D. Ơn gọi và Sứ mệnh: “Gia đình phải là Gia đình thực sự”

Bản chất rất tự nhiên của gia đình là một ơn gọi và sứ mệnh của Thiên Chúa. Mỗi Kitô hữu được kêu gọi tìm kiếm Nước Thiên Chúa trên hết tất cả mọi sự. Đây là ơn gọi trước tiên và phổ biến đối với tất cả mọi người. Các cặp vợ chồng đáp trả lời mời gọi này bằng đường lối của đời sống hôn nhân và gia đình. Họ đến với Nước Thiên Chúa bằng cách kết hôn. Cách thức họ sống đời sống hôn nhân và gia đình biểu thị lòng trung thành của họ đối với Nước Thiên Chúa. Họ đã biểu lộ sự cam kết hướng đến Nước Thiên Chúa trong tình yêu của họ đối với người bạn đời, trong việc biểu lộ tình yêu đó trong hoạt động hôn nhân, trong cách nuôi dạy con cái, trong cách sử dụng của cải vật chất. Thực vậy, hôn nhân là một ý thức đúng đắn, một sự định hướng cơ bản hướng về Nước Thiên Chúa.

77. Lời mời gọi gia đình cho sứ mệnh là: “Gia đình, phải trở thành gia đình thực sự. Sứ mệnh này được bén rễ trong lòng người tin nơi Bí tích Thánh Tẩy và Bí tích Thêm Sức. Được thu hút từ tình yêu vô điều kiện của Thiên Chúa, tự bản chất là một cặp vợ chồng đã thúc đẩy họ truyền giáo. Kinh nghiệm của họ về Thiên Chúa trong hôn nhân và thông qua hôn nhân truyền giáo cho họ. Đích thực là một cặp vợ chồng, họ có thừa tác vụ đặc biệt của Giáo Hội bên trong và bên ngoài gia đình (LG 11). Họ là thừa tác viên lẫn nhau. Họ tìm kiếm Nước Thiên Chúa cho nhau. Họ dạy dỗ con cái chọn lựa Nước Thiên Chúa trên hết mọi sự. Các thành viên của toàn gia đình là thừa tác viên đối với một người trong gia đình. Thông qua thập giá và phục sinh của đời sống vợ chồng hằng ngày, việc loan báoTin Mừng lẫn nhau xảy ra trong lúc bình thường, trong lúc lo âu cũng như trong lúc vui sướng. Nó xảy ra thông qua tình yêu, sự chăm sóc và phục vụ cho nhau giữa người chồng và người vợ, truyền cảm hứng và khuyến khích nhau để làm tròn trách nhiệm trong tình yêu chung thủy qua việc yêu thương và chăm sóc con cái cũng như tình yêu và sự vâng phục của con cái họ. Đặc biệt đối với gia đình Kitô giáo, gia đình là “nơi Tin Mừng được loan báo và từ đó Tin Mừng toả ra… tất cả mọi thành viên loan báo Tin Mừng và được loan báo Tin Mừng” (EN, 71). Gia đình là nơi mà con người thật sự là chính mình và lớn lên một cách toàn diện. Đó là nơi mà ý thức và niềm say mê phục vụ trong những cách thức khác nhau của đời sống được nuôi dưỡng, bao gồm cả ơn gọi được ủy thác sứ mệnh (RM 80; FC 54). Trong ảnh hưởng thường ngày của các quan hệ nhân bản trong gia đình, các thành viên làm chứng cho Nước Thiên Chúa và cái chết cùng sự phục sinh của Đức Kitô, Tin Mừng cứu độ. Đây thực sự là một bài giáo lý về sự sống. Đó là sứ mệnh nội tại (missio ad intra) của những người chồng và những người vợ cùng gia đình họ.

78. Nhưng không chỉ một người nào khác làm cho các thành viên gia đình công bố Nước Thiên Chúa cùng cái chết và sự phục sinh cứu độ của Đức Kitô. Họ cũng được kêu gọi làm điều này cho những người khác.

