2. Sự khác nhau của các kiểu mẫu Gia đình

Ngày nay, tại Á Châu, hầu như tình trạng chung của gia đình có sự khác biệt rõ rệt với những gì người Á Châu gọi là gia đình “truyền thống” và thậm chí là gia đình “lý tưởng”. Các gia đình khác nhau về văn hoá và đức tin là hậu quả từ việc đầy rẫy của “hôn nhân dị giáo”. Trong các cặp hôn nhân như thế tìm kiếm sự điều chỉnh lẫn nhau thật là khó khăn hơn nhiều so với các cặp có cùng đức tin. Cũng thế, ngày càng gia tăng các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ, các gia đình cha mẹ ly thân và những trường hợp cha hoặc mẹ, hay cả hai tái hôn. Một số cha mẹ ly thân vĩnh viễn, số khác ly thân tạm thời vì lý do công việc. Không còn hiếm thấy những trẻ em có cha mẹ ly dị và chúng sống với ông bà. Có những gia đình chỉ có cha hoặc mẹ bên con cái, có những gia đình mà cha mẹ chỉ có mặt một hoặc hai lần trong một năm và có những gia đình mà những người con không có chung người cha hoặc người mẹ. Cũng có nhiều gia đình mà không làm đám cưới và không có khả năng tạo sự ổn định cho con cái họ. Và cũng có nhiều gia đình mà cha mẹ không mong có con hoặc trì hoãn việc có con. Ngày càng ít đi những “đại gia đình” có liên hệ chặt chẽ theo truyền thống gồm cha mẹ, con cái, ông bà, rể hoặc dâu và cháu nội, cháu ngoại. “Các gia đình nguyên tử” có khuynh hướng ít hiệp thông hơn với các thành viên khác của đại gia đình. Hơn nữa, trong các đại gia đình cũng có những xung đột, như với dâu rể chẳng hạn, và vì thế cần có quá trình giải quyết xung đột.

10. Với sự tiến triển của các phong trào giải phóng mới và sự lớn mạnh của tư tưởng tân tự do và chống lại chủ nghĩa hiện đại, nhất là tại các nước Á Châu bị trần tục hoá và tự do hoá, đang dần bắt đầu nổi lên các kiểu mẫu "gia đình” khác, mặc dù gặp sự phản đối mạnh mẽ, như gia đình đồng tính. Một số hình thức gia đình như thế thật đáng lo âu. Họ thách thức hiểu biết truyền thống của chúng ta về “gia đình Kitô giáo” nơi mà Bí tích hôn phối giữa người Nam và người Nữ là quy tắc và là khởi điểm của gia đình. Có lẽ chúng ta phải đặt ra câu hỏi liệu rằng các cặp vợ chồng có còn tin rằng hôn nhân là một giao ước thiêng liên hay chỉ đơn thuần là một hợp đồng theo luật pháp. Câu hỏi luân lý cũng nên được đặt ra về tính phổ biến của việc có một hôn nhân phần đời trước rồi một thời gian sau mới có hôn nhân phần đạo. Trong một số xã hội, điều này có thể do thiếu nguồn tài trợ của gia đình hoặc do quy luật về phong tục, truyền thống.

11. Làm thế nào để xem xét các tình trạng khác nhau của gia đình dưới ám sáng của đức tin, làm thế nào để giúp đỡ các cặp vợ chồng và các gia đình suy tư về những hiện trạng này trong ánh sáng của sự dấn thân hướng đến Nước Thiên Chúa, làm thế nào để trợ giúp các gia đình để họ sống tích cực và vì thế, nói chung là làm thế nào để cung cấp những hướng dẫn mục vụ - Đó là những thách đố hết sức lớn lao trong mỗi giáo xứ tại Á Châu.

