PHẦN II : NHỮNG NGUYÊN NHÂN GIÚP GIÁO XỨ VIỆT NAM TẠI PARIS THÀNH CÔNG TRONG MỤC VỤ VĂN HÓA.

Căn cứ theo kết quả phỏng vấn một số giáo dân, dựa trên sự quan sát tại chỗ, và căn cứ vào những phân tích của giới chức có trách nhiệm trong giáo xứ, chúng tôi thiết tưởng 3 nguyên nhân chính sau đây đã giúp giáo xứ Việt Nam tại Paris thành công trong lãnh vực mục vụ văn hóa:

-(A) Nội dung mục vụ văn hóa đáp ứng đúng nhu cầu giáo dân.

-(B) Nhiệt tình đóng góp của giáo dân.

-(C) Tinh thần hăng say của ban biên tập và tu thư

A. NGUYÊN NHÂN THỨ NHẤT : NỘI DUNG MỤC VỤ VĂN HÓA ĐÁP ỨNG ĐÚNG NHU CẦU GIÁO DÂN.

Để phân tích nguyên nhân thứ nhất, trước hết chúng ta cần tìm hiểu: Nhu cầu văn hoá của người giáo dân Việt Nam ở Paris là gì ? Sau đó, tìm hiểu Giáo xứ đã đáp ứng nhu cầu ấy như thế nào qua ba lãnh vực báo chí, sách vở, và các đề tài diễn thuyết.

1. Nhu Cầu Văn Hóa Của Người Giáo Dân Việt Nam Tại Paris: Khi quyết định tái bản bộ báo mới lấy tên là Giáo Xứ Việt Nam, Ủy Ban Mục Vụ Giáo Xứ đã ủy thác ngay cho Tiến Sĩ Trần Văn Cảnh, một giáo sư chuyên môn về ngành giáo dục, tiến hành công tác tìm hiểu nhu cầu mục vụ văn hóa của người giáo dân Việt Nam tại Pạris. Sau khi nghiên cứu điều tra, giáo sư liệt kê 4 nhu cầu sau đây:

- a. Nhu cầu tin tức. Báo chí và truyền thanh truyền hình ở Pháp có nhiều, nhưng hoặc vì kiến thức Pháp Văn không đủ, hoặc vì lòng yêu tiếng mẹ, người Công Giáo Việt Nam nào ở Pháp cũng muốn được biết tin tức bằng tiếng Việt : tin về các sinh hoạt cụ thể hàng ngày của Giáo Xứ, từ lịch lễ lậy, bí tích đến các sinh hoạt đặc biệt về văn hoá, xã hội; tin về Tòa thánh Vatican, về Giáo Hội hoàn vũ, về Giáo Hội Việt Nam, về Giáo Xứ Việt Nam; tin về thế giới, về Á châu, về các Cộng đoàn Việt Nam trên thế giới, về quê hương Việt Nam...

- b. Nhu cầu học hiểu giáo lý và bồi dưỡng đức tin. Hàng ngày vật lộn với cuộc sống vất vả, đức tin công giáo cần phải được bồi dưỡng và hâm nóng qua những bài vắn gọn, giải thích Phúc Âm, cắt nghĩa giáo lý và bí tich, tường thuật những gương lành thánh của lịch sử Giáo Hội và của cuộc sống Giáo Hội hiện đại. Đó là nhu cầu mà nhiều người công khai xác nhận.

- c. Nhu cầu văn hoá và văn học Việt Nam. Sống xa quê hương, hàng ngày phải dùng tiếng ngoại quốc nhiều hơn là tiếng Việt Nam, văn thơ Việt Nam quên dần, nhiều người ước ao được đọc lại những câu ca dao tục ngữ, những vần thơ bình dân lục bát, những áng văn vắn gọn tiếng Việt, những bài phân tích về phong tục, lịch sử, văn minh Việt Nam, những phóng tác, phóng sự về địa dư, chính trị, kinh tế Việt Nam...

- d. Nhu cầu đơn sơ sáng sủa. Về hình thức, ai cũng chỉ ước ao có một tờ báo ngắn gọn, đơn sơ, dễ đọc, dễ hiểu; không cần phải có mầu. Bìa và trình bày chỉ cần sáng sủa” (Giáo xứ Việt Nam số 200 2/2004, tr. 84).

2. Nội Dung Mục Vụ Văn Hóa: Trước 4 nhu cầu của giáo dân, các linh mục và Ủy Ban Mục Vụ Giáo Xứ đã đáp ứng ra sao. Ta hãy duyệt xét từng nhu cầu một qua ba lãnh vực báo chí, sách vở, đề tài diễn thuyết.

a. Về tin tức: Qua hơn 200 số báo đã phát hành trong 20 năm qua, mục tin tức đã được các giới chức quan tâm một cách đặc biệt. Tin tức bao gồm: Tin Giáo Hội, tin Việt Nam và Thế Giới, tin sinh hoạt giáo xứ. Số trang dành cho mục tin tức chiếm gần 1/3 tờ báo. Ví dụ số báo 202 ra ngày 1/4/2004, tòa soạn đã dành 10 trang để đăng 33 tin tức quan trọng về Giáo Hội, tin thế giới và Việt Nam. Đó là chưa kể tin tức các sinh hoạt trong giáo xứ.

b. Về nhu cầu học hỏi giáo lý và bồi dưỡng đức tin: Qua bài Mục Lục Phân Tích Nguyệt San Giáo Xứ Việt Nam 1984-2004 của tác giả Thầy Sáu Phạm Bá Nha đăng trong báo Giáo Xứ Việt Nam số đặc biệt 200, chúng tôi thấy để đáp ứng nhu cầu này, số báo nào cũng có một chủ đề nhất định xoay quanh các đề tài:

-Giáng Sinh, Phục Sinh, Tháng Mân Côi, Tháng Các Linh Hồn

-Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, Truyền Giáo, Các Bí Tích: Giải Tội, Hôn Phối, Ơn kêu gọi Linh Mục.

-Giáo Lý về Đức Tin, Lạc Giáo, Xây Dựng Cộng Đoàn.

Trong lãnh vực xuất bản sách, nhu cầu học hỏi giáo lý và bồi dưỡng đức tin đã được các vị linh mục quản nhiệm ở đây quan tâm rất sớm. Ta chỉ cần đọc sơ qua 54 tựa sách mà Giáo Xứ đã cho tái bản hoặc xuất bản từ năm 1975, sẽ thấy giáo xứ nỗ lực đáp ứng nhu cầu này: Tất cả các tựa sách đã được liệt kê ở Phần I, Mục C: Sinh Hoạt Xuất Bản Sách. Tuy nhiên, ở đây cũng xin nhắc lại một vài tác phẩm tiêu biểu để làm ví dụ:

-Kinh Nguyện Dân Chúa.

-Giờ Thánh Suy Niệm.

-Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành (620 trang).

-Fatima Hòa Bình & Tình Thương (230 trang).

-Sống Đức Tin Trong Thiên Niên Kỷ Mới ( 310 trang).

-Bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội (10 cuốn, mỗi cuốn 400-500 trang). Bộ sách này là một kho tàng vô cùng qúy giá cho toàn thể Giáo Hội Việt Nam vì đây là bộ lịch sử Giáo Hội tương đối đầy đủ, do các sử gia danh tiếng trên thế giới viết.

Sang lãnh vực diễn thuyết, qua 44 đề tài đã được trình bày tại Giáo Xứ Việt Nam ở Paris, chúng tôi thấy 20 đề tài tức 45% các buổi diễn thuyết đã được dành ra để bàn đến vấn đề giáo lý và đức tin. Sau đây là một vài đề tài tiêu biểu được trích dẫn làm ví dụ:

-Công Giáo tiến hành là gì. Diễn giả là Giáo Sư Nguyễn Huy Bảo

-Đời sống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam. Giáo Sư Trương Công Cừu.

-Hiện tượng giáo phái. Đức Ông Mai Đức Vinh

-Khác biệt giữa Do Thái Giáo, Công Giáo, Hồi Giáo. Linh Mục Trần Định

-Xã hội học gia đình Công Giáo. Luật Sư Lê Đình Thông.

-Đức cố Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn: Học Giả Thái văn Kiểm, Giáo Sư Võ Thu Tịnh, Thầy Phạm Bá Nha, Luật Sư Lê Đình Thông.

-Petrus Trương Vĩnh Ký. Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh và Tiến Sĩ Trương Thị Liễu.

-Nhà văn hóa Huỳnh Tịnh Của. Giáo sư Tiến Sĩ Trần Văn Cảnh.

c.Về nhu cầu văn hóa và văn học Việt Nam: Nếu ta có dịp đọc 51 trang mục lục phân tích nguyệt san Giáo Xứ Việt Nam tại Paris của tác giả Thầy Sáu Phạm Bá Nha, chủ bút nguyệt san, trong số báo 200, ra ngày 1/2/2004, ta có thể thấy ngay hai đề tài Đức Tin Công Giáo và Văn Hóa Việt Nam đã được khai thác chiếm hầu như 2/3 số trang của tờ báo. Lý do là vì ban biên tập ý thức vấn đề hội nhập văn hóa, vấn đề tâm tư người viễn xứ hoài tưởng quê hương, muốn hiểu những nét tinh túy của nền văn hóa, văn chương dân tộc..

Về phương diện báo chí, các đề tài lễ hội, Tết, các tập tục về hôn nhân, cưới hỏi, các vấn đề về tín ngưỡng dân gian, các vấn đề văn chương, văn học liên quan đến tiếng Việt, văn sĩ, thi sĩ, tác giả, các mối tình quê hương, nhớ nhà, thương nước đã được thể hiện qua các bài dưới hình thức khảo luận, thơ, tùy bút, phiếm, v.v...

Về các đề tài diễn thuyết những đề tài sau đây đã được đem ra trình bày và thảo luận:

-Ðời sống thôn quê Việt Nam với vấn đề điền địa

-Đời sống tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam

-Thi ca dân tộc

-Hôn nhân xưa và nay.

-Quan niệm về trời.

-Giáo dục Việt Nam qua tác phẩm Ðoạn Tuyệt

-Thờ cúng tổ tiên

-Mê tín dị đoan của người Việt Nam.

-Việt Nam văn hóa, văn minh và văn chương

-Thi sĩ Hàn Mặc Tử.

-Vua Quang trung

-Văn sĩ Gheoghiu qua tác phẩm giờ thứ 25

-Alexandres de Rhodes - 400 năm sinh nhật.

