6. Chế độ gia trưởng trong gia đình và xã hội Á Châu
27. Liên quan đến vai trò của người Nam và người Nữ trong gia đình Á Châu và trong xã hội rộng lớn, đáng buồn là chế độ gia trưởng vẫn là nhân tố quyết định. Xuất phát từ chữ Latin, “pater” hay người cha (father), cụm từ chế độ gia trưởng (patriarchy) có một ý nghĩa xấu. Nhưng trong buổi sơ khai của đức tin Kitô giáo, từ “pater” được dùng trong ánh sáng của từ Abba mà Chúa Giêsu hay dùng, nó nằm trong mối quan hệ cung kính của tình yêu đối với Thiên Chúa và kể từ đây nó không còn có ý nghĩa của những yếu tố áp bức và thống trị. Vì thế, trong thời đại chúng ta, thật cần thiết lấy lại ý nghĩa của Tin Mừng về từ “pater”, nó bày tỏ tình yêu khoan dung và tha thứ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về đứa con hoang đàn, hoặc uy quyền của tình yêu mà lời cầu nguyện “Lạy Cha” diễn tả, hoặc phải làm tôi tớ trên cương vị đứng đầu mà bản thân Chúa Giêsu đã minh hoạ cho các môn đệ của ngài bằng cách Rửa Chân. Với ý thức này, một người có thể có “tình yêu thương của người cha” hoặc “uy quyền của người cha” mà không bị xem là chế độ gia trưởng. Ngày nay, giống như thuở sơ khai của các xã hội Do Thái và Hy Lạp - La Mã, chế độ gia trưởng được hiểu với ý nghĩa tích cực. Với những thái độ về chế độ gia trưởng đã gắn kết vào cơ cấu xã hội và tạo ra sự bất bình đẳng cơ bản về giới tính và vai trò trịch thượng của Nam giới. Thế giới quan về chế độ gia trưởng đã ăn sâu vào tiềm thức văn hoá và tôn giáo của Á Châu và chế ngự chính trị, kinh tế và quan hệ con người, quan điểm và cách thức giáo dục con cái, thành kiến về nam nữ, vai trò cộng đồng,. .. Ý niệm về chế độ gia trưởng đã tạo hình ảnh người Nam thì dũng cảm, có sức lực, có uy quyền và thống trị. Đó là nền tảng để cho rằng nam giới ngự trị ngoài xã hội còn nữ giới độc tôn trong gia đình. Mặc khác, nữ giới được xem như nhu mì, dễ phục tùng và lệ thuộc. Nó xem như phụ nữ là người lệ thuộc và thường tạo ra chuẩn mực hai chiều để chi phối Nam giới, Nữ giới, bé trai, bé gái. Ví dụ, dựa trên thế giới quan như thế về chế độ gia trưởng, sự không chung thủy của người chồng đối với vợ và hành vi vô trách nhiệm đối với con cái thường được được bỏ qua và dễ tha thứ hơn so với trường hợp tương tự của người vợ. [Ngay khi uy quyền của người cha bị suy yếu đi trong các gia đình Nhật Bản với quyền quản trị của người mẹ trong gia đình, “chúng ta vẫn phải khám phá về thành kiến giới tính trong xã hội (nhất là trong các công ty)”, CBCJ, IWP, 01-07-2004, trang 2].
28. Một số nước theo chế độ gia trưởng bộc lộ rõ đặc điểm xấu xa tàn án trong việc lựa chọn giới tính lúc mang thai. Ở những nước này, sự thiên vị chọn lựa bé trai đã tạo nên sự mất quân bình trầm trọng về tỷ lệ giới tính trong dân số. Khoa học đã trợ giúp vào thảm kịch xấu xa này qua việc xác định giới tính của bào thai (một con người trước khi được sinh ra) và hậu quả là phá thai loại bỏ hàng ngàn thai nhi nữ.