“Gia đình, Trở nên chính mình!”. Thông điệp này cũng kêu gọi gia đình hướng đến việc truyền giáo bên ngoài cho những người khác (missio ad extra). Các mối quan hệ yêu thương được phát triển trong gia đình - giữa người chồng và người vợ, giữa cha mẹ và con cái, giữa con cái với nhau và giữa các thành viên của gia đình nguyên tử và đại gia đình - có một chiều kích truyền giáo. Họ hoàn thiện Lời Chúa: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau" (Ga 13,35). Toàn thể gia đình cũng được kêu gọi minh hoạ cho một con đường duy nhất đó chính là thực tại Gia đình là Giáo Hội. Hôn nhân và trở thành gia đình là con đường để Gia đình là Giáo Hội và trở thành Giáo Hội. Bằng cách dưỡng nuôi sự mật thiết của con người và dấn thân vào hạnh phúc cá nhân của tất cả thành viên gia đình, gia đình thăng tiến bằng lời nói và hành động bằng thực tế và tầm quan trọng của yêu thương, các quan hệ mang lại sự sống trong Giáo hội và trong các cơ cấu của Giáo Hội.

79. Gia đình mang đến sự thể hiện cụ thể xác tín Kitô giáo rằng Thiên Chúa là Tình Yêu Tự Hiến. Gia đình thiêng liêng hoá sự tốt lành khoan dung của Thiên Chúa, đặc biệt trong bối cảnh đau khổ lan rông và quá sức đối với con người. Tình yêu dấn thân, chung thủy và vun đắp (mật thiết) trong gia đình không có bất kỳ sự phản bội nào làm cho tình yêu đó đáng tin cậy hơn vào các giá trị của Tin Mừng về lòng tín thác hoàn toàn vào sự quan tâm không bao giờ vơi của Thiên Chúa - trong tình yêu bền bỉ, trung tín, bao dung và vun đắp của Đức Kitô dành cho chúng ta, Gia đình của Thiên Chúa. Giá trị biểu trưng này của hôn nhân Kitô giáo và gia đình đã bị phá vỡ bằng tính ích kỷ, sự vô tình, tính nhỏ mọn và bất lương hay sự quan tâm về kinh tế, tâm lý hoặc xã hội một cách thái quá.

80. Khi Thiên Chúa nói về công trình sáng tạo, “Quả là rất tốt đẹp”, Thiên Chúa không chỉ đề cập đến vẻ đẹp vật chất. Toàn thể địa cầu tốt đẹp vì nó xuất phát từ ý định của Thiên Chúa và là hình ảnh của sự tốt lành và tình yêu của Thiên Chúa. Nó được đánh dấu bằng uy quyền yêu thương của Thiên Chúa. Thiên Chúa ngự trị trên mọi loài thụ tạo. Chiều kích luân lý và tinh thần đó có thể được áp dụng cách đặc biệt nơi lời mà Thiên Chúa phán cùng Adam và Eva, cặp chồng đầu tiên và cũng là tổ tông chúng ta. “Hãy đi và sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất”. Lệnh truyền này không chỉ hàm ý về vật chất, hơn thế họ còn phải làm đầy mặt đất với sự tốt lành, vẻ đẹp, công lý và tình yêu của Thiên Chúa. Kinh nghiệm của tổ tông chúng ta về thực tại tội lỗi và sự hạn chế của con người đã làm họ hiểu về tiến trình đau đớn trong sự phát triển và trưởng thành của con người. Nhưng sự hạn chế và thiếu sót của con người cũng không cản trở sự hoàn thiện ơn gọi và sứ mệnh của gia đình vì lời hứa của Thiên Chúa vẫn trung thành liên lỉ (Is 38,19; Gr 31,3). Vì thế, trong thử thách, luân lý nguyên thủy và sự sáng chói về tinh thần của nhân loại được lan rộng trên khắp mặt đất và phản ánh thích hợp về Thiên Chúa, cho dù có hạn chế.

81. Vì thế, sứ mệnh của gia đình là hướng đến những người khác trong các lĩnh vực xã hội, văn hoá, chính trị và giáo dục. Gia đình “là một trong những tác nhân hiệu quả nhất của Giáo Hội trong việc loan báo Tin Mừng” (EA, 46). Thực tại này đặt ra vấn đề các nhà lãnh đạo Giáo Hội phải làm gì để củng cố sự hiện diện và các mối quan hệ của gia đình - đó là xây dựng một gia đình thực sự là một dấu hiện biến đổi của Nước Thiên Chúa hay xây dựng gia đình thực sự là Giáo Hội tại gia. Thật là một thách đố khi trao cho gia đình sứ mệnh giúp đỡ các thành viên sống ra bên ngoài đời sống hôn nhân và gia đình để phù hợp với các giá trị của Nước Thiên Chúa hay các giáo huấn của Tin Mừng và của Giáo Hội. Làm thế nào để việc trao phó này được xảy ra chính là ưu tư chủ yếu của thừa tác vụ gia đình.