-Sự nghiệp văn hóa và kiến trúc của cụ Sáu Trần Lục

-Mạn đàm về thơ

-Ðức cố Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn

-Ðức cha Nguyễn Bá Tòng

-Học giả Petrus Trương Vĩnh Ký

-Nhà văn hóa Huỳnh Tịnh Của.

Các đề tài diễn thuyết trên đây hầu hết do các học giả, các giáo sư đại học có thế giá trình bày nên nội dung sâu sắc và phong phú.

Về phương diện sách vở bàn đến vấn đề văn hóa, chúng tôi thiết tưởng chỉ cần nêu ra nội dung tác phẩm Ðức Tin Và Văn Hóa mà Giáo Xứ mới xuất bản trong năm 2004 cũng đủ cho thấy giới chức lãnh đạo trong giáo xứ trân trọng vấn đề văn hóa. Ðiều đáng qúy đối với tác phẩm gồm 13 đề tài khảo luận này là chính những người trong giáo xứ viết. Xin trưng ra các ví dụ điển hình:

-Niềm tin trong văn hóa Việt Nam - Giáo sư Tạ Thanh Minh Khánh

-Ðất Việt là quê hương của đạo trời - Luật sư Lê Ðình Thông.

-Chữ "Trời" trong một số cổ thi quốc âm Việt Nam - Bác sĩ Nguyễn Văn Ái.

-Ðối chiếu các tín ngưỡng và tôn giáo ở Việt Nam với Kitô Giáo - Linh mục Mai Ðức Vinh.

-Ðức tin Công Giáo và niềm tin Phật Giáo - Luật sư Nguyễn Thị Hảo.

-Ðạo nào cũng giống nhau ? - Linh mục Mai Ðức Vinh

-Âm nhạc cổ truyền Việt Nam - Giáo sư Phương Oanh

-Hội nhập văn hóa qua thánh ca Việt Nam - Giáo sư Hồng Nhuệ

-Ðức hiếu thảo - Bình Huyên

-Tôn kính tổ tiên - Linh mục Mai Ðức Vinh

-Ðóng góp của thơ Công Giáo vào việc truyền bá Tin Mừng.- Phó tế Phạm Bá Nha

-Thư mục báo chí Công Giáo Việt Nam - Linh mục Trần Anh Dũng

-Cây văn hóa Việt Nam trồng tại Giáo Xứ Paris - Giáo sư Trần Văn Cảnh.

Qua một số đề tài được trích dẫn ở trên, ta thấy một điều rất rõ là trong chính sách mục vụ văn hoá giáo xứ luôn đặt việc rao giảng Tin Mừng trong bối cảnh hội nhập văn hóa Việt Nam, lúc thì đức tin Kitô Giáo được lồng trong khuôn mẫu văn hoá Việt, lúc thì văn hóa Việt được trình bày dưới chiều kích niềm tin Kitô Giáo.

đ : Ao ước một tờ báo đơn sơ sáng sủa. Ước nguyện thứ tư của giáo dân Việt Nam tại Paris là có một tờ báo Công Giáo tiếng Việt. Họ ý thức một cách rõ ràng giáo xứ của họ có giới hạn về mặt tài chánh, nhưng vì nhu cầu bồi dưỡng đức tin, trau dồi văn hóa nên chỉ cần một tờ báo với hình thức đơn sơ, sáng sủa, xuất bản đều đặn, còn hơn là "xuân thu nhị kỳ", mới có một tờ báo gọi là "Đặc San". So với các tờ báo Công Giáo khác như Dân Chúa Âu Châu, Mỹ Châu, Úc Châu, Trái Tim Đức Mẹ, Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, và nếu so ngay cả với các đặc san của các hội đoàn mà tôi thấy ở Mỹ, tờ Giáo Xứ Việt Nam tại Paris không kiêu sa lộng lẫy như những tờ báo trên, nhưng cái hãnh diện của nó là đã tồn tại hơn 20 năm và số độc giả ngày càng tăng. Điều đó chứng tỏ nội dung của tờ báo khá phong phú. Và đặc tính đơn sơ sáng sủa, đề tài không "đao to búa lớn", văn vẻ không mang tính "làm dáng trí thức", đã là những yếu tố giúp tờ báo Giáo Xứ Việt Nam thành công và sống mạnh.

Tuy nhiên, yếu tố đáp ứng đúng nhu cầu giáo dân chưa phải là nguyên nhân độc nhất giúp cho sinh hoạt mục vụ văn hóa được phát triển. Ta phải cứu xét đến nhiệt tình đóng góp của giáo dân.

B: NGUYÊN NHÂN THỨ HAI : NHIỆT TÌNH ĐÓNG GÓP CỦA GIÁO DÂN:

Để tìm hiểu vấn đề này, chúng tôi trình bày những đóng góp về hai phương diện nhân lực và tài chánh.

1. Đóng Góp Của Giáo Dân Về Phương Diện Nhân Lực: Bình thường, các giáo xứ muốn xuất bản một tờ báo, môt bản thông tin chẳng hạn, thường cứ đem tiền đến nhà in, thế là giáo xứ có báo, chẳng ai phải vất vả. Việc này tiện nhưng khuyết điểm nghiêm trọng là giáo xứ không đủ tài chánh cho các số báo sau. Do vậy, báo giáo xứ mãi vẫn chỉ quanh quẩn ở hình thức "Đặc San". Trái lại, tại giáo xứ Việt Nam ở Paris, từ việc đánh máy in ấn, đến đóng gói phát hành báo trong hơn 20 năm qua đều do công sức của giáo dân đảm nhận. Công việc này vất vả gian truân ra sao, xin mời quý vị nghe tác giả Du Sinh, một bút hiệu của Đức Ông Mai Đức Vinh, kể về nhiệt tình này:

"Nói về in ấn, thiết tưởng chúng ta phải đề cập đến những điểm sau đây :

Trình bày bìa báo: Ngay từ đầu anh Vũ Đình Khiêm là người đã giúp trình bày bìa báo trước và sau. Mẫu bìa thứ nhất từ số 01 cho tới số 76, mẫu bìa thứ hai từ số 77 cho tới nay. Anh Khiêm cũng là người vẽ các ảnh in trên mặt bìa trước của tờ báo, từ số 01 đến số 59. Từ số 60 cho đến số 147, ảnh trên mặt bìa là những hình vẽ chúng tôi ‘‘mượn’’ đây đó. Từ số 148 cho đến nay thày Nguyễn Văn Thạch và thày Phạm Bá Nha quán xuyến hình trên bìa báo với máy móc hiện đại.

Đánh máy và trình bày nội dung: Tuy không quen nghề và chẳng có tài nhưng phải chịu trận ngay từ số ra mắt cbo tới số 147, tức từ năm 1984 đến năm 1998 là cha Mai Đức Vinh và nữ tu Kim Liên. Vì những năm đầu tiên chưa có máy vi tính, nên phải dùng máy đánh chữ IBM và sau đó phải bỏ dấu tay. Hai người thường giúp bỏ dấu là ông Nguyễn Tấn Hớn và bà Minh Khánh. Nói đến kỹ thuật trình bày bên trong tờ báo, trước tiên phải cám ơn anh Trần Lan Bằng: anh đã sáng kiến đóng một hộp kiếng có bóng điện ở trong để dễ trình bày trang báo. Hình ảnh bên trong tờ báo chỉ toàn là những hình vẽ nét chúng tôi ‘‘mượn đây đó’’. Kể từ số 148, kỹ thuật trình bày đã được đổi mới với máy móc hiện đại và kinh nghiệm trong nghề của nữ tu Kim Liên và hai thày phó tế Nguyễn Văn Thạch, Phạm Bá Nha : hình thức tờ báo đẹp mắt và sống động hơn. Mẫu bìa thứ hai do anh Vũ Đình Khiêm trình bày cũng hấp dẫn hơn.

Việc in báo lệ thuộc vào máy in và người in. Trước tiên phải in báo bằng máy Offset A4 cũ mà Cha Nguyễn Quang Toán để lại. Với máy này, anh Nguyễn Đình Cầu đã in các tài liệu Giáo Lý, Thánh Ca... vào những năm 1978-1984. Năm báo Giáo Xứ tái bản cũng là năm anh tạ thế. Vì máy đã cũ và không có hợp đồng bảo trì, nên xin anh Trần Lan Bằng đem máy về nhà để vừa xử dụng vừa sửa chữa. Công trình in báo của anh chị Trần Lan Bằng trong hai năm đầu thật lớn lao: Mỗi tháng anh chị phải chở giấy về nhà, in ban đêm rồi chở lại cho Giáo Xứ. Đến năm 1986, do sự giới thiệu của anh Đoàn Ngọc Hưởng, cơ sở Viện Trợ Công Giáo Pháp bán lại cho Giáo Xứ một máy Offset A4 tương đối còn tốt với giá tượng trưng 300F00. Và cũng từ đây, anh Thân Văn Phúc thay thế anh chị Trần Lan Bằng quán xuyến việc in báo. Qua năm 1988, anh Nguyễn Văn Na và anh Phạm Quang Tòng tới thay thế anh Thân Văn Phúc. Kể từ 1996, anh Phạm Quang Tòng là người duy nhất lo việc in báo, cho tới năm 2003, vì công việc gia đình anh không tiếp tục được nữa và hiện nay anh Nguyễn Hoàng đảm nhiệm...

Phát hành: Phát hành báo gồm ba việc chính : 1) Chuẩn bị danh sách các độc giả và làm phong bì gửi báo mỗi tháng. 2) Xếp báo và đóng báo. 3) Gửi báo qua bưu điện.

Chuẩn bị danh sách, băng báo và phong bì : Ba người có công từ buổi đầu là ông Nguyễn Tiến Đạt, bà Nguyễn Đình Thái và ông Thân Văn Hân. Hiện nay tòa báo còn giữ những tập ‘vở độc giả’ chép tay của quý vị. Kể từ năm 1986, công việc này trao lại cho một mình ông Thân Văn Hân. Ông đem sổ độc giả về nhà, kiên trì đánh máy và đóng dấu trên các băng báo. Cho tới năm 1990, khi nhà bưu điện buộc phải bỏ báo vào phong bì, chị Kim Liên đánh tên độc giả trên phong bì, và ông Hân kiểm soát lại và đóng giấu Báo Giáo Xứ lên phong bì. Mãi tới 1996, báo Giáo Xứ mới có hệ thống làm phong bì như hiện nay, và người quán xuyến là chị Kim Liên.

