XÁC TÍN VỀ SỨ MẠNG TRUYỀN GIÁO
Nhập đề:
Không phải đợi đến năm nay, Năm Thánh Truyền giáo của Giáo hội Việt Nam, chúng ta mới tìm hiểu về công việc truyền giáo vì bản chất của Giáo Hội là truyền giáo (Ad Gentes, số 6). Vì chưa ý thức đủ bản chất hay căn tính của mình, nên nhiều tín hữu trong Giáo hội Công giáo đã không còn tích cực dấn thân cho sứ mạng truyền giáo. Thực trạng về truyền giáo của Giáo Hội biểu lộ rõ ràng điều này qua các số liệu thống kê. Vì thế, chúng ta cần phải gấp rút tìm ra các nguyên nhân để giải thích tại sao nhiều người không còn truyền giáo và truyền giáo không hiệu quả. Cuối cùng, có lẽ chúng ta đang được mời gọi để xác tín lại một lần nữa về sứ mạng cao quý của mình là được sai đi để loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn loài như Đức Giêsu (x. Mc 16,15).
Niềm xác tín ấy sẽ làm bùng cháy lên ngọn lửa tình yêu mà Chúa Thánh Thần đã đốt lên nơi tâm hồn các Tông đồ khi Ngài khai sinh Giáo Hội vào dịp lễ Ngũ Tuần, cách đây gần 2.000 năm. Những tín hữu thời Giáo Hội sơ khai đã can đảm làm chứng cho Đức Giêsu bằng một đời sống yêu thương, tràn đầy niềm vui, ân sủng và hạnh phúc (x. Cv 4,32-34), khiến cho hàng chục triệu người trong đế quốc Roma bị cuốn hút theo họ ngay trong thế kỷ đầu. Còn bây giờ, người tín hữu chúng ta thu hút được ai?
1. THỰC TRẠNG TRUYỀN GIÁO QUA VÀI SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Nhiều nhà lãnh đạo Công giáo không thích những con số, nhất là những con số thống kê nói lên tình trạng giảm sút hay chậm phát triển của Giáo Hội về mặt dân số (số tín hữu, linh mục, chủng sinh, tu sĩ, giáo lý viên…), trong lĩnh vực đạo đức (số người lãnh nhận bí tích Rửa tội, Thêm sức, Hôn phối, Rước lễ, Giải tội…) hoặc lĩnh vực hoạt động xã hội (như các cơ sở từ thiện bác ái, giáo dục, y tế…). Họ lập luận rằng đời sống đức tin là một mầu nhiệm mà chỉ có Chúa mới biết và đo lường được, nên không thể đánh giá qua các số liệu vô hồn. Hơn nữa, người ta còn đưa ra những chứng cứ lịch sử để cho chúng ta thấy rằng rất nhiều miền châu Á và Bắc Phi, ngay từ những thế kỷ đầu tiên, là những vùng có đông Kitô hữu, nhưng nay lại là những vùng trắng của Kitô giáo mà thay vào đó là Hồi giáo. Rồi người ta kết luận rằng, sau bao nhiêu cố gắng của các nhà truyền giáo, thành công hay thất bại đều là mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Tuy nhiên, dù những con số không diễn tả trọn vẹn thực tại đức tin nhưng chúng vẫn là những tín hiệu thông báo về tình trạng sống đức tin của mỗi người, trong tư cách là “một tinh thần nhập thể và nhập thế” như Thánh Giacôbê Tông đồ đã nói: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết!” (Gc 2,17). Các nhà xã hội học vẫn đọc thấy nhiều điều qua các số liệu thống kê. Hằng năm, Uỷ ban Thống kê Trung ương của Toà Thánh vẫn tổng kết các số liệu của các giáo phận và dòng tu trên toàn thế giới để thông báo cho chúng ta biết tình trạng Giáo hội Công giáo theo từng thời điểm.
1.1. Một vài số liệu về Giáo Hội toàn cầu
Ngày 10-5-2004, Văn phòng Thống kê Trung ương của Toà Thánh phổ biến cuốn Niên Giám so sánh số liệu trong 23 năm trị vì của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, từ năm 1978 đến 2002. Phân tích kỹ về mặt thống kê, chúng ta sẽ thấy ngay tình trạng yếu kém về mặt truyền giáo dù số dân Công giáo tăng từ 757 triệu người vào năm 1978 lên đến 1.071 triệu người vào năm 2002 vì số tín hữu tăng không tương ứng với tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên.
Thật vậy, với tỷ lệ gia tăng dân số thế giới hiện nay (tỷ lệ tăng tự nhiên năm 1990-1995 là 160/00; năm 1995-1999 là 150/00; năm 2000 là 140/00; năm 2001 là 130/00. X. Tổng Cục Thống kê, Niên Giám Thống kê 1995-2000, 2001, NXB Hà Nội, tr. 401, 521, 489) thì trong một tỷ người Công giáo, mỗi năm Giáo Hội phải tăng ít nhất là 14 triệu trẻ em được rửa tội, đó là chưa kể những người theo đạo nhờ truyền giáo. Tuy nhiên, trong suốt 23 năm qua, hầu hết các năm có số người Công giáo thấp hơn với tỷ lệ gia tăng dân số này. Có năm chỉ tăng được 6 triệu người như năm 1993, trừ một hai năm phát động truyền giáo cho Năm Thánh 2000: năm 1999 có 14.872.000 người và năm 2001 có 15.783.000 người. Kết quả cuối cùng là tỷ lệ dân số Công giáo ngày càng thấp so với dân số thế giới: từ 17,99% vào năm 1978, đến năm 2002 chỉ còn 17,2%.
Chúng ta không có số liệu chính xác về những người lớn được rửa tội mỗi năm nhờ truyền giáo. Nhưng chúng ta thử hỏi, nếu năm 1997 chỉ tăng 10.126.000 người, năm 2000 chỉ có 11.928.000 người so với khoảng 14.000.000 theo tỷ lệ gia tăng tự nhiên phải có, thì phải chăng có mấy triệu người bỏ đạo một năm? Nếu hai năm 1999 và 2001 có số dư cao hơn 14 triệu thì trong số đó có bao nhiêu người lớn theo đạo nhờ truyền giáo? Nếu như năm 2002 số dân Công giáo 1.071.000.000 so với năm 2001 là 1.060.840.000 người, nghĩa là chỉ hơn có 10.160.000 người, thì có bao nhiêu người bỏ đạo và bao nhiêu người lớn trở lại nhờ truyền giáo?
Hơn nữa, chúng ta giả thiết có khoảng 3 triệu người lớn được rửa tội trong một năm (năm 2001 có 2.718.044 người trên 7 tuổi) do truyền giáo thì thử hỏi với số người tham dự mục vụ 4.217.572 người, trong đó có 4.605 giám mục, 405.058 linh mục, 112.244 chủng sinh, 30.097 phó tế vĩnh viễn, 54.828 nam tu sĩ, 782.932 nữ tu đã khấn, 28.766 người tu hội đời, 143.745 thừa sai giáo dân và 2.767.451 giáo lý viên, thử hỏi ai là người truyền giáo có kết quả? Chúng ta cũng đừng quên một thực tế đau lòng đã và đang xảy ra, là nhiều người lớn được rửa tội chỉ để lấy vợ lấy chồng. Vậy ai là người thật tâm theo đạo trong số 3.432.997 người kết hôn trên toàn thế giới vào năm 2001 (x. HĐGM VN, Giáo hội Công giáo Việt Nam, Niên Giám 2004, NXB Tôn Giáo, 2004, tr. 180-182; x. Nguyễn Ngọc Sơn, Người mục tử cộng đồng hướng về tương lai, NXB TP. HCM, 1996, tr. 7-12). Không biết những con số nhức nhối này có gợi cho ta hồn tông đồ không?
