị quan trọng về con người và xã hội. Ngày nay, tại rất nhiều nước ở Á Châu, quyền sở hữu về đất đai của họ đang bị đe dọa và những cánh đồng của họ đã bị biến thành những bãi trống vắng, tha ma; chính bản thân họ lại trở thành những đối tượng của việc bóc lột kinh tế, bị loại khỏi mọi thể chế chính trị, và được xem như là những thứ công dân hạng hai trong xã hội. Sự giải tán các bộ lạc, một quá trình được áp đặt ra nhằm gây chia rẽ họ và những cội rễ về xã hội lẫn văn hóa của họ, thậm chí lại là một chính sách bí ẩn ở tại nhiều quốc gia. Những nền văn hóa của họ đang bị khống chế bởi những nền văn hóa khác. Những dự án của trời đất về việc khai thác các khoáng sản, lâm nghiệp và những nguồn nước dự trữ, trong những vùng đất vốn là nhà cửa, quê quán của nhóm dân bộ lạc, đang bị làm cạn kiệt gây bất lợi lớn cho các bộ lạc.”
“Trong xã hội hiện nay của chúng ta, một xã hội đang có sự xói mòn một cách đều đặn về những giá trị truyền thống Châu Á, những cộng đồng Á Châu bản xứ đóng một vai trò hết sức quan trọng. Gần gũi với thiên nhiên, họ bảo tồn các giá trị và quan niệm sống với vũ trụ trời đất, với cách xẽ chia đẳng cấp trong một xã hội dân chủ. Họ vẫn rất ư là mộc mạc, và hiếu khách. Những giá trị và nền văn hóa của họ có thể giúp sửa đổi lại nền văn hóa thời nay, một nền văn hóa vốn bị các giá trị về vật chất và tiêu dùng thống trị.”
Thì mối quan ngại chính về mục vụ này của FABC trong giai đoạn từ năm 2000-2004 đặt Giáo Hội trong tình thần hiệp kết với các dân tộc bản xứ khi họ đang cố dành được sự nhìn nhận và công lý xã hội, và cũng đồng thời Giáo Hội biết mở rộng ra với các nền tôn giáo và các giá trị văn hóa bản xứ. Trước khi xem xét việc làm cách nào để chúng ta có thể thi hành được mối quan tâm mục vụ này, tôi muốn đề cập ngắn gọn tới việc giảng dạy của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô Đệ Nhị và lịch sử đã giúp hình thành nên các Giáo Hội tại Á Châu.
(Còn tiếp …..)