1. Sứ mệnh và Toàn cầu hoá Kinh tế

82. Như chúng ta đã thấy, nhiệm vụ của mỗi gia đình là phản ánh sự tốt lành, vẻ đẹp, công lý và tình yêu của Thiên Chúa, đó là nhiệm vụ khẩn thiết cấp bách hơn bao giờ hết trong lĩnh vực hoạt động xã hội và luân lý của cuộc sống. Vì thế, những mục vụ và suy tư của chúng ta về sứ mệnh của gia đình làm cho chúng ta chú tâm đến hiện tượng và tiến trình của hoàn cầu hoá cùng các vấn đề phát sinh từ nó. Thực vậy, toàn cầu hoá làm cho thực tế hơn một cụm từ thường dùng trong hai thập kỷ qua: thế giới là một ngôi làng chung. Chúng ta có thể nói rằng toàn cầu hoá trở thành công cụ quan trọng làm cho các dân tộc, các chủng tộc và các nền văn hoá khác nhau của thế giới sống chung hoà bình và hoà hợp, cho dù người giàu hay người nghèo của thế giới cũng phải chia sẻ một cách công bằng và không thiên vị các sản phẩm của công trình sáng tạo và các quyền lợi của sự phát triển mà toàn thể thế giới là một gia đình nhân loại hoà hợp dưới quyền Thiên Chúa, nơi không có chổ cho chiến tranh, xung đột chia rẽ, định kiến, phân biệt đối xử, loại trừ, đàn áp, cô lập và cách ly khỏi xã hội.

83. Tuy nhiên, thật đáng buồn, những kết quả của toàn cầu hoá hiện nay còn xa vời so với viễn tượng thần học đã được mường tượng. Công bằng xã hội và hoà bình, cương vị quản lý của thụ tạo, phải có trách nhiệm với người khác, lợi ích chung của một gia đình nhân loại vẫn là những ảo tưởng. Trong nhiều trường hợp, toàn cầu hoá làm trầm trọng thêm sự bất công, nghèo đói, áp bức, bóc lột và sự tàn phá môi trường trong hầu hết các quốc gia Á Châu. Xu thế cạnh tranh đã bỏ mặc hàng trăm triệu người Á Châu tụt hậu đằng sau theo thuyết Darwin về kinh tế và văn hoá toàn cầu đang thịnh hành khắp nơi. Suy tư về tình hình đó trong ánh sáng đức tin dạy chúng ta rằng con đường hiện nay mà toàn cầu hoá đang theo đuổi là một sai lầm khủng khiếp cho gia đình nhân loại và cần phải tìm kiếm một lựa chọn khác.

84. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II có lý khi chỉ ra rằng toàn cầu hoá nhằm mang lại công bằng xã hội cho thế giới phải là “toàn cầu hoá trong tình liên đới, toàn cầu hoá không cách ly ai ra khỏi nhịp điệu phát triển xã hội”. [Thông điệp ngày Hoà Bình Thế Giới, 01-01-1998, số 3]. Điều này đòi hỏi sự điều chỉnh đúng đắn của các uy lực thị trường tự do vốn hiện đang nằm trong tầm kiểm soát có hiệu quả của các thế lực kinh tế vuợt trội và hùng mạnh hơn của thế giới. Toàn cầu hoá phải được quy định bằng các quy tắc pháp lý quốc tế và các nguyên tắc luân lý phổ quát để chi phối việc sử dụng và phát triển sản phẩm của công trình sáng tạo và việc phân phối và các quyền lợi của sự phát triển. Dĩ nhiên, trong ánh sáng của các giáo huấn xã hội của Giáo Hội, những nguyên tắc có thể là: bảo tồn tính nguyên vẹn của công trình sáng tạo, đạt đến mục tiêu phổ quát các sản phẩm của công trình sáng tạo, sự phát triển con người phải toàn diện, việc phân phối công bằng các quyền lợi của sự phát triển, các lựa chọn cho người nghèo, và sự tham gia của họ vào sự phát triển. Các nguyên tắc này phải được Giáo Hội tại Á Châu giảng dạy một cách mạnh mẽ thông qua Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu, đặc biệt là các Học viện của Giám Mục về Hoạt động Xã Hội và các Học viện Gặp gỡ Đức Tin về Hoạt động Xã Hội.