Tóm lại, những con số thống kê cho chúng ta thấy: dân số Công giáo không phát triển tương ứng với tỷ lệ gia tăng của chính mình: thật sự đang có một số người lớn theo đạo nhờ truyền giáo và cũng có nhiều người khác bỏ đạo. Điều này đặt ra nhiều vấn đề cho những người có trách nhiệm trong Giáo Hội.
1.2. Một vài số liệu về công cuộc truyền giáo của Giáo hội Công giáo Việt Nam
Kể từ khi Tin Mừng được loan báo trên đất nước Việt Nam vào năm 1533 đến nay, công việc truyền giáo ở Việt Nam trải qua nhiều thời kỳ biến động, từ lúc khai sinh (1533-1659), hình thành (1659-1802), thử thách (1802-1885) đến phát triển (1885-1960) và trưởng thành (1960 đến nay). Vào cuối thời kỳ mở đạo chính thức (1615-1665), đã có cả trăm ngàn người tin theo Đức Kitô. Rồi trong thời kỳ thử thánh, người ta vẫn ùn ùn theo đạo bất kể nguy hiểm đến tính mạng. Các nhà thừa sai nước ngoài, tuy rất ít và chưa thông thạo Việt ngữ, vẫn là những gương sáng sống động của Đức Kitô và mỗi tín hữu, nhất là những người mở đất phương Nam, đều sống chan hoà tình thương đối với mọi người nên họ đã cuốn hút người khác theo đạo rất đông.
Tuy nhiên, bước vào thời kỳ trưởng thành, dù có nhiều thuận lợi về mặt vật chất và tinh thần, tốc độ phát triển của Giáo hội Việt Nam như chậm lại và công cuộc truyền giáo hình như không có kết quả khả quan. Chúng tôi đã trình bày vấn đề này và các số liệu minh chứng trong cuốn Người mục tử cộng đồng hướng về tương lai (x. Nguyễn Ngọc Sơn, sđd, tr. 67-85). Ta có bảng thống kê sau đây:
Từ năm 1993 đến 2003, chúng ta thấy tỷ lệ dân số Công giáo so với dân số cả nước đã tăng lên đôi chút, từ 6,65% lên 6,99% (lưu ý: chúng tôi tính dân số cả nước theo số thống kê chính thức của Tổng Cục Thống kê chứ không theo Báo cáo thường niên của HĐGM VN để cho chính xác hơn) và đã ngăn được đà đi xuống của nhiều chục năm trước để bắt đầu đi lên. Như thế là công cuộc truyền giáo ở Việt Nam bước đầu đã có một vài hiệu quả đáng khích lệ.
Nhưng nếu chúng ta nhìn kỹ lại mình, trong hơn 40 năm qua, Giáo hội Việt Nam vẫn chưa phát triển cho đúng với tên gọi trưởng thành, kể khi Toà Thánh thiết lập Hàng Giáo phẩm tại Việt Nam để đi từ tình trạng được truyền giáo trở thành dấn thân ra đi truyền giáo cho người khác, nhất là cho đồng bào thân yêu của mình, vì còn tới 93% dân số chưa biết Đức Kitô. Chúng ta tự hỏi, với con số khoảng 30.000 người lớn theo đạo mỗi năm trong ít năm gần đây, thì ai truyền giáo trong số 67.596 người tham gia công tác mục vụ (trong đó có 40 giám mục, 2.777 linh mục, 1.920 tu sĩ nam, 10.377 tu sĩ nữ, 1.326 chủng sinh, 51.156 giáo lý viên) và hàng trăm ngàn đoàn viên của các tổ chức Công giáo Tiến hành? Ai là người ý thức về nhiệm vụ truyền giáo của mình trong số 5.572.525 tín hữu? Trong số những người trở lại đạo ấy, ai thật tâm theo đạo vì Chúa, còn ai chỉ theo đạo để lấy vợ lấy chồng? Theo báo cáo của các xứ đạo, hầu hết các lớp dự tòng là để chuẩn bị cho những người muốn lập gia đình với người có đạo.
Nhìn vào số đông những người tham gia công tác mục vụ so với số ít những người trở lại đạo ở Việt Nam, chúng tôi chợt nghĩ đến hình ảnh những người câu cá ngồi bên bờ biển thỉnh thoảng mới giật được một con cá nhỏ. Trong khi đó, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta ra khơi thả lưới bắt cá cho đầy thuyền nếu chúng ta vâng theo lời Người. Anh chị em Công giáo Hàn Quốc và một vài nơi đã làm được điều đó.
1.3. Việc truyền giáo của các giáo hội anh em
Hàn Quốc là một nước có điều kiện giống chúng ta: cũng bị ảnh hưởng bởi Tam Giáo Đông Phương, cũng bị chia cắt đất nước theo hai chủ nghĩa Tư bản và Cộng sản, cũng vươn lên từ những đổ nát của chiến tranh, cũng bị ảnh hưởng bởi toàn cầu hoá, đô thị hoá. Vào năm 1949, người Công giáo Hàn Quốc chỉ chiếm 1%, đến năm 2002 đã lên đến 8,56%. Giáo hội Hàn Quốc hiện nay có 4.047.000 người Công giáo trên tổng số 47.270.000 dân. Số người làm công tác mục vụ gồm 1 hồng y, 5 tổng giám mục, 20 giám mục, 2.731 linh mục triều và dòng, 1.882 chủng sinh, 1.882 nam tu, 7.938 nữ tu và 12.067 giáo lý viên (theo Niên Giám Thống kê của Toà Thánh năm 2003).
Nếu chúng ta nhìn xa hơn, chú ý đến công việc truyền giáo của các Giáo hội Kitô khác, có lẽ chúng ta sẽ khiêm tốn để học hỏi những kinh nghiệm của anh em thay vì có một thái độ thụ động như hiện nay. Dù các Hội truyền giáo của anh em Tin Lành ra đời muộn hơn Bộ Truyền giáo của ta (1622), nhưng sau khi William Carey xuất bản tác phẩm nói về bổn phận truyền giáo của các Kitô hữu vào năm 1792, hoạt động truyền giáo của các Giáo hội Tin Lành và Anh giáo phát triển nhanh chóng và thu được nhiều kết quả lớn lao.
Chúng ta cũng đừng quên rằng môn Truyền giáo học như một khoa suy tư thần học có hệ thống về sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Chúa Kitô không phải khởi đầu từ Công giáo mà xuất phát từ phía các anh em Tin Lành với Karl Graul (+1864), nhất là với Gustav Warneck (+1910), (x. Felipe Gomez, Truyền giáo học, NXB Antôn và Đuốc Sáng, tr. 12-13).
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10-5-2004, tr. 26-28 nói đến sự phát triển nhanh chóng số người tin theo Đức Kitô tại Trung Quốc, nhờ việc tích cực truyền giáo của các tín hữu địa phương theo các hệ phái Tin Lành. Con số ước lượng lên tới gần 90 triệu người. Trong khi các tín hữu Công giáo lâu đời ở đây chỉ có khoảng 3.500.000 - 4.000.000 người, theo thống kê Toà Thánh năm 2003 (x. sđd, Niên Giám 2004, tr. 162). Hơn nữa sự chia rẽ giữa 2 Giáo hội Công giáo Thầm lặng và Công khai ở lục địa lớn lao này vẫn là một phản chứng khiến cho việc truyền giáo không mang lại nhiều kết quả.