7. Phụ nữ và trẻ em thiếu nữ
29. Việc thừa nhận quyền bình đẳng về phẩm giá cơ bản, những thành tựu của sự bình đẳng trong những tiến bộ và thành đạt về giáo dục cũng như sự trợ giúp (của người vợ) trong gia đình đã thử thách vai trò quyền uy truyền thống của người chồng trong các gia đình Á Châu. Thực vậy, trong những năm gần đây vai trò của phụ nữ đã dần dần thay đổi. Đối với phụ nữ trong những thành phần nghèo hơn của xã hội, việc giáo dục về nghề nghiệp không còn quá lệ thuộc vào sự lựa chọn mang tính tâm lý nhưng hậu quả của áp lực kinh tế đã đẩy người phụ nữ tìm kiếm việc làm bên ngoài gia đình để phụ giúp gia đình nuôi nấng con trẻ hoặc bảo đảm sự tồn vong của gia đình nhất là trong trường hợp người chồng hoặc những đứa con trai kiếm không đủ tiền lo cho gia đình của họ. Kể từ đây, vai trò quán xuyến gia đình và vai trò nuôi dạy con cái của các bà mẹ và những đứa con gái được chuyển cho người khác. Thật không may là sự thay đổi vai trò như thế thường chỉ đơn giản là sự chuyển giao trách nhiệm về vai trò truyền thống quán xuyến gia đình cho những người có mức sống về kinh tế thấp hơn, như những người giúp việc nhà hoặc những người bà con nghèo. Đây là trường hợp các bà mẹ làm việc suốt ngày ở các trường học hay các văn phòng chính phủ. Sự thay đổi vai trò truyền thống về quán xuyến gia đình như thế đặc biệt xảy ra tại thành thị nơi mà những người bảo mẫu, những người giúp việc nhà và ngay cả ông bà chăm sóc trẻ nhỏ và gia đình, trong khi những người vợ đi làm việc suốt ngày với những công việc như bác sĩ, y tá, kỹ sư, giáo viên, luật sư, nhà quản trị doanh nghiệp...
30. Tuy nhiên, sự thay đổi chầm chậm hướng đến sự bình đẳng và cộng tác trong quan hệ vợ chồng không ngăn cản các làn sóng bạo hành và các hình thức phân biệt đối xử, đàn áp khác chống lại người phụ nữ nơi gia đình và nơi công sở. Ở một số quốc gia Á Châu truyền thống bạo lực chống lại những người vợ và các trẻ em thiếu nữ đặc biệt vẫn xảy ra ở các vùng nông thôn. Ở những quốc gia đó, ngoài truyền thống phiền hà và gây ra gánh nặng về của hồi môn, những người vợ còn phải chịu gánh nặng trong việc cố chứng tỏ bản thân họ xứng đáng trở thành thành viên của đại gia đình nhà chồng.Trong khi bé trai thì được hưởng ân huệ, thì bé gái lại bị phân biệt đối xử từ những năm đầu đời. Bé gái cũng có thể trở thành nạn nhân của nạn giết trẻ sơ sinh. [Theo cách phân định tiêu chuẩn xã hội học quốc tế, khi được quy là trẻ em thì “bé gái” và “bé trai” thì thường là các bé dưới bốn tuổi]. Cuối cùng, ở nhiều nước Á Châu nạn buôn bán phụ nữ vì mục đích kinh doanh tình dục cả trong nước và nước ngoài không còn là chuyện hiếm nữa và không hiếm xảy ra đối với trẻ em. Tất cả những thách đố này kêu gọi thảm thiết sự đáp ứng mục vụ thích hợp.
31. Chúng ta ghi nhận sự phát triển tích cực các hình thức của phong trào giải phóng phụ nữ đã đạt được ở Á Châu. Chúng gây sự chú ý của công chúng về các vấn đề như nạn bạo hành trong gia đình, nạn phá bỏ thai nhi nữ và tạo các mối quan hệ quân bình hơn nữa giữa người Nam và người Nữ, người chồng và người vợ con trai và con gái. Trong tất cả các quốc gia Á Châu đều có phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ, làm việc vì công cuộc giải phóng xã hội thông qua việc ủng hộ phụ nữ về xã hội và chính trị, các tổ hợp tác, ngân hàng Grameen, công nghệ, các chương trình xóa mù chữ và chăm sóc y tế...
(còn tiếp...)