2. Gia đình và Toàn cầu hoá về Văn hoá

85. Chúng ta cũng cần am hiểu vấn đề toàn cầu hoá văn hoá và sự tấn công ngày càng gia tăng của nền văn hoá hậu hiện đại. Ngày nay quyền tự quyết cá nhân và các quyền con người cá nhân được tăng cường và bảo vệ. Những giá trị cơ bản này là không thể thiếu được vì lợi ích chung. Vì thế, đối diện với nền văn hoá của chế độ gia trưởng đang phổ biến, thật là cần thiết nhấn mạnh và thăng tiến các quyền của phụ nữ ở Á Châu. Mặt khác, có lẽ chúng ta phải nhận thức rằng, ngày nay ít có sự nhấn mạnh đến gia đình như là “cộng đồng của tình yêu và sự sống” và có lẽ một số trường hợp nhấn mạnh quá mức quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi cộng đồng, nhấn mạnh hơn nữa quyền lợi cá nhân của các cặp vợ chồng và con cái trên cả lợi ích của gia đình và cộng đồng. Trong mỗi trường hợp, điều khẩn thiết nhất là sự cân bằng đúng mực giữa các thái cực đang căng thẳng.

86. Tuy nhiên, bản chất rất tự nhiên của tự do liên quan đến hôn nhân cũng bị đe doạ. Thay vì trở thành “khả năng thực hiện chân lý trong kế hoạch của Thiên Chúa về hôn nhân và gia đình”, sự tự do được hiểu theo nghĩa của chủ nghĩa hậu hiện đại “là sức mạnh tự thân của việc tự khẳng định mình, thường chống lại người khác, để có thể sống ích kỷ cho bản thân” (FC,6). Hiện nay, cách suy nghĩ như thế về tự do có thể thấy trong các nỗ lực khác nhau để luật hoá các thói quen và các giá trị vốn đối nghịch trực diện với các truyền thống đức tin của chúng ta, như ly dị, hôn nhân đồng tính, phá thai và nhiều ý tưởng khác qua cụm từ mang tính hai mặt “sức khoẻ sinh sản” được hiểu ngầm trong các nghị hội của Liên Hiệp Quốc. Vì thế, thật cần thiết để nhận thức sâu sắc “các quyền” mới của nền văn hoá đang nổi lên ép buộc sự công nhận phổ biến.

87. Giáo Hội luôn mãi mãi tin rằng có một chân lý phổ quát, mặc dù thừa nhận nó được diễn tả bằng những giới hạn về ngôn ngữ và văn hoá. Mặt khác, thuyết tương đối về tín điều và luân lý xem nhẹ giá trị của chân lý này và cho rằng sự thật này thay đổi theo thời gian. Vì vậy, các chỉ trích chế giễu các học thuyết của Giáo Hội là “lỗi thời” khi xác nhận hôn nhân là một bí tích và khước từ hôn nhân đồng tính, ly dị, ngừa thai và phá thai… Trớ trêu là họ tuyên bố chắc chắn một cách võ đoán rằng các học thuyết của Giáo Hội phải được thay đổi theo thời gian “nếu Giáo Hội còn có sức lôi cuốn và ý nghĩa”. Thuyết tương đối về tín lý và luân lý của nền văn hoá đang nổi lên là điều mà chúng ta phải đương đầu trong việc loan báo Tin Mừng trong gia đình. Thực vậy, chúng ta chia sẻ nỗi thống khổ của những người chịu đau đớn khủng khiếp do ly dị, do tan vỡ hôn nhân, mất đi sự sống do phá thai… Vì vậy, Giáo huấn về chân lý phải được dạy với sự khiêm tốn hết sức, với lòng trắc ẩn và tình yêu vô biên (Ep 4,15). Điều này đòi hỏi sự chăm sóc và nuôi dưỡng thực sự về mục vụ cho các cặp hôn nhân và gia đình họ.

88. Loan báo Tin Mừng về văn hoá liên quan đến các chiều kích khác nhau. Chúng ta cần hiểu sâu hơn về nền văn hoá của chúng ta, nền văn hoá mà chúng ta đã trải qua nhiều kinh nghiệm về sự hiện diện của của Thiên Chúa. Hơn nữa, chúng ta cần loan báo nền văn hoá của chính chúng ta và gạn lọc chúng khỏi các truyền thống, các tín ngưỡng, các phong tục, và các thói quen vốn có thể không phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa khi hiểu theo đức tin Kitô giáo của chúng ta. Gia đình, nơi tiếp xúc và hấp thụ văn hoá đầu tiên, là nơi đề cao và thanh lọc văn hoá. Đó là cơ hội nắm bắt một nền văn hoá thấm nhuần tinh thần của Nước Thiên Chúa. Chúng ta cần hiểu đức tin của bản thân chúng ta trong ánh sáng của hạt giống trao ban Thần Khí của Lời Chúa nơi các tôn giáo và các truyền thống đức tin khác. Chúng ta tìm cách gom những quà tặng của Chúa Thánh Thần để đức tin của chúng ta được diễn đạt, được hiểu và được cử hành trong ngôn ngữ và trong đặc tính của văn hoá Á Châu. Cuối cùng chúng ta cần đương đầu với sự đe doạ văn hoá mới được sinh ra bởi toàn cầu hoá vốn tìm cách áp đặt quy tắc luân lý mới theo chủ nghĩa duy vật chất và theo thuyết tương đối.