3. Sự nghèo đói của các Gia đình Á Châu và Toàn cầu hoá về Kinh tế

12. Một thách đố chính yếu đầu tiên mà các gia đình Á Châu phải đương đầu là nghèo đói khắp nơi. Đó là một thực tế thảm thương về nghèo đói mà phần lớn các gia đình Á Châu phải chống chọi hằng ngày và không có lối thoát. Nhiều người trẻ khó mà nghĩ đến hôn nhân hoặc bắt đầu có một gia đình vì thiếu những phương tiện cơ bản để mưu sinh và tồn tại. Nhưng sự nghèo đói ở Á Châu ngày nay đi theo một chiều kích mới. Đó là tiến kình toàn cầu hoá kinh tế tân tự do trong đó sản sinh ra một trật tự thế giới mới mà mỗi quốc gia phải thích nghi để khỏi phải bị tụt hậu trên con đường phát triển kinh tế mà các nước phát triển đã vạch ra. Nhưng toàn cầu hoá lại mang tính hai mặt nhất. Hàng năm các báo cáo của Cơ quan Phát triển Con người Liên Hiệp Quốc đều nhận xét rằng toàn cầu hoá kinh tế đã làm trầm trọng thêm người nghèo và các nước nghèo - đặc biệt là người nghèo trong các nước nghèo. Hậu quả của toàn cầu hoá là nghèo đói có thể được đề cập ít nhất trên ba lĩnh vực:

a) 13. Sự nghèo đói của các Gia đình ở Nông thôn

Nhiều sản phẩm nông nghiệp của các gia đình theo nghề nông dần dần không còn là nhu cầu tiêu thụ nữa khi mà sự mở rộng tự do buôn bán và giảm bớt ảnh hưởng về kinh tế - những đòi hỏi sóng đôi của toàn cầu hoá kinh tế - có thể làm cho các sản phẩm nông nghiệp được tự do nhập khẩu và được bán với giá thấp hơn các sản phẩm địa phương. Không thể cạnh tranh, do thiếu sự bảo hộ của chính phủ hoặc thiếu các mạng lưới an toàn để bảo vệ các sản phẩm nông nghiệp trong cuộc cạnh tranh bất tương xứng, các gia đình nông thôn phải chịu một nhân tố mới gây nên nghèo đói về mặt kinh tế vuợt khỏi tầm kiểm soát của họ. Tương tự như thế, đại đa số nông dân Á Châu làm nghề nông với quy mô nhỏ. Họ không thể cạnh với xu hướng ngày càng gia tăng của một thương vụ lớn kết hợp các nông gia với nhau, ngay cả về kỹ thuật như Biến Đổi Gen Di truyền (GMO), một kỹ thuật ngày càng phổ biến, làm cho các nhà nông nhỏ của Á Châu phụ thuộc vào các tập đoàn và công nghệ, thường vượt ngoài tầm hiểu biết và khả năng tài chính của họ. Hơn thế nữa, do thường bị đè nặng bởi vấn đề quyền sở hữu đất đai, các gia đình nông thôn nhận thấy rằng đất đai của họ trở nên cằn cỗi dưới sự soi tỏ của các điều kiện phát sinh. Những hậu quả của tình trạng trên lại càng làm trầm trọng thêm do việc di dân đến các trung tâm đô thị làm cho trì trệ các cộng đồng ở nông thôn. Một nhận xét đáng chú ý là “vấn đề các gia đình nông thôn Nhật không nghèo đói về kinh tế nhưng là sự sụp đổ trong bản thân họ về những ngôi làng nông nghiệp” [Hội đồng Giám Mục Nhật Bản, Intervention on the Working Paper (CBCJ, IWP), 01-07-2004, trang 1]. Cuối cùng, trong tình trạng nghèo đói, các gia đình đôi khi bị dồn vào tình thế nan giải phải bán đi bộ phân cơ thể để mưu sinh.

b) 14. Sự nghèo đói của các Gia đình ở Thành thị

Hiên tượng đô thị hoá ở Á Châu không phải chỉ mới đây. Nhưng việc di dân của những người nghèo ở nông thôn đến thành thị chưa bao giờ nhanh chóng và đông đảo như vài thập niên gần đây. Toàn cầu hoá không chỉ làm cho các đất nước nghèo không có khả năng cạnh tranh ngay cả trong lĩnh vực nông nghiệp mà còn làm gia tăng làn sóng người nghèo ở nông thôn di cư để tìm kiếm việc làm vốn khan hiếm do trình độ phát triển kinh tế ở hầu hết các quốc gia Á Châu. Sự phát triển và gia tăng nhanh chóng các khu nhà ổ chuột ở các trung tâm đô thị minh chứng cho việc đô thị hoá nhanh chóng.