Xếp báo đóng báo, dán băng hay cho vào phong bì để gửi đi : Công việc này phải làm trong một ngày, với một nhóm người ban đầu ít nhưng dần dần đông hơn vì số độc giả tăng thêm. Đây là quý danh những ông bà tự nguyện : 1) Những người đã được Chúa gọi về : Ô. Nguyễn Tiến Đạt, Ô. Võ Đình Quang, Ô. Nguyễn Văn Niệm, B. Phạm Thị Thung, Ô. Trần Văn Trung. 2) Những người vì lý do sức khỏe không thể tiếp tục : B. Nguyễn Đình Thái, Ô. Thân Văn Hân, Ô. Trần Louis, B. Roger Justinienne, B. Débonnaire Lộc, B. Nguyễn Thị Quý, Ô. Nguyễn Trọng Khiêm, Ô. Nguyễn Văn Sao, B. Đồng Thị Năm, B. Mai Thị Đảm, Ô. Nguyễn Văn Sinh 3) Những người quán xuyến hiện nay : Ô. Nguyễn Văn Tốt, Ô. Nguyễn Quý Toàn, Ô. Nguyễn Xuân Cần, B. Agnès Danh, Ô. Trần Huynh, Ô. Michel Đoàn, Ô. Phan Hải, Ô. Phan Đình Lâm, B. Nguon Khánh Huệ, B. Trần Thị Tuyết, B. Nakamura Nobuko, Ô. Nguyễn Văn Du.

Gửi bưu điện : Nhờ sự chỉ dẫn của cha Trần Thanh Giản, báo Giáo Xứ đã được hưởng giá đăc biệt của bưu điện với số nạp bản 50066. Và người chịu trách nhiệm đi gửi báo ngay từ đầu là bà Nguyễn Đình Thái, với tính cách là thủ quỹ của báo. Nhờ sự khéo léo của bà nên các nhân viên bưu điện luôn tỏ ra thông cảm. Tới năm 1998, tức là từ khi Giáo Xứ lên cơ sở mới, vì nhà bưu điện quá xa, nên phải xin xe bưu điện đến lấy, và mỗi lần trả 83,72 euros...

Thủ quỹ Báo Giáo Xứ : Vị thủ quỹ đầu tiên do Hội Đồng Mục Vụ đề cử là bà Nguyễn Đình Thái. Như trên chúng ta thấy, bà đã phục vụ Báo Giáo Xứ rất nhiều ngay từ đầu. Tuy nhiên, vì bà không thể đến Giáo Xứ thường xuyên, nên phần lớn các độc giả đóng tiền báo qua cha chủ nhiệm : Ngài thu và sau một hai tháng, ngài trao hết lại cho bà thủ quỹ để bà làm giấy tờ bỏ vào trương mục của báo. Cuối năm bà làm sổ báo cáo với Ban Báo Chí trong buổi hội thường niên. Kể từ năm 2002, vì lý do sức khỏe bà xin từ chức và cha chủ nhiệm xin bà Nguơn Khánh Huệ quán xuyến thay.

2. Đóng Góp Của Giáo Dân Về Phương Diện tài Chánh : Để biết sự đóng góp của giáo dân về phương diện tài chánh, ta cần biết ban đầu giáo xứ đã trợ cấp cho tờ báo những gì và tình hình tài chánh của tờ báo hiện nay ra sao. Sau đây là phúc trình của tác giả Du Sinh :

Để bắt đầu công việc, quỹ Giáo Xứ dành cho Báo Giáo Xứ món tiền 5.000F (khoảng 1000 US dollars ghi chú của người viết). Và kể từ đó Báo Giáo Xứ hoàn toàn tự lập về tài chánh. Cho đến nay Báo Giáo Xứ sống được là nhờ tinh thần làm việc tự nguyện của các ban Biên tập, Ấn Loát, Phát hành..., nhờ sự góp giúp của quý độc giả và nhờ lòng hảo tâm của quý Ân Nhân. Như chúng ta đã thấy, mỗi lần mua máy mới báo Giáo Xứ đều kêu gọi sự giúp đỡ của quý độc giả và quý ân nhân.

Giá báo và chi thu mỗi năm: Vì muốn giữ tính cách «Báo Cộng Đoàn » nên giá báo Giáo Xứ rất thấp sánh với các tờ báo khác. Từ 1984-1990, giá mỗi số 8F tức mỗi năm 80F; từ 1991-1997, giá mỗi số 12F, tức mỗi năm 120F; từ 1998-2002, giá mỗi số 15F, tức mỗi năm 150F, từ 2003, giá mỗi số 30 euros. Dầu vậy, có tới trên 1/3 độc giả «quên » góp tiền cho Báo Giáo Xứ. Chúng tôi không đòi trực tiếp theo lệ thông thường của các báo, mà chỉ lâu lâu «nhắc xa xa» bằng bài thơ «Cần trợ giúp Tờ Báo » của linh mục Lê Xuân Mầng. Phí tổn tổng quát, mỗi số hiện nay là 1500 euros, và tiền thu mỗi năm từ 17.000 - 19.000 euros.( theo thị trường hối đoái 1 euros bằng 1.20 US dollar).

Theo báo cáo tài chánh trên đây, ta thấy hai khoản chi và thu bằng nhau. Do vậy, nếu tờ báo cần cải tiến kỹ thuật, giáo xứ giải quyết ra sao? Năm 1990, ban báo chí đề nghị mua thêm máy in báo, máy gấp báo, máy xén báo để đáp ứng nhu cầu số độc giả tăng. Nếu mua toàn bộ máy mới của hãng Gestetner, giá cả sẽ là 400,000F. Dĩ nhiên giáo xứ không đủ tiền. Đến khi hãng Gestetner bán các máy móc trên, với giá đặc biệt là 130,000F vì đó là hàng đã đem ra trưng bày, thì Giáo Xứ quyết định mua, nhưng vấn đề đào đâu ra số tiền này. Cha Mai Đức Vinh cho biết nguồn yểm trợ tài chánh như sau:

Trước hết tôi cám ơn Chúa về sự sắp xếp của Ngài cho sinh hoạt văn hóa của Giáo Xứ, và qua Chúa tôi xin cám ơn quý Ân nhân : 1) Ân nhân thứ nhất là «Hội bạn của cha Armand Gagné » (Fondation des amis du Père Gagné) Gia Nã Đại nhận giúp 80.000F chuyển làm bốn lần, mỗi lần 20.000F. 2) Ân nhân thứ hai là một độc giả ẩn danh cho vay 50.000F không lấy lời. 3) Ân nhân thứ ba là quý độc giả mà hôm nay, với tất cả lòng chân thành, tôi xin rộng lượng giúp đỡ báo Giáo Xứ sớm hoàn lại món tiền 50.000F nói trên... »

Đến năm 2001, báo Giáo Xứ lại cần mua máy Photocopy lớn với giá 15,000 Euros. Giáo dân lại đáp ứng lời kêu gọi của Đức Ông. Xin trích một số thư gửi cho Đức Ông trong việc hỗ trợ báo Giáo Xứ:

«Kính xin Đức Ông vui lòng nhận ngân phiếu 100 euros kèm theo đây, đó là tiền ủng hộ báo Giáo Xứ để Báo Giáo Xứ sống mãi »(bà Nguyễn Kim Tuyền). Một tháng sau, trong số báo 182, lại có lời của cha chủ nhiệm như sau : « Chúng tôi rất cảm động và ghi ơn một số độc giả trong tháng qua đã góp tiền báo cách rộng rãi, 40, 50, 60 euros thay vì 30 euros như thường lệ, lại có độc giả góp giúp rõ rệt 100, 80, 70 euros riêng cho việc mua máy... » (tr.35). Rồi trong số báo 185, tháng 07.2002, cha chủ nhiệm thông báo :. .. Một độc giả cho vay vô kỳ hạn 1.000 euros và tổng cộng số các độc giả góp giúp từ bốn tháng qua là 3.144 euros... » (tr.30)."

Ngoài ra một hình thức trợ giúp khác cho báo Giáo Xứ là việc độc giả hăng hái ghi tên mua sách báo dài hạn. Vào năm 1984, khi bắt đầu phát hành báo, bộ mới, số độc giả chỉ có 200. Bốn tháng sau lên tới con số 400. Đến đầu năm 1985 tăng gấp đôi là 800. Năm 1998, là 1000 và vào tháng Giêng năm 2004 số độc giả ghi tên mua báo dài hạn là 1350 người, trong đó số độc giả ở ngoài nước Pháp là 50, trong thủ đô Paris là 950 và ở các tỉnh toàn nước Pháp là 350.

Việc in ấn sách cũng tốn phí rất nhiều. Ví dụ in bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội gồm 10 cuốn, mỗi cuốn khoảng 500 trang, Giáo xứ và ông bà Trần Văn Hòa đã chịu mọi ấn phí.

Đành rằng sản phẩm văn hóa có tiêu thụ được là nhờ giáo dân, nhưng nếu không có một ban biên tập và tu thư hùng hậu, hăng hái thì chính sách mục vụ văn hóa tại Giáo Xứ Việt Nam ở Paris cũng sẽ bị thất bại. Đó là nguyên nhân thứ ba đưa tới sự thành công trong công tác mục vụ văn hóa.

C: NGUYÊN NHÂN THỨ BA: TINH THẦN HĂNG SAY CỦA BAN BIÊN TẬP VÀ TU THƯ

Trong phần này, chúng tôi sẽ trình bày tinh thần của các giáo dân và của các linh mục trong ban biên tập và tu thư. Nhưng trước hết hãy nói đến vai trò giáo dân.

1. Tinh Thần Hăng Say Của Các Giáo Dân Trong Ban Biên Tập và Tu Thư: Đọc bài Người Và Việc trong báo Giáo Xứ số 200, ta thấy tác giả bài báo, Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh và Thi Chương liệt kê tất cả 47 vị trong ban biện tập vẫn thường xuyên gửi bài cho tòa báo. Trong số 47 vị đó, chúng tôi đếm được 16 vị thuộc hàng giáo sĩ gồm linh mục, tu sĩ, nữ tu. 31 vị còn lại là giáo dân, chiếm gần 2/3 lực lượng tờ báo.