27. Liên quan đến vai trò của người Nam và người Nữ trong gia đình Á Châu và trong xã hội rộng lớn, đáng buồn là chế độ gia trưởng vẫn là nhân tố quyết định. Xuất phát từ chữ Latin, “pater” hay người cha (father), cụm từ chế độ gia trưởng (patriarchy) có một ý nghĩa xấu. Nhưng trong buổi sơ khai của đức tin Kitô giáo, từ “pater” được dùng trong ánh sáng của từ Abba mà Chúa Giêsu hay dùng, nó nằm trong mối quan hệ cung kính của tình yêu đối với Thiên Chúa và kể từ đây nó không còn có ý nghĩa của những yếu tố áp bức và thống trị. Vì thế, trong thời đại chúng ta, thật cần thiết lấy lại ý nghĩa của Tin Mừng về từ “pater”, nó bày tỏ tình yêu khoan dung và tha thứ trong dụ ngôn của Chúa Giêsu về đứa con hoang đàn, hoặc uy quyền của tình yêu mà lời cầu nguyện “Lạy Cha” diễn tả, hoặc phải làm tôi tớ trên cương vị đứng đầu mà bản thân Chúa Giêsu đã minh hoạ cho các môn đệ của ngài bằng cách Rửa Chân. Với ý thức này, một người có thể có “tình yêu thương của người cha” hoặc “uy quyền của người cha” mà không bị xem là chế độ gia trưởng. Ngày nay, giống như thuở sơ khai của các xã hội Do Thái và Hy Lạp - La Mã, chế độ gia trưởng được hiểu với ý nghĩa tích cực. Với những thái độ về chế độ gia trưởng đã gắn kết vào cơ cấu xã hội và tạo ra sự bất bình đẳng cơ bản về giới tính và vai trò trịch thượng của Nam giới. Thế giới quan về chế độ gia trưởng đã ăn sâu vào tiềm thức văn hoá và tôn giáo của Á Châu và chế ngự chính trị, kinh tế và quan hệ con người, quan điểm và cách thức giáo dục con cái, thành kiến về nam nữ, vai trò cộng đồng,. .. Ý niệm về chế độ gia trưởng đã tạo hình ảnh người Nam thì dũng cảm, có sức lực, có uy quyền và thống trị. Đó là nền tảng để cho rằng nam giới ngự trị ngoài xã hội còn nữ giới độc tôn trong gia đình. Mặc khác, nữ giới được xem như nhu mì, dễ phục tùng và lệ thuộc. Nó xem như phụ nữ là người lệ thuộc và thường tạo ra chuẩn mực hai chiều để chi phối Nam giới, Nữ giới, bé trai, bé gái. Ví dụ, dựa trên thế giới quan như thế về chế độ gia trưởng, sự không chung thủy của người chồng đối với vợ và hành vi vô trách nhiệm đối với con cái thường được được bỏ qua và dễ tha thứ hơn so với trường hợp tương tự của người vợ. [Ngay khi uy quyền của người cha bị suy yếu đi trong các gia đình Nhật Bản với quyền quản trị của người mẹ trong gia đình, “chúng ta vẫn phải khám phá về thành kiến giới tính trong xã hội (nhất là trong các công ty)”, CBCJ, IWP, 01-07-2004, trang 2].
28. Một số nước theo chế độ gia trưởng bộc lộ rõ đặc điểm xấu xa tàn án trong việc lựa chọn giới tính lúc mang thai. Ở những nước này, sự thiên vị chọn lựa bé trai đã tạo nên sự mất quân bình trầm trọng về tỷ lệ giới tính trong dân số. Khoa học đã trợ giúp vào thảm kịch xấu xa này qua việc xác định giới tính của bào thai (một con người trước khi được sinh ra) và hậu quả là phá thai loại bỏ hàng ngàn thai nhi nữ.