3. Gia đình và các Phương tiện Truyền thông Xã hội

89. Các kênh chủ yếu của văn hoá thế giới mới là các phương tiên của truyền thông xã hội. Sức mạnh thông truyền và chi phối của chúng hoặc cho điều tốt hoặc cho điều xấu là hầu như không thể tin được. Ngay cả người nghèo cũng có thể tiếp cận một hoặc hai loại phương tiện truyền thông đại chúng. Thế giới của truyền thông là “toà giảng ở Areopagus (thành Athens Hy Lạp) đầu tiên” của thời đại hiện đại (RM,37c) và có một chiều kích luân lý. Các công cụ của chúng cung cấp “các cơ hội không giới hạn về thông tin, giáo dục, sự bành trướng văn hoá và ngay cả sự phát triển tinh thần (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô, Thông điệp Ngày Thế giới Truyền Thông 2004, Nguy cơ và Sự phong phú)

90. Đối với nhiều người, nhất là đối với thế hệ trẻ, các phương tiện của truyền thông xã hội là các phương tiện chủ yếu dành cho thông tin và giáo dục, là sự hướng dẫn và nguồn cảm hứng. Do đó Giáo Hội đã nhận thức được tầm quan trọng của các công cụ này và có năng lực và kỹ năng sử dụng chúng một cách hiệu quả cho sứ mệnh Loan báo Tin Mừng của Giáo Hội. “Cũng cùng những phương tiện truyền thông đại chúng này lại có khả năng làm hại đến gia đình bằng cách trình bày quan điểm không phù hợp thậm chí méo mó về cuộc sống, về gia đình, về tôn giáo và về luân lý” (Loc. cit.). Vì thế, đó là sứ mệnh của Giáo Hội để loan báo Tin Mừng cho chúng, tẩy sạch chúng và mang đến cho chúng những giá trị thích hợp của Tin Mừng và của Nước Thiên Chúa. Nhiều khả năng loan báo Tin Mừng trên phương tiện truyền thông đại chúng trong các bậc cha mẹ và gia đình họ. “Đối thoại giữa các gia đình và tránh nhiệm của chúng đối với truyền thông xã hội” (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô, Thông điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông, 1980) sẽ có ích đối với mỗi gia đình. Thông thường việc sử dụng phương tiện truyền thông đại chúng trong nhà thúc bách các nhà chức trách công đưa ra những hướng dẫn về phương tiện tiện đó dựa trên công lý và phẩm giá con người sẽ trở nên cần thiết. Hiệu quả của tác vụ gia đình đóng khung sức mạnh của gia đình và trực tiếp đưa nó đến nhiệm vụ quan trọng này.

4. Gia đình và Biến đổi Xã hội

91. Do bản chất rất tự nhiên của gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình đóng một vai trò xã hội. Nhưng điều này đặc biệt đúng đối với gia đình Kitô giáo. Bí tích hôn nhân ban cho “các cặp gia đình và các bậc cha mẹ Kitô giáo một sức mạnh và một cam kết sống ơn gọi giáo dân của họ và vì thế ‘tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng cách dấn thân trong các công việc trần tục và bằng cách xếp đặt chúng vào kế hoạch của Thiên Chúa’” (FC,47; LG31). Kế đến, thực hiện việc “xếp đặt các công việc trần tục vào kế hoạch của Thiên Chúa” hay giúp sự biến đổi xã hội là một phần của sứ mệnh phục vụ hay sứ mệnh vương đế của gia đình. Tuy nhiên, sứ mệnh như thế tương tự là sứ mệnh của mỗi gia đình, vì không gia đình nào bị cô lập khỏi thế giới luôn luôn cần biến đổi. Và cuộc hành trình đến Nước Thiên chúa là cuộc hành trình của mỗi gia đình.