Điểm qua tiểu sử các cộng tác viên thuộc thành phần giáo dân trên đây, chúng tôi thấy các vị ấy đều thuộc thành phần trí thức, khoa bảng, như tiến sĩ, luật sư, bác sĩ, giáo sư, ký giả, nhà thơ, nhà văn. Tất cả đã dầy dạn kinh nghiệm viết lách. Nhiều vị đã nổi danh từ lâu, chỉ nội cái tên của họ đi kèm bài viết cũng đủ đảm bảo thế giá cho bài viết và tờ báo. Nhưng điều đáng nói là các vị ấy không chỉ viết một, hai bài, mà đã từng đóng góp nhiều bài cho tờ báo, hoặc đã viết những bài khảo cứu thật dài, thật sâu sắc để xuất bản thành sách. Ví dụ trong tác phẩm Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII, do Giáo Xứ Việt Nam tại Paris xuất bản năm 2000, ta thấy tác phẩm dầy 540 trang, có 10 bài nghiên cứu trong đó 4 bài là do hàng giáo sĩ, còn lại 6 bài do giáo dân trong giáo xứ viết:

-Luật Sư Lê Đình Thông: Mục vụ ngoại giao của Đức Sứ Thần Roncalli.

-Ông Phạm Hòa Hiệp: Đức Gioan XIII, vị Giáo Hoàng của thời đại.

-Luật Sư Nguyễn Thị Hảo: Đức Gioan XXIII khai mở Công Đồng Vatican II.

-Giáo Sư Trần Văn Cảnh: Đức Gioan XIII với vấn đề hòa bình.

-Ông Bà Bùi Bá Lư: Những mẩu chuyện hay của vị Giáo Hoàng nhân hậu.

-Giáo Sư Bùi Thị Lý : Những tháng cuối đời và di chúc tinh thần của Đức Gioan XXIII.

Một ví dụ khác, tác phẩm Văn Hóa và Đức Tin mới được giáo xứ xuất bản năm 2004, dầy 636 trang, trong đó có 13 bài chuyên khảo thì 8 bài là của giáo dân:

-Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh : Niềm Tin Trong Văn Hóa Việt Nam

-Luật Sư Lê Đình Thông : Đất Việt Là Quê Hương Của Đạo Trời.

-Bác Sĩ Nguyễn Văn Ái: Chữ "Trời" Trong Một Số Cổ Thi Quốc Âm Việt Nam.

-Luật Sư Nguyễn Thị Hảo: Đức Tin Công Giáo Và Niềm Tin Phật Giáo.

-Giáo Sư Phương Oanh: Âm Nhạc Cổ truyền Việt Nam Trong Phụng Vụ Công Giáo.

-Giáo Sư Hồng Nhuệ: Hội Nhập Văn Hóa Qua Thánh Ca Việt Nam

-Văn Sĩ Bình Huyên: Đức Hiếu Thảo

-Giáo Sư Trần Văn Cảnh: Cây Văn Hóa Việt Nam Trồng Tại Giáo Xứ Paris.

Chúng tôi không thể liệt kê hết những đóng góp của hàng trăm vị đã tham gia vào công tác mục vụ văn hóa ở Giáo Xứ Việt Nam tại Paris, mà chỉ xin trích đăng đóng góp của một số vị tiêu biểu. Viết phần này chúng tôi trích đăng tài liệu của giáo sư Tạ Thanh Minh Khánh và Thi Chương trong bài Người và Việc trong số báo 200.

Bác Sĩ Nguyễn Văn Ái

Ông hoạt động từ tuổi thanh xuân, trong lúc du học ở Paris, làm Chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Pháp vào những năm 1947-1955; trở về Việt Nam làm Tổng Giám đốc các viện Pasteur và dạy Vi-Sinh Vật Học (Microbiologie Médicale) cho Đại Học Y Nha Dược Saigon; sáng lập Phong Trào Trí Thức Công Giáo VN Pax Romana.

Do vận nước đổi thay, ông đến Pháp năm 1983, bắt đầu xuất hiện trên Báo Giáo Xứ năm 1990. Bước vào tuổi hạc mà thần trí sáng tạo vẫn tiếp tục thăng hoa. Ông không ngừng suy tìm, canh tân những tư tưởng, những luận cứ để minh chứng cho niềm tin, cho đời sống, cho ý nghĩa huyền nhiệm Tình yêu trong hôn nhân.

Xin ghi lại một số bài : - Xa quê hương tìm lại Quê hương (số 65. 6-1990), - Giáo Hội trên đường đổi mới (số 66. 7-1920), - Thập giá và Hy vọng (số 68. 11-1990), - Hòa bình, Canh tân và Hòa giải (số 79. 12-1991), - Hạnh phúc và Tình yêu (số 85. 6-1992), - Tình yêu Thiên tính và Nữ tính (số 119. 12-1995).

Rồi năm 1996, người bạn đời của Bs. Nguyễn Văn Ái, vĩnh viễn ra đi. Trong bi thương, mất mát - suy nghĩ chợt trở thành thi hứng, ‘‘thốt lời thành thơ’’. Từ đó thơ Vân Uyên xuất hiện đều đặn, nhiều nơi, ngôn từ ẩn hiện thâm trầm ngay trong các tựa đề : - Tinh thể (số 126. 7-1996), - Thiên Minh (số 129. 12-1996), - Phúc Ngôn (số 133. 4-1997), - Độc huyền cầm, Mạch ngọc Tuyền (số 155. 7-1999), - Xuân Thiên ước (số 160. 2-2000)...

Nhưng Vân Uyên vẫn có những lời thơ giản dị như : - Nhớ lời mẹ thương (số 147. 11-1998), - Giọt lệ rơi (số 164. 6-2000), - Nở bông hương tình (số 159. 1-2000), - Niềm vui tiệc cưới (số 162. 5-2000).

Và Vân Uyên cũng tiếp tục viết những bài khảo luận giá trị, như Quan niệm về Trời trong Cung Oán Ngâm Khúc (số 181. 3-2001), Chữ Tình và chữ Yêu (quyển Đường vào Tình Yêu)... là một trong những ngòi bút chủ lực của Ban Tu Thư Giáo Xứ Việt Nam Paris, xuất bản sách chuyên đề. Ngoài ra, từ 1995-2000, Bs. Nguyễn Văn Ái là Trưởng Ban Mục Vụ Hôn Nhân.

Giáo Sư Trần Văn Cảnh

Là một trong vài người sơ thảo Nội Qui Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris (năm 1983). Với vai trò Tổng thư ký Ban Thường Vụ HĐMV nhiệm kỳ tiên khởi, 1983-1985, ông tán đồng việc tái bản Báo Giáo Xứ VN Paris bộ mới, tờ ra mắt có bài ‘‘Vài nét đậm thế sự 1983’’ (số 1. 2-1984).

Trong mấy năm đầu, phần tin tức Giáo Hội, thời sự quốc tế do ông và Cha Mai Đức Vinh đảm trách. Vốn là sinh viên Đại Học Đalat, rồi sau đó làm giáo sư dạy Triết Lý Giáo Dục và Động Lực Đoàn Thể (Dynamique de Groupe) cũng tại Đại Học Sư Phạm Dalat; sang Pháp tu nghiệp năm 1973 và tốt nghiệp Tiến Sĩ Giáo Dục. Vì thế ông thường viết về vấn đề giáo dục : - Tự do giáo dục (số 3. 4-1984), - Vài trích dẫn giáo dục trong Văn học Việt Nam, Gương giáo dục gia đình (số 171. 3-2001).

Trong các khóa Chuẩn Bị Hôn Nhân, ông phụ trách đề tài : Giáo dục con cái (quyển Đường Vào Tình Yêu).

Ông cũng viết về các vấn đề xã hội : - Cộng Đồng Kinh Tế Âu Châu (số 6. 7-1984), - Phụ cấp thất nghiệp (số 4. 5-1984),- Người lớn được trả lương để học (số 7. 8-1984).

Thỉnh thoảng ông làm thơ với bút hiệu Thanh Hương : - Dâng lễ đầu năm, và - Lời nguyện chuyên gia (số 190. 2-2003).

Ngoài ra còn viết ký sự, tường thuật hành hương, nhận định thời cuộc : - Cả triệu người nghèo tại Pháp (số10. 1-1985), - Giáo phái trên đất Pháp (số 22. 3-1986), - Bầu cử Quốc hội Pháp (số 24. 4-1986).. .

Từng là Giám đốc Học vụ Trường Kỹ sư Ecotec, ông quen điều hành các cuộc hội thảo, phân tích - tổng hợp các vấn đề rất nhanh và gọn... Thường phụ trách điều hợp trong buổi bế giảng các khóa Chuẩn Bị Hôn Nhân, Ngày Gia đình, Đại hội Liên đới Nghề nghiệp (số 164. 6-2000)...

Hiện diện từ ‘‘Tuổi đầu đời’’ của Hội Đồng Mục Vụ’’ (số 11. 2-1985), nhìn ‘‘Ba giai đoạn lịch sử Hội Đồng Mục Vụ’’ (số 20. 1-1986), ông thầm lặng theo dõi các sinh hoạt cộng đoàn Giáo Xứ Việt Nam Paris với ít nhiều suy tư, trăn trở... Ông cũng là thành viên chính yếu của Ban Tu Thư Giáo Xứ xuất bản sách chuyên đề.

Bà Tuyết Hằng

Khuê danh Trần Thu Nguyệt, Cathérine là tên thánh kỷ niệm ngày bà nhập đoàn Dân Chúa. Mùa Phục Sinh 1989 cũng là năm bà bắt đầu cộng tác với Báo Giáo Xứ Việt Nam.

Sang Pháp lúc còn nhỏ vì bà nội là người Pháp, đậu Brevet năm 14 tuổi, trở về Việt Nam học tiếp ở Couvent des Oiseaux Dalat. Lập gia đình rất sớm, nhưng đến 22 tuổi mới sinh một con gái đầu lòng mà cũng duy nhất, và nay có được 2 cháu ngoại.

Theo nghiệp chồng, trở lại Pháp trước năm 1975 nhưng chẳng may ông qua đời lúc bà ngoài 40 tuổi. Thử thách là dịp để bà thực hiện cùng lúc hai ước muốn thiếu thời : gia nhập đạo Công giáo và cầm bút, nên thỉnh thoảng thấy ghi ‘‘Chiên con’’ hay ‘‘Chiên lạc’’.

Nhưng độc giả Báo Giáo Xứ biết đến Tuyết Hằng nhiều hơn :

- Qua loạt bài gỡ rối tơ lòng, hỏi để biết sống, ‘‘Tâm Tình Tuổi Xuân’’ (khởi đăng từ số 58 tháng 11-1989, in thành sách năm 2001),

- Truyện dài : Bến nước Tình quê (khởi đăng từ số 67 tháng 10-1990), in thành sách năm 1992) và Bơ vơ (từ số 88 tháng 11-1992),

- Truyện ngắn : Giấc mơ xưa (số 52. 3-1989), Bóng hạnh phúc (số 57. 10-1989), Ngõ vắng tình yêu (số 154. 6-1999), Chiếc bánh chưng kỷ niệm (số 190. 2-2003)...