Ở Việt Nam, anh em Tin Lành đạt được những kết quả truyền giáo không thể ngờ được. Năm 1999, theo Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam, số tín hữu Tin Lành là 410.134 người (x. Tổng cục Thống kê, Tổng điều tra dân số, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.112-113), trong đó có 188.881 người ở vùng Tây Nguyên thuộc 3 tỉnh Kontum, Gia Lai, Đăklăk, riêng tỉnh Lâm Đồng: 55.888 người, Bình Phước: 36.953 người, Đồng Nai: 10.300 người. Đây là những tỉnh có đông đồng bào thiểu số theo đạo. Trừ TP. HCM có 22.675 người theo đạo, các tỉnh khác đều có ít tín đồ. Vậy mà chỉ 4 năm sau, con số đã tăng lên gấp 2,5 lần. Theo Mục sư Huỳnh Thiên Bửu, chỉ riêng Hội thánh Tin Lành có khoảng gần 1 triệu tín đồ, chưa kể các giáo hội khác như: Cơ Đốc Phục Lâm, Báptít, Methodist, Ngũ Tuần, Môn Đệ Công Hội, Thanh giáo, Trưởng Lão, Hữu Nghị, Nhân chứng Giêhôva… đang tích cực truyền giáo tại nước ta (x. sđd, Niên Giám 2004, tr. 491-492; 132-134).
Đứng trước thành công lớn lao về mặt truyền giáo của các giáo hội anh em, Giáo hội Việt Nam và nhiều Giáo hội Công giáo địa phương khác phải suy nghĩ để tìm ra những nguyên nhân khiến cho người tín hữu không nhiệt thành truyền giáo và truyền giáo không hiệu quả.
2. NHỮNG NGUYÊN NHÂN TIỀM ẨN NGĂN CẢN CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO
Để tìm ra những nguyên nhân này chúng ta cần có nhiều thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về nhiều lĩnh vực trong 3 yếu tố của truyền giáo: nhà truyền giáo, nội dung truyền giáo và người được truyền giáo. Hơn nữa trong mỗi yếu tố, lại có nguyên nhân chủ quan và khách quan tác động đến chúng. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ gợi ý tóm tắt một vài nguyên nhân chính tác động không tốt đến công cuộc truyền giáo hiện nay.
2.1. Không xác định được truyền giáo là gì?
- Nhiều người ngày nay không thích từ truyền giáo. Người ta không thích kiểu tuyên truyền về đạo giống như tuyên truyền cho một chủ nghĩa, một đảng phái, một ý thức hệ nào đó khi làm đủ cách để thuyết phục người khác tán thành, ủng hộ và đi theo tôn giáo của mình. Hành động này có vẻ như không tôn trọng, thậm chí xúc phạm đến quyền tự do của con người, dù rằng người ta chưa nói đến sự cưỡng bức tinh thần hay dùng áp lực, khủng bố để bắt buộc người khác theo đạo. Chúng ta đừng quên rằng ngoài 2 tỷ người tin theo Đức Kitô, còn có hơn 1 tỷ 200 triệu người Hồi giáo, 800 triệu người theo Ấn giáo, 362 triệu theo Phật giáo, 250 triệu theo các đạo truyền thống, hàng trăm triệu người khác theo các tôn giáo mới… (x. sđd, Niên Giám 2004, tr. 180).
- Hơn nữa, truyền giáo càng không phải là một kiểu rao giảng như người ta quảng cáo hay tiếp thị một món hàng, một dịch vụ nào đó. Người ta đã có kinh nghiệm như lời quảng cáo rất hấp dẫn nhưng hàng hoá lại chẳng ra gì. Hoặc người tiếp thị có thể rao bán hàng này mà thực tế lại dùng hàng khác như khi quảng cáo cho kem đánh răng P/S mà chính mình lại dùng kem Colgate. Có lẽ vì thế mà nhiều người bằng lòng với việc đổi tên Bộ Truyền bá Đức tin (Propaganda Fidei) thành “Bộ Loan báo Tin Mừng cho Các Dân tộc.”
- Tuy nhiên, truyền giáo không đồng nghĩa với việc loan báo Tin Mừng. Trong Sắc lệnh Ad Gentes của Công đồng Vatican II, số 16c và Giáo luật khoản 786 đã định nghĩa: “Truyền giáo là việc loan báo Tin Mừng và vun trồng Giáo Hội cho những người chưa biết Đức Kitô cho đến khi Giáo hội mới được thiết lập toàn vẹn, nghĩa là có đủ nhân lực riêng và phương tiện để tự mình thực hiện công tác loan báo Tin Mừng”. Như thế là có một yếu tố mới: “vun trồng Giáo Hội” trong công việc truyền giáo. Tuy nhiên, nhiều văn kiện của Giáo Hội không phân biệt rõ ràng và dùng lẫn lộn từ truyền giáo với loan báo Tin Mừng như Giáo luật khoản 298 và 843 khác với tinh thần của các khoản 781-786.
Còn loan báo Tin Mừng là loan báo biến cố Đức Giêsu Kitô và lời rao giảng của Người để cho người nghe biết Đức Kitô, sống theo giáo lý của Người như Thánh Phaolô từng thực hiện (x. Rm 1,1; 1 Cr 1,17; Gl 1,6.7.11…). Người ta phân biệt loan báo Tin Mừng lần đầu (first evangelization) (cho miền đất hay trong lĩnh vực chưa biết Đức Giêsu Kitô), lần thứ hai hay tái loan báo Tin Mừng (second evang.) (cho người ở môi trường đã từng theo Đức Kitô, rồi mất đức tin) và loan báo Tin Mừng theo cách mới (new evang.) theo nghĩa tái loan báo hay loan báo trong lĩnh vực đặc biệt, hoặc dùng các phương tiện truyền thông đặc biệt như: báo chí, truyền thanh, truyền hình, website….
Ở Việt Nam, nhiều tín hữu, thậm chí có cả giáo sĩ, nghĩ rằng mình đang truyền giáo khi giảng Tin Mừng cho người có đạo trong thánh lễ và các buổi phụng vụ. Nhiều cộng đoàn tu sĩ thì cho rằng khi phục vụ tại các xứ đạo như dạy giáo lý, tập hát, đánh đàn trong buổi lễ, cắm hoa trong nhà thờ là đã trực tiếp cộng tác vào công cuộc truyền giáo.
Thật ra, tuy truyền giáo và loan báo Tin Mừng có chung một nội dung là Đức Giêsu Kitô và giáo lý của Người, nhưng vẫn khác nhau ở vài điểm sau. Loan báo Tin Mừng nhắm tới cả người có đạo và không có đạo, còn truyền giáo chỉ nói tới người chưa có đạo. Việc loan báo Tin Mừng có thể thực hiện ngay và thoáng qua trong giây lát, còn việc truyền giáo đòi hỏi một thời gian lâu dài đủ để cho hạt giống Lời Chúa thấm sâu vào lòng người nghe, nẩy mầm, lớn mạnh và phát sinh hoa trái tốt đẹp. Đó là sự vun trồng Giáo Hội trong công tác truyền giáo.