7. Phụ nữ và trẻ em thiếu nữ
29. Việc thừa nhận quyền bình đẳng về phẩm giá cơ bản, những thành tựu của sự bình đẳng trong những tiến bộ và thành đạt về giáo dục cũng như sự trợ giúp (của người vợ) trong gia đình đã thử thách vai trò quyền uy truyền thống của người chồng trong các gia đình Á Châu. Thực vậy, trong những năm gần đây vai trò của phụ nữ đã dần dần thay đổi. Đối với phụ nữ trong những thành phần nghèo hơn của xã hội, việc giáo dục về nghề nghiệp không còn quá lệ thuộc vào sự lựa chọn mang tính tâm lý nhưng hậu quả của áp lực kinh tế đã đẩy người phụ nữ tìm kiếm việc làm bên ngoài gia đình để phụ giúp gia đình nuôi nấng con trẻ hoặc bảo đảm sự tồn vong của gia đình nhất là trong trường hợp người chồng hoặc những đứa con trai kiếm không đủ tiền lo cho gia đình của họ. Kể từ đây, vai trò quán xuyến gia đình và vai trò nuôi dạy con cái của các bà mẹ và những đứa con gái được chuyển cho người khác. Thật không may là sự thay đổi vai trò như thế thường chỉ đơn giản là sự chuyển giao trách nhiệm về vai trò truyền thống quán xuyến gia đình cho những người có mức sống về kinh tế thấp hơn, như những người giúp việc nhà hoặc những người bà con nghèo. Đây là trường hợp các bà mẹ làm việc suốt ngày ở các trường học hay các văn phòng chính phủ. Sự thay đổi vai trò truyền thống về quán xuyến gia đình như thế đặc biệt xảy ra tại thành thị nơi mà những người bảo mẫu, những người giúp việc nhà và ngay cả ông bà chăm sóc trẻ nhỏ và gia đình, trong khi những người vợ đi làm việc suốt ngày với những công việc như bác sĩ, y tá, kỹ sư, giáo viên, luật sư, nhà quản trị doanh nghiệp...
30. Tuy nhiên, sự thay đổi chầm chậm hướng đến sự bình đẳng và cộng tác trong quan hệ vợ chồng không ngăn cản các làn sóng bạo hành và các hình thức phân biệt đối xử, đàn áp khác chống lại người phụ nữ nơi gia đình và nơi công sở. Ở một số quốc gia Á Châu truyền thống bạo lực chống lại những người vợ và các trẻ em thiếu nữ đặc biệt vẫn xảy ra ở các vùng nông thôn. Ở những quốc gia đó, ngoài truyền thống phiền hà và gây ra gánh nặng về của hồi môn, những người vợ còn phải chịu gánh nặng trong việc cố chứng tỏ bản thân họ xứng đáng trở thành thành viên của đại gia đình nhà chồng.Trong khi bé trai thì được hưởng ân huệ, thì bé gái lại bị phân biệt đối xử từ những năm đầu đời. Bé gái cũng có thể trở thành nạn nhân của nạn giết trẻ sơ sinh. [Theo cách phân định tiêu chuẩn xã hội học quốc tế, khi được quy là trẻ em thì “bé gái” và “bé trai” thì thường là các bé dưới bốn tuổi]. Cuối cùng, ở nhiều nước Á Châu nạn buôn bán phụ nữ vì mục đích kinh doanh tình dục cả trong nước và nước ngoài không còn là chuyện hiếm nữa và không hiếm xảy ra đối với trẻ em. Tất cả những thách đố này kêu gọi thảm thiết sự đáp ứng mục vụ thích hợp.
31. Chúng ta ghi nhận sự phát triển tích cực các hình thức của phong trào giải phóng phụ nữ đã đạt được ở Á Châu. Chúng gây sự chú ý của công chúng về các vấn đề như nạn bạo hành trong gia đình, nạn phá bỏ thai nhi nữ và tạo các mối quan hệ quân bình hơn nữa giữa người Nam và người Nữ, người chồng và người vợ con trai và con gái. Trong tất cả các quốc gia Á Châu đều có phụ nữ, đặc biệt là những người mẹ, làm việc vì công cuộc giải phóng xã hội thông qua việc ủng hộ phụ nữ về xã hội và chính trị, các tổ hợp tác, ngân hàng Grameen, công nghệ, các chương trình xóa mù chữ và chăm sóc y tế...
(còn tiếp...)