- Một số bài thơ : Cánh hoa hồng trong mùa Phục Sinh (số 55. 6-1989), Vọng cố hương (số 88. 11-1992), Thánh Mẫu La Vang (số 126. 7-1996).. .

Từ những tựa đề cũng như nội dung, tác giả đã dẫn người đọc về thăm quê hương cảnh tình đầy lời thơ tiếng nhạc... Một chút kỷ niệm riêng tư thấp thoáng trong tác phẩm, viết cho mình viết cho người, trong ý hướng đem đời vào đạo và đem đạo vào đời.

Giáo Sư Tạ Thanh Minh Khánh

Với tư cách là Phó thư ký Ban Thường Vụ, nhiệm kỳ 1983-1985, bà Tạ Thanh Minh Khánh là một trong vài người góp ý soạn thảo Nội Qui Hội Đồng Mục Vụ và hưởng ứng việc tái bản tờ báo Giáo Xứ. Bài ‘‘Đoản khúc cho người bạn trẻ’’ đăng số ra mắt Báo Giáo Xứ Việt Nam (số 1. 2-1984). Trong những năm đầu, bà và ông Nguyễn Tấn Hớn phụ trách đọc bản đánh máy và bỏ dấu tiếng Việt. Thật công phu và kiên tâm.

Một số bài đóng góp :

- Tha La xóm đạo (số 21. 2-1986),

- Kiềng ba chân (số 52, 53 và 54. 1989),

- Niềm tin còn đó (số 69. 12-1990),

- Các bài tạp ghi (năm 1990-1991).

Bà Minh Khánh viết nhiều bài giá trị về khảo luận, nghiên cứu, nhận định :

- 25 năm nhìn lại tuổi trẻ Việt Nam tại Pháp. Và Tuổi trẻ trong cộng đoàn (số 185. 7-2001),

- Bài thuyết trình về tiểu sử Trương Vĩnh Ký (số 185. 7-2002),

- Dẫn ý thảo luận trong Ngày Gia đình (số 179. 1-2002),

- Vai trò phụ nữ trong Giáo Hội và xã hội (Hội ngộ Niềm Tin 2002).

Từ 1995, bà là giảng viên các khóa Chuẩn Bị Hôn Nhân của Giáo Xứ với đề tài : ‘‘Vai trò người vợ’’. Bài nầy và bài ‘‘Mạn đàm về Hạnh phúc Gia đình’’, đã được in trong cuốn ‘‘Đường Vào Tình Yêu’’ (Paris, 1999).

Bà viết về nhiều khía cạnh của gia đình, giáo dục thanh thiếu niên và tâm lý phụ nữ. Bà có tài ăn nói và thuyết trình. Sau bài thuyết trình về ‘‘Vai trò phụ nữ trong việc truyền đạo tại Việt Nam’’, ngày 8-3-1987, bà được một đọc giả nhận xét : ‘‘Con khen bà Tạ Thanh Minh chịu khó tra cứu, cho nhiều tài liệu hay ho về phụ nữ đóng góp truyền đạo ở nước ta, làm rạng rỡ nữ tu và các bà mẹ gia đình. Nghe đến ai cũng cảm động... Đi nghe như vậy vừa bổ ích vừa làm rạng danh các tiền bối tử đạo VN’’ (số 33. 6-1987). Bà cũng là thành viên Ban Tu Thư Giáo Xứ Việt Nam Paris xuất bản sách chuyên đề.

Ông Nguyễn Văn Tài

Ông Nguyễn Văn Tài viết khá nhiều cho Báo Giáo Xứ từ năm 1991, đủ thể loại :

- Hồi ký, tự thuật : - Đường vào Nhà Chúa (số 107. 9-1994), - Vụ xử án đêm Noel (số 129. 12-1996), - Mùa Giáng Sinh năm xưa (số 109. 12-1994),

- Biên khảo : - Năm Sửu chuyện Trâu (số 131. 1-1997), - Quan niệm về Trời trong Kim Vân Kiều Truyện (số 184. 6-2002)...

Nhiều người thích ‘‘Mỗi năm một con vật’’ của Hoàng Anh Tài, năm Ngọ kể chuyện ngựa, năm Mùi nói về dê... Bài sưu khảo kỹ lưỡng, công phu, giúp ‘‘hiểu biết thêm về văn hóa VN’’ như độc giả khen ngợi :

Tôi là độc giả thường xuyên của Báo Giáo Xứ, thích đọc bài của Ông : trình bày rất tỷ mỷ. Theo tôi, có lẽ Ông phải dày công (cả ngày lẫn đêm) mới tìm được từng chi tiết nhỏ.

Tôi thật ra, rất khâm phục bài của Ông. Xin kể vài bài mà tôi đọc qua : Danh nhân Trương Vĩnh Ký. (số 91. 2-93). Niềm tin- Năm Dậu. (số 90. 1-93). Vụ án đêm Noel. (số 129. 12-96). Năm Sửu chuyện Trâu. (số 131. 1-97). Nhất là bài ‘‘Năm Nhâm Ngọ. số 180. tháng 2-2202. Tôi phải đọc đi đọc lại nhiều lần để thưởng thức cái hay cái lạ.

Để dừng bút, tôi xin kính chúc Ông và bửu quyến được nhiều ơn Thiên Triệu. Riêng phần ông được nhiều sức khỏe để tiếp tục giúp chúng tôi cũng như các cháu nhỏ, được hiểu biết thêm về văn hóa VN, cũng như các vấn đề khác, cần phải hiểu biết thêm. (FL. Toulouse. 2-9-2002).

Và ‘‘Nhân Trí Dũng’’ với loạt bài về nhận định thời cuộc : - Số người bị loại trừ tăng vọt (số 103. 4-1994), - Vấn đề di trú và việc làm tại Paris (số 111. 1-1995), - Tình hình chính trị tại Pháp (số 94. 5-1996)... Thỉnh thoảng cũng ghi tắt tên NVT.

Năm 1948, ông là ký giả tờ ‘‘Biên Hùng Nguyệt Báo’’. Tại Sàigòn ông cộng tác với báo ‘‘Công Luận’’ trong lãnh vực dịch chuyện đăng trong Sélection, báo ‘‘Quyền Sống’’, ‘‘Hy Vọng’’ và ‘‘Quân Đội’’.

Yêu thích văn nghệ nên ông cũng viết vọng cổ, soạn tuồng cải lương cho Ban Ca Kịch Quân Đội. Vở ca kịch ‘‘Bờ Hạnh Phúc’’ của ông được vinh danh trong Đại hội văn hóa toàn quốc, năm 1957. Trước 1975, ông được biết đến trong trong chương trình ‘‘Tiếng nói động viên’’ trên Đài Truyền Hình Việt Nam. Nổi bật, bản ca ‘‘Vui Ra Đi’’, do ông viết lời và nhạc sỹ Đắc Đăng phổ nhạc.

Sang Pháp, ông viết cho báo Vùng Dậy. Ngoài ra, ông cũng hợp tác với hãng phim, thủ những vai phụ (acteur de complément) qua những phim : La Nuit Miraculeuse, Toxic Affair, Le serveur de requête, Le sourire du Tigre, Commissaire Moulin, Les Anges Gardiens và Augustin, Roi du Kongfu...

Có người cầm bút tìm hứng qua khói thuốc, có người ly rượu cầm tay, có người trắng đêm bên tách cà phê đen tuyền... Hoàng Anh Tài của Báo Giáo Xứ thoát lệ : một đời sống không rượu, không thuốc, thích thể thao, từng làm huấn luyện viên bóng bàn, quần vợt... Phải chăng đó là vốn quý của sức khỏe, ân sủng Chúa ban, để đọc giả Báo Giáo Xứ được thưởng thức tài viết của một trưởng lão đã ngoài 80.

Tiến Sĩ Lê Đình Thông

Đến Báo Giáo Xứ năm 1997 với bài Tâm Bút của Duyên Anh (số 133. 4-1997). Hiện là một trong các ngòi bút chủ lực của Báo Giáo Xứ, cũng như Ban Tu Thư xuất bản sách chuyên đề. Chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ từ năm 2001 và là giảng viên về ‘‘Gia đình trong dân luật Pháp’’ của Ban Mục Vụ Hôn Nhân.

Quen viết và có thể viết nhiều thể loại : - 100 thành tựu khoa học kỷ thuật (số 152. 4-1999), - Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn nhà văn hóa Việt Nam (số 165. 7-2000), - Ba điều bí mật do Đức Mẹ loan báo năm 1917 đều đã được giải mật (số 166. 10-2000), - Đạo Trời trong tục ngữ ca dao (số 184. 6-2002), - Chứng tá đức tin trong môi trường nghề nghiệp (số 184. 6-2002)...

Hoạt bát, phản ứng nhạy bén, ông dễ dàng ứng khẩu để góp ý về một đề tài. Ông cũng làm thơ, lấy hứng vào các dịp lễ hội, hiếu hỉ :

- Mừng thượng thọ bát tuần BS Vân Uyên Nguyễn Văn Ái (số 161. 3-2000),

- Hang đá Giáo Xứ (số 160. 2-2000; số 199. 1-2004, tr. 27),

- Khải hoàn ca (số 168. 12-2000)...

Xuất thân là cựu sinh viên Cao Học Chính Trị Kinh Doanh thuộc Viện Đại Học Thụ Nhân Đalat, với tinh thần ‘‘uống nước nhớ nguồn’’, ông đã phát hành quyển Tưởng Niệm Đức Ông Viện Trưởng Nguyễn Văn Lập (Paris, 2003). Và trong vai trò Chủ tịch Ban Thường Vụ Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Việt Nam Paris, ông cùng Văn Phòng Phối Kết -

Giáo sư Hương Giang Thái Văn Kiểm

Tên giáo sư Thái Văn Kiểm luôn có bút hiệu Hương Giang đi kèm. Giáo sư là nhà biên khảo nổi tiếng. Người Pháp cũng biết đến công trình nghiên cứu của Giáo sư. Từ nhiều tài liệu nghiên cứu, giáo sư viết thành bài cho GXVN :

- Bài thuyết trình về sự nghiệp văn chương của Đức Giám Mục Hồ Ngọc Cẩn (số 165. 7-2000. ttr. 8-12)

- Phước Môn Quận Công Nguyễn Hữu Bài. 1863- 1935 (số 177.11-2001. tr. 5-12)

- Con trâu là đầu câu truyện (số 131, 1-1997)

Tòa soạn còn giữ ít bài của giáo sư gửi. Vì bài quá dài, mà trang báo có hạn. Báo sẽ đăng khi thuận tiện. Ngoài ra, giáo sư còn tặng Thư Viện GX một số sách giá trị, không đâu có.