Cuối cùng, các văn kiện của Công đồng Vatican II và một số vị giáo hoàng gần đây, như Đức Phaolô VI và Gioan Phaolô II, muốn hoà nhập việc truyền giáo và loan báo Tin Mừng thành một trong sứ mạng của Giáo Hội vì Giáo Hội tiếp tục sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu. Đức Giêsu là hiện thân của Tin Mừng sống động, và khi Giáo Hội sống theo Lời Chúa, gắn bó mật thiết với Đức Giêsu thì cũng trở nên Tin Mừng sống động, lúc đó, Giáo Hội mới có sức truyền giảng cho anh em. Như thế, chủ thể truyền giáo và nội dung truyền giáo trở nên một trong nhau. Cuối cùng người được truyền giáo, khi tin Đức Giêsu và sống theo lời của Người, sẽ trở nên một với Đức Giêsu và thành Tin Mừng sống động cho người khác. Ba yếu tố chính trong cuộc truyền giáo bây giờ thành một trong nhau và không còn có thể phân biệt được nữa. Truyền giáo cuối cùng trở thành việc sống Tin Mừng và biến thành Tin Mừng theo nghĩa đầy đủ nhất.
- Trong Giáo hội Công giáo trước Công đồng Vatican II, nhiều người còn lầm tưởng truyền giáo là hoạt động chuyên môn dành riêng cho một số người đặc biệt được Giáo Hội uỷ nhiệm, chứ không phải là một nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của mọi tín hữu Công giáo (x. Ad Gentes, số 36). Người ta lầm lẫn sứ mạng (missio) với bài sai truyền giáo (mandatum).
Thật vậy, khi đời sống đạo không còn tập trung vào Tin Mừng Đức Giêsu mà vào các nghi thức phụng vụ ngày càng dài, kinh kệ ngày một nhiều, giáo lý dựa trên triết học và thần học càng ngày càng khó, thì việc truyền đạo không còn là chuyện ai làm cũng được. Muốn làm phải học, hành, phải tập, thử, rồi mới được công nhận chính thức để khỏi sai lầm, lạc đạo. Truyền giáo không còn là chuyện của những giáo dân bình thường mà thuộc về giới giáo sĩ, quý tộc, có dư tiền ăn học, đủ thông minh để giảng dạy, nhất là khi những “nhà truyền giáo” này được uỷ nhiệm như những vị sứ thần của giáo hoàng đến giảng cho các vua chúa, quan lại trong triều đình các nước.
Từ thế kỷ XV đến đầu thế kỷ XX, việc truyền giáo còn bị hiểu lầm tai hại do sự cộng tác với thế quyền vì khi đến với các dân tộc xa lạ, những nhà truyền giáo còn phải được bảo đảm an ninh, phải có tiền để xây dựng nhà thờ, cơ sở giáo dục, bác ái, xã hội. Tiền của và an ninh ấy được các nước thực dân Tây Phương cung cấp từ nguồn lợi của các thuộc địa. Thế là có sự cộng tác giữa thế quyền và giáo quyền khi Toà Thánh yêu cầu Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha bảo trợ công cuộc truyền giáo qua 2 Sắc chỉ Inter Caetera (1493) của Đức Giáo hoàng Alexander VI và Universalis ecclesia (1508) của Đức Julius II. Sự cộng tác này đã dẫn đến nhiều hậu quả tai hại cho công cuộc truyền giáo. Nó làm cho người dân các nước bị đô hộ cảm thấy việc theo đạo của mình không hoàn toàn trong sáng, nhiều người còn từ chối theo đạo của kẻ xâm lăng. Rồi khi các thuộc địa giành được tự do, độc lập, nhiều người lại không muốn truyền giáo vì coi đó là việc làm chống lại quyền tự do của con người.
Tóm lại, khi chưa xác định được truyền giáo là gì và lẫn lộn nó với nhiều hoạt động khác của Giáo Hội, người tín hữu Công giáo, nhất là những vị có trách nhiệm trong Giáo Hội, đã giữ thái độ e dè và ngại ngùng, dù rằng họ biết rất rõ lệnh truyền “Hãy đi rao giảng cho muôn dân…” (x. Mt 28,19) của Đức Giêsu Kitô.
2.2. Vài lý do khiến nhiều người Công giáo không muốn truyền giáo
- Từ sau Công đồng Vatican II, Giáo hội Công giáo lại trải qua một cơn biến động, có thể gọi là khủng hoảng về truyền giáo, bắt nguồn từ những suy tư quá khích của một số nhà thần học về ơn cứu độ cho lương dân. Trong Hiến chế tín lý về Giáo Hội Lumen Gentium, số 16, Công đồng dạy rằng: “Những kẻ vô tình không nhận biết Tin Mừng của Chúa Kitô và Giáo Hội Người, nhưng nếu thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và dưới tác động của ơn thánh, họ cố gắng chu toàn thánh ý Thiên Chúa trong công việc mình, theo sự hướng dẫn của lương tâm, thì họ có thể được cứu rỗi. Cả những kẻ vô tình chưa nhận biết Thiên Chúa cách rõ ràng, nhưng nhờ ơn Chúa, cố gắng sống đời chính trực, Chúa Quan Phòng không từ chối ban ơn trợ lực để họ được cứu rỗi”. Người ta lập luận rằng nếu những lương dân ấy cũng có thể được ơn cứu độ thì cần gì phải truyền giáo cho họ nữa!
Tuy nhiên, chúng ta có thể trả lời cách tóm lược rằng: dù việc cứu độ con người tự do là một mầu nhiệm hoàn toàn tuỳ thuộc vào tình thương của Thiên Chúa, nhưng con người vừa có phần hữu hình, vừa có phần vô hình, nên cần cho họ biết Đức Giêsu Kitô để họ trở thành con người hoàn hảo và sống dồi dào (x. Ga 10,10) chứ không phải chỉ được “rỗi linh hồn” sau khi chết. Hơn nữa, con người tự nhiên không thể tự mình vươn tới bình diện siêu nhiên nên cần phải rao giảng về Đức Giêsu Kitô vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chỉ có Người mới cứu độ toàn diện (x. Ga 14,6), nghĩa là cho con người được trở thành con Thiên Chúa và thành Thiên Chúa. Ơn cứu độ toàn diện này chỉ có thể được thông ban qua các phương tiện Chúa đã an bài là đức tin, phép Rửa và Giáo Hội nên cần phải truyền giáo để giới thiệu các phương tiện ấy. Con người còn liên đới với cả nhân loại như một hữu thể xã hội nên cần phải truyền giáo để quy tụ họ thành một dân tộc cho Chúa Kitô, thành Giáo Hội là Nhiệm Thể của Người. Các điều này đã được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trình bày trong Thông điệp Sứ vụ Đấng Cứu Chuộc (Redemptoris Missio), từ số 4-20, ngày 7-12-1990 và trong Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 10-14, 19-23, ngày 6-11-1999.
- Một lý do khác cũng kể từ Công đồng Vatican II qua Tuyên ngôn Nostra Aetate và Digmitatis Humanae, Giáo hội Công giáo hô hào đối thoại với các tôn giáo ngoài Kitô giáo và nhìn nhận giá trị của các tôn giáo ấy. Hơn nữa, trong những văn kiện mới đây của các Giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II, “Chúa Thánh Thần vẫn tiếp tục gieo các hạt giống chân lý vào các dân tộc, tôn giáo, văn hoá và tư tưởng của họ” (x. Redemptoris Missio, số 28; Gaudium et Spes của CĐ Vat. II, số 26). Nếu những tín đồ các tôn giáo ấy cảm nghiệm thật sự Thiên Chúa, và được cứu độ thì cần gì phải truyền giáo cho khổ công, rồi có thể gây nên những hiểu lầm, tranh chấp và cả xung đột giữa các tôn giáo như đã từng xảy ra trong lịch sử.