Các điều kiện nghèo khổ của người nghèo thành thị càng khắc nghiệt hơn khi xét đến chổ ở, điều kiện sống gia đình, không gian và sự tách biệt gia đình, điều kiện về nước uống an toàn, điều kiện vệ sinh và sức khoẻ. Các cư dân của khu ổ chuột sinh sống trong các ngôi nhà của nhà nước hoặc sở hữu tư nhân phải đối mặt với nguy cơ bị đuổi và trở thành vô gia cư. Điều này đôi khi dẫn đến tội ác, lạm dụng trong gia đình và gia đình tan vỡ trong liều lĩnh tuyệt vọng.

c) 15. Hiện tượng di dân ở Á Châu

Do tình trạng kinh tế của các gia đình Á Châu, hàng triệu người Á Châu đã rời bỏ gia đình để ra đi tìm kiếm việc làm mà những việc làm này thường không xứng hợp với kiến thức và kỹ năng của họ. Dĩ nhiên những nước có nền kinh tế phát triển hơn như Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Singapore, Mã Lai và Thái Lan cũng như các nước Trung Đông giàu dầu mỏ là những đích đến được ưa chuộng. Thật bi kịch khi các công nhân di cư phải lao động trong những hoàn cảnh bị phân biệt đối xử và bị khai thác tột cùng. Á Châu là nơi xuất khẩu lao đột cực kỳ rẻ. Có một sự thực là lương bổng mà họ kiếm được ở nước ngoài nhiều hơn đáng kể so với tại quê nhà, nhưng được sự ổn định gia đình, sự giáo dục thích đáng và sự trưởng thành của con cái họ, những đứa trẻ thiếu sự hiện diện, sự dìu dắt, và tình yêu của cả cha mẹ ở độ tuổi trưởng thành và hình thành xúc cảm.

16. Hơn nữa, những người dân bản xứ di dân vì mục đích việc làm phải đương đầu với sự thay đổi văn hoá nhiều hơn so với các nhóm dân cư khác. Họ mất đi nhiều giá trị tích cực ấp ủ bở các cộng đồng bản xứ của họ. Họ cũng trải qua rất nhiều khó khăn khi hội nhập. Vì thế chúng ta có thể thấy sự liên hệ chặt chẽ giữa hai nghị hội trước với nghị hội lần VII của FABC, về những công nhân di dân và về những người dân bản xứ.

17. Tóm lại, những người công nhân di dân và gia đình họ rất cần chăm sóc mục mục một cách cấp bách từ các giáo hội ở những nước gửi đi cũng như những nước thu nhận. Chăm sóc mục vụ cho những người công nhân di dân là một trong năm ưu tiên mục vụ của Giáo Hội Á Châu [xem FABC VI, Manila, 1995]. Việc thực thi nghiêm trang và với lòng thương của những chỉ đạo và hướng dẫn trong tài liệu Erga Migrantes Caritas Christi sẽ biểu thị mối quan tâm mục vụ to lớn của Giáo Hội [từ tài liệu của Hội đồng Giáo Hoàng về Chăm sóc Mục vụ cho người Di dân và Lưu động, Rôma, 2004]

10. Đi xuyên qua các chiều kích này của sự nghèo hổ ở Á Châu là một hiện tượng mới mà các báo cáo phát triển gọi là “sự ủy mị của nghèo khổ”. Một sự thực hiển nhiên là khởi đầu của nhiều gánh nặng cho sự nghèo khổ được sản sinh bởi người phụ nữ. Hầu hết các trường hợp người chồng cung cấp các tài nguyên cần thiết để gia đình tồn tại, nhưng người vợ đương đầu với thử thách như lo ăn mặc cho con cáo, nấu nướng cho chúng, chăm sóc chúng khi bệnh tật, chăm sóc những người già trong đại gia đình. Những đều đó làm cho người vợ không còn thời gian cho mình nữa. Công việc nội trợ là công việc không chỉ đơn thuần từ 7 giờ rưỡi sáng đến 5 giờ chiều, với 2 giờ đồng hồ nghỉ trưa. Những đứa con gái có thể kể bất cứ lúc nào mà chúng có thể. Thường người mẹ và con gái giúp nhau kiếm tiến bên ngoài căn nhà của họ bất cứ khi nào có thể được. Sự nghèo khổ có thể ảnh hưởng trên phụ nữ nhiều hơn trên nam giới.

(còn tiếp...)