Nhà văn Trà Lũ

Nhà văn Trà Lũ cư ngụ tại Toronto, tên là Trần Trung Lương, có tên tuổi trong Làng Văn hải ngoại từ khi ông xuất bản tác phẩm đầu tay ‘‘Miền Đất Hạnh Phúc’’ (1989) và khi ông làm chủ tịch Văn Bút VN hải ngoại (1999). Độc giả khắp nơi biết tên ông qua 10 tác phẩm chuyên về Chuyện Phiếm và cuốn ‘‘300 Chuyện Cười’’

Ông là một trong số độc giả trung thành ở hải ngoại của Báo GXVN. Từ năm 1997, ông đã gửi bài cho báo Giáo Xứ, đặc biệt vào các số Tết Xuân.

Các bài của Ông gửi đã chọn đăng trong báo Giáo Xứ, chia làm ba loại :

- Bài bài có tính cách xây dựng nhân bản, bác ái : Tiếng cười (số 150. 2-1999. tr. 24). Yêu người (số 151. 3-1999. tr. 25). Những gương sáng (số 152. 4-1999. tr. 17). Đại hội giới trẻ thế giới tại Troronto (hai bài, số 185. 7-2002. ttr. 20-25)

- Các Chuyện Phiếm : Tết con Rồng (số 160. tr. 9). Phở (số 169. tr. 12). Mùa xuân con Rắn (số 171. tr. 15). Chuyện con ngựa (số 180. tr.23). Chúc Tết con Dê (số 190. tr. 8). Lời ước năm con Dê (số 191. tr. 14)

Chuyện Cười : Trà Lũ đã tặng tòa soạn cuốn ‘‘300 Chuyện Cười’’. Do Hoa Lư xuất bản, tại Canada, năm 2001. Tòa soạn đã chọn đăng rải rác trong báo.

Bác sỹ Tạ Thanh Minh

Bác sỹ Tạ Thanh Minh trước kia là đại diện của Ban Thần Học Giáo Dân. Từ 1995, Ông là giảng viên Khóa Chuẩn Bị Hôn Nhân và phụ trách bài : ‘‘Sinh lý và dinh dưỡng trong đời sống vợ chồng’’. Giảng khóa này được in chung trong cuốn ‘‘Đường Vào Tình Yêu’’. Cuốn sách gồm 10 bài học căn bản để chuẩn bị đi vào đời sống lứa đôi. Một năm có 2 khóa CBHN mở vào Phục Sinh và Giáng Sinh. Hiện nay, Bác sỹ Minh là Trưởng Ban Mục Vụ Hôn Nhân của GXVN. Bác sỹ Minh cho độc giả hiểu về ‘‘Vài bệnh trạng nguy hiểm (số 34. 5-1987. ttr. 5-13). Ngày 29-6-2003, tại Giáo Xứ, trong khuôn khổ phục vụ và bảo vệ sức khỏe, do nhóm Chuyên Gia tổ chức, bác sỹ Minh đã thuyết trình về ‘‘Những điều cần biết về bệnh cao áp huyết’’. Một đề tài thiết thực.

Ông Vũ Văn Nghi

Jos. Vũ là bút hiệu của Dược Sĩ Joseph Vũ Văn Nghi, Chủ tịch Hội Đồng Mục Vụ nhiệm kỳ 1992 - 1994. Ông viết tổng cộng 31 bài về :

-Các cuộc viếng thăm mục vụ của Đức Giáo Hoàng Gioan Phalô II ở Thụy Sĩ (1984), Benelux (1985), Pháp lần 3 (1986), lần 4 (1988), các nước Bắc-Âu (1989), Gặp gỡ giới trẻ ở Saint Jacques de Compostelle (1989), Tiệp Khắc (1990).

-Chữ Hiếu theo Đông Phương (số 9. 12-1984), - Vấn đề thờ cúng tổ tiên (số 48. 11-1988), - Tang chế Việt Nam (số 58. 11-1989).

-Tết Đinh Mão nói chuyện con mèo (số 30. 1-1987), - Năm Mậu Thìn nói chuyện rồng (số 41. 12-1988), - Năm Ngọ nói chuyện ngựa (số 60. 1-1990).

-Chiến tranh chống ma túy, Tác hại của ma túy (số 73. 4-1991), - Đức Quốc tái thống nhất (số 68. 11-1990), Hòa bình và Giải thưởng Nobel (số 71. 2-1991)

Giáo sư Nguyễn KhắC Xuyên

Giáo sư Nguyễn Khắc Xuyên có bút hiệu Hồng Nhuệ, là nhà nghiên cứu lão thành. Công trình nghiên giáo sử VN và quốc ngữ, lên đến 30 tác phẩm. Mới nhất, cuốn ‘‘Giáo Sỹ Đắc Lộ thân thế và sự nghiệp’’ (Đắc Lộ Tùng Thư, Paris. 2003). Báo Giáo Xứ Việt Nam đăng bài ‘‘Đại Nam Quấc Âm tự vị (1895) Paulus Huình Tịnh Của (số 195. 7-2003. tr.11). (trích Giáo Xứ Việt Nam số 200, tt.63-73)

Ngoài chuyện góp bài vở, giáo dân còn góp phần vào việc sắp xếp mọi thứ trước khi đưa in. Công việc này đòi hỏi kiên nhẫn như đánh máy, đọc bản thảo, trình bày kỹ thuật và hình ảnh. Đồng thời cũng đòi hỏi một khả năng hiểu biết về cách sử dụng máy điện toán để sắp xếp thành quyển sách. Chúng ta cứ tưởng tượng phải đánh máy, rà soát lỗi sai lầm của khoảng 5000 trang sách của bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội mà Giáo Xứ đang lần lượt xuất bản, thì sẽ thấy công lao của các người phụ trách như thế nào. Qua các ví dụ trên, ta thấy tinh thần hăng say của giáo dân đã giúp cho mục tiêu mục vụ văn hóa của Giáo Xứ được thành công.

2. Tinh Thần Hăng Say Của Hàng Giáo Sĩ Tại Paris. Đọc các tài liệu về mục vụ văn hóa tại Giáo Xứ Việt Nam ở Paris, chúng tôi nhận thấy tinh thần hăng say và vai trò đứng mũi chịu sào của hàng giáo sĩ, nhất là hàng giáo sĩ trong giáo xứ và đặc biệt là của Đức Ông Giuse Mai Đức Vinh đã làm cho toàn bộ chính sách mục vụ văn hoá tại giáo xứ này thành công đến mức trổi vượt hơn hẳn các giáo xứ Việt Nam khác. Trong số 22 vị giáo sĩ mà chúng tôi biết được, chỉ khoảng 10 vị gồm linh mục, phó tế, nữ tu là của giáo xứ. Còn lại là hàng giáo sĩ cộng tác viên không thuộc giáo xứ

a. Vai trò của hàng giáo sĩ không thuộc giáo xứ. Các vị này như Lm. Nguyễn Tiến Lãng, Lm. Bùi Duy Nghiệp, Lm. Bùi Châu Thi, Lm. Huỳnh Ngọc Tiên, Đức ông Trần Ngọc Thụ, Lm. Hoàng Quang Lượng, Sư huynh Trần Văn Nghiêm, Lm. Trần Đức Anh, Lm. Dương Như Hoan, Lm. Nguyễn Ất, Lm. Nguyễn Xuân Mầng, v.v...

Theo sự nhận xét của chúng tôi, các vị trên đây tham gia vì các lý do sau: Một là nhận thấy công việc mục vụ văn hóa của Giáo Xứ Việt Nam tại Paris đang cần thêm những khối óc bàn tay xây dựng để đáp ứng nhu cầu giáo dân sống xa quê hương, xa Giáo Hội Mẹ Việt Nam, chưa thích ứng được với những sinh hoat tôn giáo của người bản xứ. Hai là thấy hoạt động mục vụ văn hoá của Giáo Xứ Việt Nam tại Paris thật sự có ý nghĩa, mang lại ích lợi cho giáo dân, Giáo Hội, đồng thời lại là mảnh đất tốt để "trồng cây văn hóa" gieo vãi hạt giống đức tin. Ba là các vị ấy chắc cũng vì tình cảm yêu mến, nể trọng Đức ông Giuse Mai Đức Vinh, một linh mục nêu gương âm thầm làm việc không mệt mỏi trong cả ba lãnh vực mục vụ thiêng liêng, mục vụ xã hội và mục vụ văn hóa nên các vị ấy đã nhận lời mời cộng tác.

b. Vai trò của hàng giáo sĩ thuộc Giáo Xứ Việt Nam Tại Paris. Thông thường một giáo xứ hay một hội đoàn nào xuất bản một Đặc San, thì linh mục chính xứ hay linh mục tuyên úy bao giờ cũng được dành cho chỗ trang trọng nhất để viết Thư Ngỏ Của Cha Chính Xứ. Còn nội dung bên trong, hầu như không thấy tên tuổi của hàng giáo sĩ nào trong giáo xứ, mà chỉ toàn thấy bài vở của giáo dân hay nói đúng hơn là của những giáo dân có thiện chí. Sự kiện này thường được thiên hạ giải thích một cách không hợp lý: “Cha Không Có Giờ Viết".

Trái lại ở Giáo Xứ Việt Nam tại Paris, từ Đức Ông chính xứ đến các linh mục phụ tá, từ các chị nữ tu đến các thấy phó tế, ai cũng hăng say viết lách. Báo Giáo Xứ có sống được mấy chục năm qua và ban tu thư có xuất bản và tiêu thụ được bao nhiêu cuốn sách cũng là nhờ tinh thần "ba chịu" của hàng giáo sĩ : "chịu suy tư", "chịu viết", "chịu làm". Hai tác giả Tạ Thanh Minh Khánh và Thi Chương đã viết về hoạt động văn hóa của các vị này và chúng tôi xin trích dịch để làm dẫn chứng.

Đức Ông Mai Đức Vinh: Chủ nhiệm Báo GIÁO XỨ VIỆT NAM.