Từ những góc độ suy tư thần học về các tôn giáo, người ta có thể có 4 lập trường và đều có ảnh hưởng đến việc truyền giáo: 1. Lập trường “chuyên nhất” (exclusivist) chỉ nhận Đức Kitô là nguồn ơn cứu độ và loại bỏ các tôn giáo khác. 2. Lập trường “bao hàm” (inclusivist) nhận rằng các tôn giáo ngoài Kitô có kinh nghiệm về Thiên Chúa nhưng chỉ Kitô giáo mới đạt đến độ sung mãn. 3. Lập trường “đa dạng” (pluralist) chủ trương đạo nào cũng tốt, cũng dạy ăn ngay ở lành nên chẳng cần truyền giáo. 4. Lập trường “loại suy” (analogist) được các nhà thần học đúng đắn tiếp nhận, cho rằng một số tôn giáo lớn như Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo… là những phương tiện cứu độ nhờ tác động của Chúa Thánh Thần trong các tôn giáo ấy. Các thần linh của họ có thể là những đấng trung gian chuyển cầu ơn lành cho con người. Nhưng chỉ có Đức Giêsu Kitô, Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, mới chỉ cho con người con đường cứu độ ngắn nhất và an toàn nhất. Nhờ mầu nhiệm nhập thể, Người đã đón nhận tất cả những gì của con người và vũ trụ vào trong Thiên Chúa rồi biến chúng trở thành một với Người, thành Thiên Chúa như Người. Do đó, Người là Đấng Cứu Độ duy nhất và là đối tượng của mọi cuộc đối thoại của người Công giáo với các tôn giáo khác. Truyền giáo bây giờ bao gồm đối thoại đại kết, đối thoại liên tôn và hội nhập văn hoá.
- Lý do thứ ba khiến nhiều tín hữu Công giáo không truyền giáo là họ không biết phải nói gì khi truyền giáo. Thay vì chia sẻ với người được truyền giáo kinh nghiệm sống về Đức Kitô và giáo lý của Người, các Kitô hữu lại lầm tưởng là phải rao giảng Lời Chúa qua các bản văn Kinh Thánh được chú giải hết sức tỉ mỉ, phổ biến giáo lý Hội Thánh Công giáo xây dựng trên nền thần học và triết học phức tạp. Do đó, công việc truyền giáo chỉ dành cho các giáo sĩ, tu sĩ được đào tạo cẩn thận.
Người tín hữu Công giáo với trình độ văn hoá thấp kém thời trước, hiểu và sống Tin Mừng đã khó, còn nói chi đến việc loan báo Tin Mừng. Chúng ta hãy nhớ lại ở chính đất nước chúng ta, Tin Mừng được loan báo từ năm 1533 nhưng mãi đến giữa thế kỷ XX, mới có bản Tân Ước bằng tiếng Việt nhờ sự cởi mở của Công đồng Vatican II, trong khi anh em Tin Lành đã có bản dịch từ năm 1925. Kinh Thánh và các nghi thức phụng vụ được đọc bằng tiếng La Tinh, nhiều linh mục bản xứ đọc còn chẳng hiểu, nói chi đến giáo dân. Như thế thì còn ai dám chú giải Lời Chúa, dám loan báo Lời Chúa cho người khác, nếu không được học hiểu kỹ càng.
Hơn nữa, khi Toà Thánh lập Bộ Truyền giáo (Propaganda Fidei) vào năm 1622 để tập trung và điều hành mọi công việc truyền giáo nơi các miền đất chưa biết Đức Kitô, người tín hữu Công giáo hầu như không còn nhận ra sứ mạng truyền giáo của mình nữa. Người ta phó mặc cho Bộ này mọi chuyện liên can đến truyền giáo mãi cho đến khi Công đồng Vatican II mới xác định lại.
Khi công tác truyền giáo chỉ dành cho một số nhà chuyên nghiệp, còn các giáo hội địa phương lại thờ ơ với công tác này, nhất là khi giáo dân không truyền giáo, thì chúng ta thấy ngay kết quả yếu kém của công việc truyền giáo: số người mới theo đạo rất ít so với dân số Công giáo. Nhiều hậu quả tai hại phát sinh từ việc không truyền giáo: chính những tín hữu tại các nước Công giáo lâu đời đã sa sút lòng tin của mình, thậm chí bỏ đạo, đòi phải được tái truyền giáo. Đó là tình trạng của các nước ở châu Âu và Bắc Mỹ. Ta lấy ví dụ trong Bản Thống kê Giáo hội Công giáo và tình hình truyền giáo, tr. 41, dân số Công giáo trong những năm 1997 đến 2000 ở châu Âu không những không tăng thêm một người nào theo tỷ lệ tăng dân số tự nhiên, mà còn bị hụt đi vài triệu người.
Tuy nhiên, điểm quan trọng mà chúng ta cần tìm hiểu cho thời đại hôm nay, nhất là cho Giáo hội Việt Nam, là tại sao truyền giáo không có kết quả và đâu là nguyên nhân chính.
2.3. Những lý do dẫn đến việc truyền giáo thiếu hiệu quả
- Lý do đầu tiên là người tín hữu Công giáo chưa ý thức được sứ mạng truyền giáo của mình là một sứ mạng hết sức cao cả và vinh dự vì được chia sẻ sứ mạng cứu độ của Chúa Giêsu Kitô: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Họ không coi truyền giáo là một tác vụ ưu tiên hàng đầu trong sứ mạng của Đức Giêsu Kitô như Công đồng Vatican II xác định trong các số 17, 18, 19 của Hiến chế Lumen Gentium và đặc biệt Sắc lệnh Ad Gentes, số 4: “Chính Chúa Giêsu, trước khi hiến mạng sống mình cho thế gian một cách tự do, đã thiết lập tác vụ tông đồ và hứa sai Thánh Thần đến, hầu tác vụ và Thánh Thần liên kết với nhau để công trình cứu chuộc luôn luôn đem lại kết quả khắp nơi” (x. Ga 14,17. Nhiều tín hữu, trong đó có cả giám mục và linh mục, thường chỉ biết và thực thi 3 tác vụ giảng dạy, thánh hoá và quản trị, còn tác vụ tông đồ truyền giáo lại bỏ qua, trong khi đây là tác vụ quan trọng nhất của Đức Giêsu: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Người đã xức dầu tấn phong tôi, sai tôi đi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo khó…” (Lc 4,18tt). Người ta đã quá tập trung vào việc quản trị giáo xứ hay giáo phận, với những giờ dạy giáo lý và giảng dạy, những nghi lễ phụng vụ đủ loại và nghĩ rằng làm các việc ấy còn chưa xong, huống chi lo đến việc truyền giáo.
Hầu hết các dòng tu, theo tinh thần của Công đồng Vatican II, đều lấy việc truyền giáo là bản chất của Giáo Hội, nên cũng là bản chất của đời sống tu trì (x. Tông huấn Đời sống thánh hiến, số 72-83). Nhưng trong thực tế, hầu như toàn bộ cuộc sống và hoạt động chỉ dành cho người có đạo: dạy giáo lý cho các lớp chuẩn bị đón nhận các bí tích trong xứ đạo, phục vụ trong các cử hành phụng tự… Chỉ có một số rất ít dạy giáo lý dự tòng và dành thời giờ cho công tác xã hội, thăm viếng lương dân, đối thoại liên tôn…
Người giáo dân Việt Nam tập trung đời sống đạo vào việc tham dự các bí tích theo kiểu “sáng lễ chiều kinh”. Do hoàn cảnh khó khăn của đất nước, các hội đoàn Công giáo Tiến hành chưa được phép hoạt động, nên rất ít người tham gia. Ngoài một vài hội đoàn có tinh thần truyền giáo như Legio Mariae có chương trình thăm viếng lương dân, hầu hết chỉ sinh hoạt với người có đạo. Mỗi năm, vào Ngày Quốc tế Truyền giáo, nhiều xứ đạo chỉ biết tổ chức chầu Thánh Thể, cầu nguyện và góp tiền vào các Hội Truyền giáo chứ không biết tổ chức gì hơn như thăm viếng lương dân nghèo, tìm gặp các anh em ngoài Kitô giáo, lo việc hội nhập văn hoá…
- Do không ý thức được sứ mạng nên họ cũng không gắn bó với Đức Giêsu để trở thành một Tin Mừng sống động như Người, để được Người chuyển thông quyền năng làm chứng cho Tin Mừng như Đức Giêsu đã làm cho các môn đệ khi sai họ đi truyền giáo: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo... Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy họ sẽ trừ được quỷ, sẽ nói được những tiếng mới lạ… Nếu họ đặt tay trên những người bệnh thì những người này sẽ được mạnh khoẻ… Các Tông đồ ra đi rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông và dùng những dấu lạ kèm theo mà xác nhận lời các ông rao giảng” (Mc 16,16-20). Không có đời sống tràn đầy tình yêu và dấu lạ để chứng minh cho Tin Mừng cứu độ, nhiều nhà truyền giáo thời nay chỉ còn là người quảng cáo, tiếp thị một thứ tin mừng “dỏm” và đó không phải là Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.