92. Trong xã hội Á Châu, sự biến đổi là thật cần thiết trong ít nhất ba khu vực chủ yếu: việc tìm kiếm công bằng xã hội và hoà bình, sự toàn diện trong dịch vụ công, và sự toàn diện của công trình sáng tạo. Bất công thường được tạo nên trong các cơ cấu xã hội, bao gồm cơ cấu gia đình, như trong trường hợp chế độ gia trưởng. Sự khác biệt về văn hoá, sắc tộc, chính trị và kinh tế làm nổ ra các cuộc xung đột bạo lực. Vấn nạn tham nhũng trong dịch vụ công không chỉ đơn thuần thuộc về thái độ, nó cũng đã trở thành cơ cấu khi mà lý tưởng của công chức trẻ đã trở nên xói mòn một cách vô vọng và cuối cùng rơi vào cạm bẫy của “hệ thống”. Sự tàn phá môi trường lại tiếp tục không thuyên giảm.

93. Sự thay đổi xã hội bắt đầu từ trong gia đình, thông qua sự biến đổi thái độ của các bậc cha mẹ, thông qua lối giáo dục truyền đạt cho con cái họ, và mẫu gương của cha mẹ liên quan đến các giá trị về công lý, hoà bình, liêm chính và sự chăm sóc thụ tạo. Cùng lúc, con trẻ thực hiện việc loan báo Tin Mừng của cha mẹ chúng cho trẻ em cùng trang lứa có tính nhạy cảm để thừa nhận bằng trực giác các hành động là đúng, trong sạch, công bằng, tử tế và rộng lượng. Hơn thế nữa, các bậc cha mẹ và con cái họ trong tình liên đới với các gia đình khác có thể đóng vai trò bênh vực mạnh mẽ trong xã hội thông qua “các hoạt động chính trị gia đình” (FC 44) hoặc sự can thiệp chính trị trong việc cổ vũ cho sự trong sạch và tinh thần trách nhiệm trong các công chức, hoặc thúc đẩy sự hoà hợp và hoà giải giữa các phe phái xung đột nhau.

94. Các hoạt động chính trị gia đình như thế cũng nên được thực hiện để bảo vệ các quyền lợi của chính gia đình (xem bảng liệt kê các quyền lợi trong FC, 46), các quyền lợi đôi khi bị nhà nước chà đạp. Vì lý do này các gia đình Á Châu phải trở nên quen thuộc với việc bênh vực, bảo vệ và xúc tiến Hiến Chương về các quyền của Gia đình mà Toà Thánh đã đề nghị đối với các tổ chức chính phủ và quốc tế (xem Phụ lục). Các quyền này không chỉ dành riêng cho các tín hữu Công Giáo. Chúng tuôn trào từ bản chất rất tự nhiên của hôn nhân và gia đình và có thể dễ dàng của sự hợp tác liên tôn.

5. Gia đình và Đối thoại Liên tôn

95. Ở Á Châu, cái nôi của các tôn giáo lớn trên thế giới, chính trong đời sống thường ngày mà sự tiếp xúc những người khác đức tin xảy ra. Chính trong bối cảnh của đời sống hằng ngày mà việc làm chứng cho các giá trị Tin Mừng đứng hàng đầu trong sứ mệnh loan báo Tin Mừng của Kitô hữu. Các Giáo huấn của Kinh Thánh được Giáo Hội giải thích phản ánh các giá trị mà các gia đình Kitô giáo phải sống trong đời sống hằng ngày. Để hoàn thành sứ mệnh loan báo Tin Mừng, các gia đình Kitô giáo phải luôn nhớ đến căn tính của mình là Kitô hữu, trung thành với các cam kết Kitô giáo và sống bằng các giá trị Kitô giáo. Chỉ đối với các gia đình Kitô giáo, qua việc trung thành với bản chất và trách nhiệm Kitô hữu thì việc đối thoại bằng đời sống với những người khác niềm tin có thể được thực hiện và mang lại thành công.

96. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đã nhận xét: Mỗi thành viên của các cộng đồng tín hữu và tất cả các cộng đồng Kitô giáo được kêu gọi thực hành đối thoại, mặc dù không phải luôn cùng mức độ hay cùng cách thức như nhau” (RM,57). Thực vậy, có nhiều cách để đối thoại liên tôn có thể diễn ra ở cấp độ gia đình. Đầu tiên là làm chứng cho các giá trị Tin Mừng mà các gia đình Kitô giáo phải thực hiện hàng ngày trong thời đại chúng ta. Nằm trong số các giá trị của tin Mừng là: tính thiên liêng của sự sống từ lúc thụ thai đến lúc qua đời tự nhiên, phẩm giá con người, tính thiêng liêng của hôn nhân giữa người Nam và người Nữ, gia đình và hôn nhân là sự thiết lập của Thiên Chúa, sự đón nhận và yêu thương của con cái, sự khiết tịnh tùy theo ơn gọi của mỗi người, liên đới với người nghèo, người bệnh tật và người cầm giúp đỡ (GS 51, Evangelium Vitae (Phúc Âm Sự Sống) 58-67, FC 16). Tôn trọng lẫn nhau vì những giá trị chung sẽ dẫn đến sự cộng tác lẫn nhau để bảo vệ và thăng tiến chúng.