Đức Ông Giuse Mai Đức Vinh là người đề xướng tái bản Báo Giáo Xứ bộ mới, Chủ nhiệm kiêm Chủ bút, trong mấy năm đầu, phải để ý lo toan mọi sự. Luôn luôn hiện diện, mùa đông chí những mùa hè, trời nắng cũng như trời mưa, tới nay 200 số là 200 ‘‘Lá Thư Mục Vụ’’ chưa kể các loại bài khác, tùy lúc, tùy việc, tùy vào sinh hoạt cộng đoàn... Với các bút hiệu LM Giuse, MĐV, Mai Đức, Đức Vinh... tráo lại tráo qua, ai nhìn cũng ra... tác giả !

Rồi bìa báo được đổi mới, (số 77, tháng 10-1991) có thêm một cột nhỏ diễn tả chủ đề mỗi số, ngài dùng Thánh Kinh, Ca vịnh... có khi châm ngôn, tục ngữ... chế biến thêm cho đậm ý rõ lời, viết thành vần điệu, tứ ngôn, ngũ ngôn... đó, cha Vinh ‘‘làm thơ’’ tải đạo với thi hiệu Du Sinh.

Năm 1989, cha thành lập hội ‘‘Yểm Trợ Ơn Gọi Tận Hiến’’. Và từ năm 1996, Cha còn gầy dựng thêm và hướng dẫn nhóm trẻ ‘‘Tìm Hiểu Ơn Gọi’’ tại Giáo Xứ. Nên Cha viết nhiều về ‘‘ơn gọi tận hiến’’, có khi dành nguyên số báo cho chủ đề này, như số 53, 4-1989, số, 6-1989, số 173, 5-2001, số 184, 5-2002, số 193, 5-2003.

Để tăng sắc màu cho tờ báo, ngài lập thêm ban, nhóm, cộng đoàn... vừa mở rộng địa bàn hoạt động vừa thêm bài tường trình... Cũng là ‘‘người đứng mũi chịu sào’’ nghe hết ý kiến độc giả, phê bình, khuyến khích, tán đồng, phàn nàn, kêu ca... khi gặp mặt, khi điện thoại... Nhờ phong thái đơn sơ, chịu đựng lắng nghe mà ‘‘của ăn tinh thần’’ vẫn tiếp tục được phân phối, tới nay khoảng 1350 địa chỉ đón nhận hàng tháng, trong và ngoài nước Pháp.

Tổ chức quản trị, phát hành, bài vở... đã vào khuôn nếp, mọi sự dần dà qui củ gọn gàng. Mấy năm gần đây, ngài nới rộng tầm hoạt động sang lãnh vực văn hóa đức tin bằng cách mời gọi thêm người viết hoặc dịch, lập Ban Tu Thư Giáo Xứ Việt Nam Paris để xuất bản sách chuyên đề như : - Giáo Lý cho Người Trưởng Thành (Dịch. 1997), - Têrêsa Vị Thánh Lớn của Thời Đại Mới (1997), - Đường Vào Tình Yêu (1997), - Fatima, Hòa Bình và Tình Thương (2000), - Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII (2000), - Hành Trang Thế Kỷ 21 (2002), - Sống Đức Tin trong Thế Kỷ Mới (Dịch. 2002), - Tân Lịch Sử Giáo Hội (Dịch. 2002-2003), - Hội Ngộ Niềm Tin (2003)...

Đức Hồng Y PH.X. Nguyễn Văn Thuận (1928-2002) đã đánh giá công việc ấn hành sách báo của Đức Ông Mai Đức Vinh sau khi đọc cuốn Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII như sau : Thành thật vui mừng và hoan nghênh sự cộng tác và cố gắng hy sinh của Đức Ông và anh chị em cộng tác của Đức Ông. Sách rất hữu ích và hấp dẫn. Xin Chúa ban phúc lành trong năm mới để Đức Ông và anh chị em luôn tiếp tục và phát triển nhiều sáng kiến. Thuở xa xưa, 1960, lúc còn ở Huế, tôi cũng có viết một cuốn ‘‘Đức Thánh Cha Gioan XXIII’’ với phương tiện giới hạn thời đó (Roma, 7-1-2001).

Khi trước còn ở Việt Nam, ngài cũng đã chủ trương xuất bản và phổ biến sách báo Công Giáo, tủ sách ‘‘Hương Việt’’ phát hành ‘‘Hạnh các Thánh’’ và phiên dịch nhiều tác phẩm giá trị. Cùng với Đức Ông Nguyễn Văn Phương, Lm. Phan Tấn Thành và Lm. Vũ Văn Thiện dịch Bộ Giáo Luật (1983) trong thời gian du học ở Roma.

Sắp sửa mừng thượng thọ thất tuần, Tiến Sĩ Giáo Luật và Tiến Sĩ Mục Vụ, thuộc Hội Dòng Xuân Bích (St. Sulpice), ngài điều hành, chấn chỉnh Giáo Xứ ròng rã 24 năm dài.

Bao năm trách nhiệm giám đốc là bấy nhiêu năm tận tụy, gần không lạ mà xa cũng biết : ‘‘Rất hân hạnh được gặp cha tại giáo xứ dịp chúng tôi sang thăm Paris. Thấy cộng đoàn cha phát triển nhịp nhàng mà tôi thấy thèm. Đọc các bài cha viết trên Báo Giáo Xứ cũng như mấy tác phẩm xuất bản ở Paris tôi rất khâm phục sự làm việc và óc sáng tạo của cha. Nhìn đến các cộng sự viên của cha và qua các câu chuyện tôi nghe được tại Paris, tôi phải nói đó là một cộng đoàn lý tưởng hay nói cách khác đó là một cộng đoàn trong đó cha con là một’’. (Giáo sư NVT - Úc Châu, thiệp gởi 2-1-2003)

Phó tế Phạm Bá Nha : Chủ bút Báo Giáo Xứ Việt Nam.

Thầy Phêrô Phạm Bá Nha đến với Báo Giáo Xứ từ tháng 1-1985. Viết dễ, viết nhanh và siêng viết, thầy mau chóng trở thành một trong vài ngòi bút chủ lực với các bút hiệu : Thi Chương, Thérèse Trinh, Michel Phạm Mỹ, Trinh Nguyên... Thường cống hiến cho độc giả về tình hình Giáo Hội Việt Nam, tình trạng dân nghèo, Tổ chức bác ái thiện nguyện với các chứng từ sống động, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II...

Một số bài tiêu biểu : - Ngày Chúa nhật tại Việt Nam (số 114. 5-1995), - Phụ Nữ Việt Nam trong thời cấm đạo (số 120. 1-1996), - Lòng sùng kính Đức Mẹ của các Thánh Việt Nam (số 128. 11-1996), - Nhìn lại 70 năm Lịch Sử Giáo Hội Việt Nam 1933-2003 (số 187. 11-2002), - Phép lạ thứ 66 tại Lộ Đức (số 156. 10-1999), - Chân Phước Frédéric Ozanam (số 137. 10-1997), - Chân Phước Nicolas Barré (số 152. 4-1999).

Năm 1998 nhận lãnh ơn gọi trở thành Phó tế Vĩnh viễn, thầy Nha trách nhiệm vai trò Chủ bút Báo Giáo Xứ. Thêm vài tiết mục mới, ngắn gọn như :

- Ý chỉ cầu nguyện trong tháng của Đức Giáo Hoàng. Cột 2, trang bìa 2, từ 10-2000.

- Lời Cha Chung, tóm lược thông điệp của ĐGH hay văn kiện Tòa Thánh. Từ 1-2002.

- Ơn lạ Đức Mẹ La Vang (số 189. 1-2003, số 191. 3-2003, số 196. 10-2003),

- Gieo vui, một loại chuyện kể sống đạo giữa đời, thể hiện tinh thần Tám Mối Phúc Thật. Từ số 171. 3-2001.

- ‘‘Sinh hoạt cộng đoàn’’ tường thuật chi tiết hơn. Từ 11-1998.

- và ‘‘Chuyện cười’’ nhẹ nhàng, ý nhị.

Có một số bài của Thầy được các báo ở những nơi khác đăng lại như bài viết về Đức Cha Bùi Chu Tạo (số 174. 6-2001), Đức Cha Jean Cassaigne Sanh (số 192. 4-2003)...

Thầy cũng là một trong các thành viên làm việc đắc lực cho Ban Tu Thư xuất bản sách chuyên đề, khi nào cũng đưa bài sớm hơn kỳ hạn.

Mái tóc bạc phơ với nụ cười hiền, Thầy chu đáo trong việc Giáo Xứ Paris mà còn nối vòng tay lớn, viết cho Kỷ Yếu Phát Diệm (CA. 1992). Trần Lục (Canada. 1996). Giám Mục Lê Hữu Từ (Canada 2001). Hàng Giáo Phẩm Công Giáo VN. 1960-1995. (1996). Kỷ yếu 50 năm thành lập Giáo Xứ VN. 1947-1997. (1997). Đường Vào Tình Yêu. (1999). Chân Phước Giáo Hoàng Gioan XXIII. (2000). Hội Ngộ Niềm Tin - Roma. (2002). Hội Đồng Mục Vụ (2003). Tiểu sử và thư mục Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. 1868-1949. (2003).

Thầy Nha đã hết lòng góp phần vào việc phổ truyền văn hóa đức tin. Được vậy, cũng nhờ có người bạn đời tận lòng khuyến khích - Bà Phạm Thị Thu - luôn luôn hiện diện trong các sinh hoạt cộng đoàn.

Các vị trong Ban Biên Tập không chỉ viết báo không mà còn bận với nhiều phần vụ khác của cộng đoàn. Như trong Ban Giám Đốc, Ban Thường vụ Hội Đồng Mục Vụ, Ban Mục Vụ Hôn Nhân, Ban Tu Thư và các báo công giáo khác. Ban Biên Tập được giới thiệu theo thứ tự ghi trong Báo Giáo Xứ Việt Nam.

Linh Mục Đinh Đồng Thượng Sách

Nay đã thuộc hàng lão kiện, nhưng tinh thần vẫn trẻ trung như thuở nào. Năng động trong nhiều sinh hoạt mục vụ nên đương nhiên cũng hiện diện trên Báo Giáo Xứ từ đầu. Hoạt bát, ‘‘xuất khẩu thành thi’’ ngài làm thơ thật dễ dàng, độc giả lâu năm của Báo Giáo Xứ không xa lạ với Cung Chi - Lương Nhi Tử. Lương Nhi Tử do tên của phụ thân (Lương) và phụ mẫu (Nhi) ghép thành.

Cung Chi thường có thơ theo chủ đề hằng tháng : - Màu thương tử đạo (số 8. 11-1984), - Vinh danh châu báu (số 9. 12-1984), - Xuân vĩnh cửu (số Tết. 2-1985)...