Nhiều tín hữu đã hiểu lầm việc loan báo Tin Mừng là lặp lại một số câu Kinh Thánh hay lời giải thích Kinh Thánh cho người khác. Tôi còn nhớ khi lên Buôn Ma Thuột giảng tĩnh tâm cho các nữ tu dòng Nữ Vương Hoà Bình, tôi được mời nói chuyện với hơn 100 giáo lý viên tại nhà thờ Chính toà. Tôi hỏi cử toạ: “Giả như gặp một bà mẹ người dân tộc thiểu số đang cho con bú thì các anh chị sẽ loan báo cho người này những câu Tin Mừng nào thích hợp nhất?”. Một vài cánh tay giơ lên và có người trả lời: “Câu Tin Mừng đó là ‘Phúc thay cho lòng đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú’”. Tôi hỏi cộng đoàn có đồng ý với câu trả lời không, thì hầu như tất cả đều cho rằng đó là câu trả lời thích hợp nhất.
- Nhưng các bạn hãy tưởng tượng một nhà truyền giáo, khi gặp người phụ nữ đó, với thái độ rất trang trọng, đọc lên câu Tin Mừng này thì người đàn bà đó sẽ nghĩ gì. Bà ta nghĩ: “Có lẽ mình đang gặp một người điên vừa mới ở bệnh viện Biên Hoà hay Chợ Quán ra!”.
- Xin cho phép tôi được loan báo Tin Mừng như sau: Tôi nói với người đó: “Chị ơi, chị bế cháu mà để đầu ngửa ra như thế thì cháu sẽ bị ọc sữa và vú chị bị đau. Chị hãy bế cháu thẳng lên, mặt cháu đừng áp chặt vào bầu vú để cháu dễ thở và chị sẽ khoẻ hơn”. Đó là Tin Mừng của Chúa Giêsu, theo Antôn Sơn, vì tôi nghĩ rằng bất cứ điều gì tốt đẹp ta loan báo và làm cho người khác được khoẻ hơn, vui hơn, bình an và hạnh phúc hơn, đều là Tin Mừng của Chúa Giêsu. Tin Mừng đó được hội nhập vào người tín hữu để rồi chúng ta nói ra theo sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần vì thế mới có Tin Mừng Chúa Giêsu theo Matthêu, theo Marcô, theo Luca và theo hàng tỷ người trên khắp thế giới. Lúc đó ta mới hiểu lời kết thúc Tin Mừng theo Gioan: “Còn có nhiều điều khác Đức Giêsu đã làm. Nếu viết lại từng điều một, thì tôi thiết nghĩ: cả thế giới cũng không đủ chỗ chứa các sách viết ra” (Ga 21,25).
- Một lý do quan trọng khác là nhiều tín hữu thời nay đã không hành động theo Chúa Thánh Thần nên việc truyền giáo kém hiệu quả vì chỉ có Chúa Thánh Thần mới là tác nhân chủ yếu trong công cuộc Phúc Âm hoá (x. ĐTC Gioan Phaolô II, Tông huấn Giáo hội tại châu Á, số 17). Chỉ có Ngài mới có quyền năng để biến các môn đệ Đức Giêsu đang chán nản, sợ hãi trở thành những tông đồ can đảm, khôn ngoan và đầy ân sủng như trong thời Giáo Hội sơ khai, nhất là vào dịp Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 2,1-12) đến nỗi bóng của Phêrô phủ lên ai thì tất cả đều được chữa lành (x. Cv 5,15-16).
Trong nhiều thế kỷ, vai trò của Chúa Thánh Thần mờ nhạt trong đời tín hữu Công giáo mãi cho đến những năm gần đây mới được sáng tỏ, nhất là từ sau Công đồng Vatican II và dịp mừng Năm Thánh 2000. Tuy nhiên, ngày nay có một khuynh hướng muốn tách biệt hoạt động của Chúa Thánh Thần ra khỏi hoạt động của Chúa Giêsu Cứu Thế. Khuynh hướng này đang lan nhanh và cũng dẫn tới việc không muốn truyền giáo, vì cho rằng Chúa Thánh Thần đã hiện diện khắp nơi trong các tôn giáo và các nền văn hoá, vì thế con người có thể được cứu rỗi, mà không cần đến việc tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu Cứu Thế.
Quả thật, chỉ khi nào người tín hữu Công giáo gắn bó với Chúa Thánh Thần họ mới hiểu biết trọn vẹn sự thật về Chúa Giêsu, để có thể tiếp tục sứ mạng của Người là làm chứng cho Đức Giêsu như Vị Cứu Tinh duy nhất (x. Ga 15,26-27; Cv 1,8) bằng những đoàn sủng và những ân huệ khác nhau (x. 1 Cr 12,4-11; Ep 4,11-16). Giống như Đức Giêsu, cả cuộc đời được tác động bởi Chúa Thánh Thần, từ lúc Đức Maria mang thai Người cho đến khi Người gục đầu trên thập giá để trao Thần Khí (x. Ga 19,30), cuộc đời nhà truyền giáo phải tràn đầy Thánh Thần của Đức Giêsu. Chính vì thế, ngay sau khi sống lại, Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các môn đệ để sai các ông ra đi tiếp tục sứ mạng cứu thế của Người (x. Ga 20,22).
Lý do quan trọng cuối cùng khiến cho việc truyền giáo kém hiệu quả là từ trước đến nay, người ta ít lưu tâm đến người được truyền giáo trong toàn thể điều kiện và môi trường sống của họ. Sau khi hai Tông đồ Phêrô và Phaolô đến Roma, nhất là sau khi thành Giêrusalem bị phá huỷ vào năm 70, Roma trở thành trung tâm Kitô giáo và từ đây, đạo lan đi khắp nơi. Dĩ nhiên, nhiều vùng ở Đông Phương còn chịu ảnh hưởng của nền văn hoá và văn minh Hy Lạp trước đó, nhưng người Roma vẫn chiếm ưu thế. Sau khi Kitô giáo khuất phục được các dân Man Di (Barbares), ưu thế của Kitô giáo và nền văn minh Kitô giáo ở phương Tây ngày càng nổi bật, lan đến các dân tộc ở châu Âu trong thiên niên kỷ đầu tiên và các dân tộc ở châu Mỹ, châu Phi trong thiên niên kỷ thứ hai, qua các nhà truyền giáo.