97. Đặc biết việc liên đới với người nghèo là một giá trị xã hội chắc chắn sẽ hướng các gia đình Kitô giáo hành động với nhau cùng với các gia đình khác đức tin trong việc đẩy mạnh công bằng xã hội, trong việc tìm kiếm hoà bình và hoà hợp và trong việc chăm sóc môi trường. Mặc khác, không phải là xa vời để hình dung rằng tại mội điểm chắc chắn nào đó của quan hệ liên tôn, các gia đình Kitô giáo chia sẻ với những gia đình khác về kinh nghiệm bản thân về Thiên chúa, kinh nghiệm về đức tin và tình yêu của Chúa Giêsu, không phải để lôi kéo người khác theo đạo mình mà chỉ đơn giản là để chia sẻ chính bản thân họ trong tình bằng hữu và tình đoàn kết trong sáng (xem Đối thoại và Tuyên ngôn, 57). Cuối cùng, người ta không nên gạt bỏ cho là không thể xảy ra việc gia đình Kitô giáo có thể mang Tin Mừng cứu độ đến cho những người ao ước muốn nghe và đón nhận một cách tự do (Rm 10,14-15). Gia đình Kitô giáo cần làm việc tuyên bố này ít nhất qua giáo lý của các thành viên của gia đình sống chứng nhân trong đời sống họ.

98. Nhưng thật là đặc biệt đối với các cặp hôn nhân khác tôn giáo mà đối thoại liên tôn là cuộc đối thoại cả về lời nói, tình yêu và cuộc sống (xem tình huống được Thánh Phaolô đưa ra trong Cr 7,12-16). Ngay từ lúc khởi đầu của sự gặp gỡ yêu thương giữa người Nam và người Nữ có đức tin khác nhau, sự cân nhắc về khác biệt tôn giáo cũng như về sự hoà hợp tôn giáo đã bắt đầu xảy ra. Sự đối thoại về lời nói, về tình yêu tiếp tục thông qua sự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, trở nên hoàn thiện trong cuộc đối thoại yêu thương của đời sống trong các sự việc bình thường và trải qua hằng ngày của đời sống hôn nhân. Các giá trị và các thái độ của đối thoại như thế lan sang con cái họ. Mặc dù có sự khác biệt về tôn giáo, chiếc cầu nối tình yêu và hoà hợp được xây dựng, điều này thực sự có ý nghĩa trong các xã hội bị giày xéo bởi xung đột tôn giáo. Tương tự như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, trong những lo âu, phiền muộn, vui mừng, hy vọng và tình yêu của hôn nhân và đời sống gia đình, Chúa Thánh Thần mang đến cơ hội tuyên xưng đức tin Kitô giáo một cách khiêm nhu, tôn kính, thầm kính nhưng có sức thuyết phục.

6. Gia đình và Cộng đoàn Giáo hội cơ bản, Cộng đoàn Nhân sinh cơ bản

99. Giáo Hội tại gia là cộng đoàn cơ bản nhất của Giáo Hội và phải được nghiêm túc xem như là một thực thể của Giáo Hội. Giáo Hội tại gia phải là một phần của toàn bộ thực thể của Giáo Hội địa phương. Đức Thánh Cha Gioan phaolô II đã lưu ý với sự tán thành rằng tầm quan trọng mục vụ mà các Giám Á Châu mang đến cho các Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản “như là một đường lối hiệu quả để thúc đẩy sự hiệp thông và sự tham gia vào các giáo xứ và giáo phận và là một sức mạnh đích thực cho việc loan báo Tin Mừng… và vì thế trở thành một khởi điểm vững chắc cho việc xây dựng một xã hội mới, sự diễn đạt của một nền văn minh tình thương” (Giáo Hội tại Á Châu, 25). Không còn nghi ngờ gì nữa Gia đình là Giáo Hội tại gia, là trung tâm điểm trong việc đẩy mạnh mục vụ để xây dựng Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản tại Á châu. Gia đình là thành phần cơ bản nhất cấu thành Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản. Trong hầu hết các trường hợp, Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản quy tụ các gia đình láng giềng để đến với nhau cầu nguyện, đọc và suy niệm Lời Chúa một cách thường xuyên, và áp dụng Lời Chúa trong đời sống hàng ngày của họ. Trong cùng cách thức như vậy, các Cộng đoàn Nhân sinh cơ bản quy tụ các gia đình liên tôn cầu nguyện, và suy tư tuỳ theo tôn giáo của mình và hành động chung trong tình thân thiết vì lợi ích của láng giềng.