Thơ tôn giáo vốn giới hạn, nhưng thơ tôn giáo của Cung Chi - Lương Nhi Tử dễ cảm, tự nhiên, không mấy khi thấy bị gò bó. Nhiều bài đượm sắc thần học, nhắc nhở tín lý hoặc nhẹ nhàng thanh thoát với các đề tài văn hóa, đạo làm người, lòng hiếu thảo : - Thơ Mẹ (số 5. 6-1984), - Cây đại trượng (149. 1- 1999), - Rộn tình mẫu tử (số 185. 7-2002)...

Ngoài ra, ‘‘Sớ Táo Quân’’ hàng năm trên Báo Giáo Xứ cũng do Lương Nhi Tử rành rẽ tâu bày đầy đủ. Tài năng thiên phú, ân sủng Chúa ban, ngài đã dùng để phụng sự Giáo Hội, truyền bá đức tin... và cũng để làm vui đẹp lòng người thân quen khi thỉnh thoảng lẩy Kiều, chợt hứng làm thơ trong các dịp hiếu hỉ : - Tưởng nhớ Đức Ông Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ (số 187.11-2002), - Vĩnh biệt Sơ Anna Đức (số 188. 12-2002), - Oanh liệt, tặng Vân Uyên 80 tuổi (1-3-2000). Vào thập niên 80, cha Sách đã khuyến khích, qui tụ ca đoàn, giới trẻ tổ chức thành công các chương trình văn nghệ chủ đề : - Giữ thơm quê mẹ, - Uống nước nhớ nguồn, - Tiếng Ru muôn đời.

Mấy năm sau nầy, xuất hiện ‘‘Chổi Cùn Giáo Xứ’’ (1997), phê bình dí dõm, châm biếm nhè nhẹ, nhắc nhở phong cách giáo dân : - Ngứa miệng (134. 5-1997), - Thơm tho (số 135. 6-1997), - Téléphone portable (số 154. 6-1999)... Được độc giả ‘‘tội nghiệp thân gầy yếu mà vẫn luôn tay quét dọn’’ (số 136, 7-1997). Cha Sách ‘‘Trồng ngườỉ’’ trong mọi tình huống.

Phó Tế Nguyễn Văn Thạch

Thầy Thạch viết nhiều bài giá trị về Kinh Thánh.

- Được tuyển chọn (số 155. 7-1999),

- Ơn gọi Phó tế Vĩnh viễn phục vụ cộng đoàn (quyển Hội Ngộ Niềm Tin),

- Sống đạo trong gia đình (quyển Đường VàoTình Yêu).

Với Báo Giáo Xứ, thầy cố vấn bài vở, lưu giữ các bài trong CD, chọn lựa hình bìa chủ đề, trình bày hình ảnh bên trong. Ngoài ra, thầy còn phụ trách bài vở huấn luyện của Phong Trào Cursillo Âu Châu, trợ bút của báo Lời Chúa. Và là giảng viên về ‘‘Sống đạo trong gia đình’’ của Ban Mục Vụ Hôn Nhân và thành viên của Ban Tu Thư Giáo Xứ xuất bản sách chuyên đề.

Linh mục Nguyễn Văn Cẩn

Cha Vincent Nguyễn Văn Cẩn là linh giám Curia Đạo Binh Đức Mẹ và tuyên úy hội Yểm Trợ Ơn Gọi của GXVN (1989-2003). Những bài của Cha trong báo cũng xoay quanh hai đề tài này. Báo cáo về Hội Yểm Trợ Ơn Gọi trong phiên họp 28-5-1992. (số 87. 10-1992; tr. 14). Lá thư Tuyên úy Hội Yểm Trợ Ơn Gọi (số 169. 2001. tr. 35).

Phó tế Tạ Ðình Chung

Từ 1-5-2002, ông Tạ Đình Chung phụ trách về Site Internet của Giáo Xứ. Từ 10-2003, Ông lãnh chức Phó Tế Vĩnh Viễn. Cùng với linh mục Đình Đồng Thượng Sách phụ trách Giới Trẻ, Thầy André Tạ Đình Chung tiếp tục công việc cho Internet... Công việc là cập nhật bài vở, hình ảnh, kỹ thuật... chiếm rất nhiều giờ. Nội dung bài vở internet gồm : Lời Chúa của 4 chủ nhật, giáo lý, văn hóa, xã hội, tin tức cộng đoàn. Đồng thời các bài của GXVN hàng tháng cũng được chuyển lên Internet. Như vậy có thể nói báo GXVN được phát hành lần thứ hai qua hệ thống Internet, với ký hiệu : www.giaoxuvnparis.org. Đọc các bài của Thầy Chung chuyên viết về Internet, như : ‘‘Thời điểm của Giáo Hội Công Giáo trên mạng lưới toàn cầu’’ (GXVN. số 182. 4-2002. tr. 17). Bài ‘‘Mục vụ mạng lưới’’ (Hội Ngộ Niềm Tin, tr. 504). ‘‘Những yếu tố làm sống cộng đoàn’’ (số 191. 3-2003. tr. 8)

Linh mục Trần Anh Dũng

Như một hân hạnh, cha Trần Anh Dũng phụ trách trang Việt Nam Giáo Sử cho báo Giáo Xứ VN. Cha chuyên nghiên cứu về ‘‘Lịch sử Giáo Hội VN, tiểu sử các Thánh VN, Tổ chức hàng Giáo Sỹ VN’’. Như một số bài đăng trong Báo Giáo Xứ VN :

- Lược sử 117 Thánh Tử Đạo VN. (số 27. 10-1986. ttr. 6-10)

-Sự nghiệp tôn giáo và văn hóa của giáo sỹ Đắc Lộ. (số 78, 11-1999. tr. 5)

-Lược sử Hàng Giáo Phẩm Công Giáo Việt Nam. 1960-1995). và Danh sách các Giám Mục VN (số 116. 7-1995. ttr. 13-18)

-Lịch sử Đức Mẹ La Vang. 1798-1998.(số 148. 12-1998. tr 4)

-Tòa Thánh ân thưởng tước hiệu Đức Ông. (số 149. 2-1999. tr. 17)

-Toàn xá và năm thánh trong lịch sử Giáo Hội. (số 161. 3-2000. tr; 4)

-Sơ lược Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. 1533-1933. (số 187;11-2002. ttr. 4-9)

Đặc biệt, với hình thức khác phục vụ độc giả lâu dài, Cha Trần Anh Dũng chủ trương viết và xuất bản sách về Giáo Hội VN mang tên nhà xuất bản ‘‘Đắc Lộ Tùng Thư’’. Các sách của Đắc Lộ Tùng Thư đã xuất bản :

-Sơ thảo thư mục công giáo VN. (1992).

-Hàng Giáo Phẩm Công Giáo VN. 1960-1995. (1996).

-Chân Phước Thầy Giảng Anrê Phú Yên. 1625-1644 (2000).

-Tiểu sử và Thư mục Đức Cha Hồ Ngọc Cẩn. 1876-1948 (2000).

-Hội Đồng Giám Mục VN. 1980-2000. (2002).

-Lịch sử Giáo Phận Phát Diệm. 1901-2001.((2001).

-Tiểu sử và thư mục Thừa Sai Léopold Michel Cadière. 1869-1955. (2002).

-Thư mục Báo chí Công Giáo. (2002).

-Lịch sử Giáo Phận Thanh Hóa. 1932-2002 (2002).

-Giáo sỹ Đắc Lộ : Thân Thế và sự nghiệp. 1593-1660. (2003).

-Tiểu sử và thư mục Đức Cha Nguyễn Bá Tòng. 1868-1949. (2003)

Sư Huynh Trần Văn Nghiêm (1909-2001)

Sư Huynh Pierre Trần Văn Nghiêm, Dòng La San, từng là giáo sư đại học Đà Lạt, Sàigòn. Thành viên trong hội đồng Văn hóa Giáo dục Quốc gia VNCH trước 1975. Năm 1977, tỵ nạn tại Pháp, Sư Huynh là người sáng lập hội Alder để giúp người tỵ nạn. Song song, Sư huynh còn hướng dẫn giáo dục và dạy kèm học sinh về sinh ngữ. Tương quan với GXVN, Sư huynh là người nhiệt tình thành lập nhóm ‘‘Thần học Giáo Dân’’ (1981) và góp phần tích cực vào bước đầu thành lập ‘‘Hội Đồng Mục Vụ’’ (1983). Về văn hóa, Sư Huynh có công nhiều dịch cuốn ‘‘Giáo Lý Cho Người Trưởng Thành’’ (1997) và Bộ ‘‘Tân Lịch Sử Giáo Hội’’ (2000). Báo Giáo Xứ từ 1985 đến 1990, đăng nhiều bài về giáo dục của nhà sư phạm thời danh này.

Nữ tu Huỳnh Thị Na (1930-1999)

Nữ tu Têrêsa Huỳnh Thị Na, Dòng Chúa Quan Phòng, ở VN đã làm hiệu trưởng trung học ở Sóc Trăng và làm làm Bề trên Tỉnh Dòng. Năm 1975, Sơ qua Pháp tham dự công nghị của Dòng, rồi bị kẹt lại. Sau đó, Sơ đến làm việc tại Giáo Xứ và phụ trách Văn phòng Xã hội : tiếp đón người tỵ nạn VN và Á châu (1975-1985). Từ 1985 tiếp nối phụ trách lớp Pháp Văn. Và từ 1995, nhận giúp thêm ‘‘Bữa cơm Chủ nhật’’. Khi báo Giáo Xứ tái bản, Sơ phụ trách ‘‘Trang Xã Hội’’, viết về chế độ trợ cấp thất nghiệp, thuốc men, bảo hiểm nhân thọ, chỉ dẫn tìm việc...

Tóm lại chính sách mục vụ văn hóa tại Giáo Xứ Việt Nam ở Paris có thành công được là nhờ chính sách ấy đáp ứng đúng nhu cầu của giáo dân, và nhờ đó giáo dân đã tích cực yểm trợ chính sách bằng cả sức lực lẫn tài lực. Thêm vào đó, một ban biên tập và tu thư hùng hậu xuất phát ngay từ trong giáo xứ đã ý thức rõ tầm quan trọng của việc rao giảng Tin Mừng bằng phương tiện thông tin văn hóa. Ba yếu tố ấy đã giúp Giáo Xứ thành công trong đường lối mục vụ văn hóa. (còn tiếp)

Ngày Mai: Một vài nhận xét về chính sách mục vụ văn hóa