Dù Thánh bộ Truyền giáo đã nhắc nhở các vị thừa sai phải tôn trọng tập tục, phong hoá, nghi lễ của các dân tộc được truyền giáo qua Huấn thị năm 1659 gửi các vị Đại diện Tông Toà (x. F. Gomez, S.J., Truyền giáo học, tr.47) nhưng trước ưu thế của khoa học, kỹ thuật, văn minh Tây Phương, nhiều thừa sai đã coi thường dân bản địa, không chịu tìm hiểu để tìm cách hội nhập văn hoá mà đòi xoá bỏ các phong tục, tập quán bản xứ. Cuộc tranh luận về nghi lễ giữa các dòng tu và đại học ở châu Âu kéo dài từ năm 1633 đến 1742, gây nên những thiệt hại lớn lao cho công cuộc truyền giáo tại các nước châu Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam, Ấn Độ cũng như các nước ở châu Mỹ La Tinh và Philippines.
Sau khi tìm hiểu một số nguyên nhân ngăn cản công cuộc truyền giáo, chúng ta đặt câu hỏi “vậy thì bây giờ Giáo Hội, hay người tín hữu chúng ta, phải làm ngay việc gì để thật sự truyền giáo và truyền giáo cho có kết quả tốt đẹp?”. Câu trả lời đã được các nghị phụ Công đồng Vatican II, cũng như các giáo hoàng gần đây trả lời qua các văn kiện: Ad Gentes, số 5, 36; Apostolicam Actuositatem, số 2; Lumen Gentium, số 17, số 3; Phaolô VI, Evangelii nuntiandi, số 6-16; Gioan Phaolô II, Missio Redemptoris, số 1; Ecclesia in Asia, số 10-14. Đó là phải:
3. PHẢI XÁC TÍN SỨ MỆNH TRUYỀN GIÁO CỦA MÌNH
Thật vậy, nhà truyền giáo trước hết và luôn luôn phải xác tín rằng mình đang tiếp tục sứ mạng cứu độ của Đức Giêsu Kitô bằng cách rao giảng Tin Mừng của Người như một sứ đồ tràn đầy ân sủng của Chúa Thánh Thần để vun trồng Giáo Hội nơi những con người hay các lĩnh vực mà Chúa Cha muốn sai mình đi tới.
3.1. Nguồn gốc sứ mạng của nhà truyền giáo là sứ mạng của Đức Giêsu
Trong công cuộc truyền giáo luôn luôn có sứ mạng. Hai từ truyền giáo và sứ mạng của Việt ngữ bắt nguồn nơi một từ duy nhất missio của tiếng La Tinh, từ này bởi động từ mittere ở thể thụ động missum, có nghĩa là “được sai đi”. Nhà truyền giáo luôn ý thức mình được Thiên Chúa sai đi như Ngài đã sai Môsê (x. Xh 3,15), Gedeon (x. Tl 6,4) và các tiên tri như Isaia (x. 2 Sb 24,19), Giêrêmia (x. Gr 7,25). Chính Chúa Giêsu đã áp dụng lời tiên tri ở Is 61,1 để nói đến việc Chúa Cha sai Người đến (x. Lc 4,18): như Chúa Cha đã sai Người, Người cũng sai chúng ta (x. Ga 20,21). Từ tông đồ hay sứ đồ (apostolos) bắt nguồn từ “apostellein” của tiếng Hy Lạp, cũng có nghĩa là được sai đi, đồng nghĩa với từ “missionarius” của tiếng La Tinh có nghĩa là người được sai đi, nhà thừa sai, người thi hành sứ mạng. Do đó, việc tông đồ có cùng một nội dung với việc truyền giáo vì là việc của người được sai đi. Như thế, toàn bộ việc truyền giáo, việc tông đồ của Giáo Hội đều bắt nguồn từ sứ mạng của Đức Giêsu: nghĩa là trong việc được sai đi và không ngừng được Thiên Chúa sai đi (x. Ad Gentes, số 3: sứ mạng của Chúa Con).
Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể đã được Chúa Cha sai đến trần gian để biểu lộ và mạc khải tình thương cứu độ của Chúa Cha. Ai tin vào Người sẽ được sống đời đời, được Người chia sẻ thần tính để trở thành con Thiên Chúa (x. Ga 3,16). Đó là Tin Mừng cho mọi người nghèo hèn so với Thiên Chúa cao sang (x. Lc 4,18). Tin Mừng cứu độ ấy được Đức Giêsu loan báo bằng tất cả con người của mình, bằng lời nói cũng như hành động. Đến lượt chúng ta cũng được sai đi khắp bốn phương trời để loan báo Tin Mừng này cho anh em, cho muôn vật muôn loài và Người đã ban Thánh Thần để ta có thể hoàn thành sứ mạng cao cả đó. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trình bày sứ mạng này trong Thông điệp Missio Redemptoris để xác định cho chúng ta hiểu tất cả nội dung bao la của việc truyền giáo.
Nếu nhà truyền giáo có chung sứ mạng với Đức Giêsu Kitô thì điều kiện cơ bản nhất để hoàn thành được sứ mạng của mình là phải kết hợp mật thiết với Đức Giêsu Kitô. Điều này thuộc về linh đạo truyền giáo: lấy Đức Kitô làm trung tâm điểm cho đời sống và quy về Đức Kitô mọi hoạt động của mình (x. ĐTC G.P. II, Redemptoris Missio, số 8). Người này sẽ lấy Đức Kitô làm lẽ sống, có những tâm tình của Đức Kitô, hành động như Đức Kitô để không còn là mình sống, nhưng là Đức Kitô sống trong mình (x. Gl 2,20). Lúc đó nhà truyền giáo đạt đến mức độ tự huỷ hoàn toàn để trở thành hiện thân của Đức Kitô, khiến cho người được truyền giáo cảm nhận được sự cứu độ toàn diện nơi Đức Kitô. Người đó có thể chữa lành bệnh tật, không phải như một bác sĩ hay phù thuỷ dùng bùa phép, nhưng trong tư cách là chứng nhân của Đức Kitô vì “với Đấng ban sức mạnh cho họ, họ có thể làm được mọi sự” (x. Pl 4,13).
3.2. Sứ mạng của nhà truyền giáo còn là sứ mạng của Giáo Hội
Một khi nhà truyền giáo gắn bó với Đức Kitô, người đó sẽ xác tín ngay rằng mình thuộc về Giáo Hội là Hiền thê của Đức Kitô và đang thi hành sứ mạng của Giáo Hội, “sứ mạng này tiếp diễn và làm phát triển sứ mạng của Đức Kitô qua dòng lịch sử”. Sứ mạng của Giáo Hội khởi đầu với các Tông đồ (x. Mc 3,13) bằng lệnh truyền của Đức Kitô: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép Rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28,19-20). “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thụ tạo. Ai tin và chịu phép Rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin sẽ bị kết án” (Mc 16,15-16). Sứ mạng này đã được các Tông đồ truyền lại cho hàng giám mục, với sự tham dự của các linh mục và của mọi chi thể của Đức Kitô (x. Ad Gentes, số 5).
Sứ mạng truyền giáo của chúng ta khởi đầu từ lúc chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa tội nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Lúc đó chúng ta làm thành Giáo Hội lữ hành: “Tự bản tính, Giáo Hội lữ hành phải truyền giáo, vì chính Giáo Hội bắt nguồn từ sứ mạng của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Thiên Chúa Cha” (Ad Gentes, số 2; x. Lumen Gentium, số 2). Như thế, việc truyền giáo không còn mang tính cách cá nhân, là việc riêng của từng người hoặc của một dòng tu, một tập thể hay cộng đoàn nào, nhưng là việc chung của Giáo Hội mà mọi người phải hiệp thông và cộng tác với nhau vì cùng là thân thể mầu nhiệm của Đức Giêsu Kitô. Do đó, nếu không có sự hiệp thông với Giáo Hội, việc làm của chúng ta không thuộc về sứ mạng của Đức Kitô, không có tính cách truyền giáo. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã trình bày khá kỹ về sự hiệp thông này như điều kiện cơ bản để truyền giáo trong Tông huấn Giáo hội tại Á Châu, số 24-28, trước khi chúng ta tìm cách đối thoại với mọi người.