100. Có thể nói rằng gia đình là mục tiêu và là chủ thể làm trung tâm điểm của việc loan báo Tin Mừng, để các chương trình mục vụ của giáo xứ ăn khớp với nhau hay không? Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản là cộng đoàn của các gia đình và giáo xứ thực sự là cộng đoàn của các cộng đoàn (Cv 4,32). Thực vậy, sự liên đới của các gia đình trong mọi khía cạnh của đời sống con người trong Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản cũng như trong Cộng đoàn Nhân sinh cơ bản sẽ là sự đáp trả ở mức độ vi mô đối với hiện tượng toàn cầu hoá về kinh tế và văn hoá. Trong những cộng đồng này, ở mức độ gia đình, “sự toàn cầu hoá về đức bác ái và tình liên đới” bắt đầu (Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cập đến toàn cầu hoá về đức bác ái và tình liên đới trong các Thông điệp Ngày Thế Giới Hoà Bình của ngài]. Điều này sẽ đòi hỏi một sự đổi mới các cơ cấu giáo xứ và các chương trình mục vụ cũng như tái định hướng các ưu tiên mục vụ trong giáo dân và giáo sĩ. Việc huấn luyện đức tin trong gia đình sẽ dẫn đến tăng cường sức mạnh gia đình trong sứ mệnh của Cộng đoàn Giáo Hội cơ bản, Cộng đoàn Nhân sinh cơ bản hướng về văn hoá sực sống sẽ trở nên ưu tiên bao trùm mục vụ.

7. Gia đình như với sứ mạng Rao Giảng

101. Từ tất cả những suy tư này về gia đình, một chiều kích rất quan trọng nổi lên một cách mạnh mẽ. Gia đình là sứ mạng Rao giảng. Được Thiên Chúa ban cho các đức tính hiệp thông, liên đới và được gọi mời trợ giúp trong việc xây dựng nền văn hoá sự sống toàn diện, thật tự nhiên để chỉ ra các giá trị của Nước Thiên Chúa, các giá trị xuất chúng của con người được mời gọi chia sẻ. Là một dấu hiệu của nước Thiên Chúa, gia đình là một cộng đồng rao giảng trong xã hội. Gia đình kêu gọi xã hội đổi mới sâu sắc, chính xã hội đã đưa ra rất nhiều ảnh hưởng mang bản chất của sự chết cố tình phá hoại quà tặng của Thiên Chúa là tình yêu, công lý, hoà hợp và hoà bình.

102. Trung tín với phẩm giá và ơn gọi là giáo hội tại gia, gia đình có sứ mạng Rao giảng cho toàn thể Giáo Hội. Khi Giáo Hội lạc hướng để sống theo phẩm giá mình là giao ước thiêng liêng của tình yêu và sự sống, là sự hiệp thông và liên đới; khi nghị lực của Giáo Hội suy yếu trong sứ mệnh cứu độ toàn diện của mình; khi mục tử Giáo Hội không hành xử theo tư cách mục tử giống như trái tim yêu thương của Chúa; khi công bằng trong phẩm giá, tính đồng trách nhiệm, sự tham gia cộng tác, tính bao sung tự hiến không còn làm sinh động Giáo Hội, khi quyền lực, ích kỷ và sự phân biệt đối xử đe doạ cơ cấu nội bộ Giáo Hội - đó là lúc gia đình kêu gọi Gia đình của Thiên Chúa hướng đến con đường đổi mới sâu rộng. Bằng cách này, thông qua việc làm chứng của Giáo Hội tại gia, toàn thể Giáo Hội được “hôn nhân hoá”, nghĩa là chịu ảnh hưởng bởi kinh nghiệm của các cặp vợ chồng. Vì lý do này, gia đình luôn sống trong sự kết hiệp với Thiên Chúa trong động lực tinh thần của sự hiệp thông và cương vị là môn đệ.

(Hết phần D -- còn tiếp...)