Để hoàn thành sứ mạng truyền giáo một cách hiệu quả, người tín hữu phải gắn bó với Chúa Thánh Thần để được ân sủng của Ngài nâng đỡ và được tình thương của Ngài thúc đẩy khi họ đến với những anh chị em chưa biết, chưa tin Đức Kitô thuộc mọi dân tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hoá khác nhau, trong những hoàn cảnh sống khác biệt. Muốn quy tụ những người này thành một đại gia đình duy nhất, thắng vượt sự phân tán do tháp Babel (x. St 11,8-9) là biểu tượng, họ cần nói được ngôn ngữ tình yêu mà Chúa Thánh Thần đã ban cho các môn đệ của Đức Giêsu trong ngày lễ Hiện Xuống (x. Cv 2,5-12). Chỉ có ngôn ngữ này mới vượt qua những xung đột, tranh chấp, chia rẽ, chiến tranh khi người ta nói với nhau bằng ngôn ngữ của tiền bạc, sức mạnh, quyền lực, ưu thế quân sự… Nhà truyền giáo hay tông đồ, do đó phải thật sự yêu thương mới có thể xây dựng nền văn minh của tình thương và cũng chỉ có yêu thương mới thật sự mang lại hạnh phúc cho con người.
Nhà truyền giáo được Thánh Thần tình yêu thúc đẩy sẽ ra đi, trước tiên là ra khỏi tâm hồn nhỏ hẹp của mình rồi mới có thể đến với muôn loài muôn vật để loan báo Tin Mừng cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Không gian truyền giáo bao la mở rộng ngay ở cửa tâm hồn họ, khiến họ không cần phải đi đâu xa hơn nữa. Lúc đó họ sẽ nhận được những ân sủng ngôn ngữ của Thánh Thần để đi vào từng dân tộc hay từng lĩnh vực còn xa lạ với Đức Giêsu Kitô.
Họ có thể dùng ngôn ngữ của màu sắc, của chữ viết, âm thanh, của khoa học kỹ thuật… để rao giảng Tin Mừng qua những bức hoạ, phim ảnh, sách báo, bài nhạc, các công trình nghiên cứu… mà “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa” (x. Cv 2,11) thay vì cổ vũ mãi một hình ảnh của “Thánh nữ Têrêxa Hài Đồng Giêsu liên lỉ cầu nguyện, hy sinh, cả đời chẳng bước ra khỏi tu viện và trở thành bổn mạng của các xứ truyền giáo chẳng thua gì Thánh Phanxicô Xaviê”. Chắc chắn chị Thánh Têrêxa đóng vai trò đặc biệt cho công cuộc truyền giáo, nhưng kiểu cổ vũ này đã khiến nhiều người thiếu xác tín về sứ mạng đã tìm được chỗ dung thân! Và rồi họ để mất các đoàn sủng ngôn ngữ tình yêu của Thánh Thần!
Một linh mục giảng Tin Mừng trong nhà thờ chứa nhiều lắm được 2.000 người, nhưng một bài báo trên tờ Tuổi Trẻ hằng ngày có hơn 200.000 người đọc. Một chương trình ca nhạc, kịch nghệ hay có cả triệu người xem. Một bản cải lương với làn điệu dân ca, vọng cổ mùi mẫn có cả chục triệu đồng bào vùng Cửu Long theo dõi. Một công trình khoa học có thể ảnh hưởng tốt đến hàng trăm triệu, hàng tỷ người. Nếu chúng ta biết nói Tin Mừng bằng những loại hình ngôn ngữ mới, ta mới đạt được kết quả nhiều hơn trong công cuộc truyền giáo. Xin cho phép đưa ra một thí dụ cụ thể là cuốn Sứ điệp loài hoa, trong đó không tìm thấy một từ “Chúa” nào nơi các bài viết, nhưng ai cũng nhận ra tinh thần Tin Mừng ở đó. Tập sách nhỏ ấy đã xuất bản đến nay được 135.000 cuốn. Chúng tôi nghĩ, nhiều tín hữu giáo dân cũng như tu sĩ dư sức để viết những tập sách tương tự, và còn hay hơn thế, nếu chúng ta biết cộng tác với Chúa Thánh Thần để sử dụng các đoàn sủng của Ngài.
Đoàn sủng này như đang đòi hỏi chúng ta phải đào luyện chính mình và tích cực hành động cho bao người nghèo khó quanh ta được nghe Tin Mừng của Đức Kitô. Những người nghèo đó có thể là 80 triệu người Việt Nam đang mong mỏi cảm nhận được sự bình an và hạnh phúc khi họ gặp được một nhà truyền giáo là hiện thân của Đức Kitô nơi gần 6 triệu người Công giáo hiện nay. Đó có thể là những người trẻ (chiếm đến 60% dân số) đang đi tìm những con người lý tưởng dạy cho họ vượt qua cuộc sống hưởng thụ, chạy theo vật chất và hình thức bên ngoài để cảm nhận được một Đức Giêsu thật sự trẻ trung, khôn ngoan, nhân hậu và quyền năng hiện diện giữa họ, qua một người tông đồ giáo dân. Đó có thể là 5,5 triệu người khuyết tật, trong đó phần lớn là chậm phát triển trí não. Đó có thể là hơn 4 triệu di dân chịu nhiều thiệt thòi đang cần được nâng đỡ để sống đúng với nhân phẩm. Đó cũng có thể là hàng trăm ngàn người nghiện ma tuý, nhiễm HIV đang cần một sự chữa lành trong cơn tuyệt vọng.
Họ còn là gần 4 tỷ người châu Á đang sống trong những điều kiện rất khác biệt nhau, tại một số nước được xếp vào loại nghèo nhất địa cầu, dưới những chế độ độc tài, bị phân biệt đối xử vì khác biệt tôn giáo, giai cấp, bị bóc lột đủ mọi mặt… Tất cả như đang kêu cứu: “xin giúp chúng tôi” (x. Cv 16,9). Họ đang mong được gặp Đức Giêsu Kitô để Người giúp họ chiến thắng bệnh tật thể lý, tâm lý, tinh thần và đem lại cho họ một sự giải phóng thật sự và thăng hoa cao quý để sống đúng là con người và là con Thiên Chúa. Nhà truyền giáo phải hoàn thành sứ mạng đó của Đức Kitô và Giáo Hội, nhưng họ còn xác tín được điều này không và họ đang làm gì để thể hiện sứ mạng cao cả này?
Kết luận
Suy nghĩ về sứ mạng truyền giáo của người Kitô hữu, chúng ta như bị thôi thúc bởi có quá nhiều những anh chị em chưa biết Đức Kitô. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thôi thúc từ bên ngoài. Nhà truyền giáo, hơn bao giờ hết, cần phải được thôi thúc từ bên trong bởi niềm xác tín vào sứ mạng cao cả đã được Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần trao phó cho mình, trong tư cách là chi thể của Giáo Hội. Chúa đã trao sứ mạng thì Người cũng ban muôn ơn để giúp ta hoàn thành nhiệm vu. Đó là niềm hy vọng của chúng ta.