Hôm ấy, nhà Thi sĩ và văn sĩ Trần Đăng Khoa đi vào Công Viên Thủ Lệ, ở Hà Nội. Đó là nơi trấn ngự của Chúa Sơn Lâm. Người nhà quê thường có thói quen gọi Ngài là « Ông Ba Mươi ».

Là thi sĩ, trong xương da và máu thịt của mình, từ hồi lên tám, chín tuổi... Trần Đăng Khoa có khả năng bẩm sinh lạ lùng là nghe và hiểu được Ông Ba Mươi một cách dễ dàng và thâm thúy. Vừa thấy chàng bước vào, Ông Ba Mươi đã vui mừng, hớn hở, từ trong buồng kín đi ra :

« Từ lâu, Ta đợi chờ con. Ta có cái chuyện nầy muốn kể cho con. Con hãy ngồi xuống.. .(*)

xxx

... Câu chuyện bắt đầu từ một bà già.

Bà sống trong một căn lều cỏ rách nát và nghèo nàn. Căn lều dựng lên ở ven rừng. Đằng sau là đại ngàn âm u, huyền bí. Chính cánh rừng đã nuôi sống và đùm bọc bà cụ. Ngày ngày bà đi kiếm củi và mang ra chợ bán.

Vào một buổi tối, con đường còn mờ mờ sáng. Lúc đang lụi cụi từ rừng bước về nhà, bà cụ chợt nghe tiếng trẻ khóc. Tiếng khóc vẳng lên từ một cái hố. Bà đã phân vân tự hỏi : không biết con nhà ai, đi đâu một mình mà phải bị rơi vào một cái bẫy hổ.

Qua ánh trăng non lờ mờ... bà cụ rụng rời, khi nhìn thấy ở dưới đáy hố không phải là một em bé, mà lại là một chú hổ con. Bà cụ muốn bỏ đi cho khuất mặt. Miệng bà lẩm bẩm, một cách máy móc tự động : Thôi, để cho nó chết. Hơi đâu mà mang họa vào mình.

Thế nhưng, vừa khi nhấc bó củi lên vai, bà đã phải khuỵu xuống, không bước nổi. Tiếng khóc cứ xói vào lồng ngực bà. Trái tim bà co thắt lại. Bà nhớ đến mặt mũi của đứa con duy nhất của bà. Thằng bé đã té rơi xuống khe đá và chết đói ở dưới đó, khi nó thơ thẩn đi ra đón tìm bà ở bìa rừng, vào lúc chiều hôm.

Cuối cùng bà đã bế con hổ con về nhà. Bà nuôi nó với chính dòng sữa, bàn tay và hơi ấm của mình. Căn lều hoang lạnh trước đây, đã bắt đầu tràn ngập tiếng cười, tiếng nói, tiếng bi bô. Những người dân trong làng kế cận, đi làm về, thường ghé qua nhìn ngắm thằng bé. Ai ai cũng trầm trồ, khen cậu bé vừa đẹp trai, vừa hiền hậu. Có người còn quả quyết rằng: thằng bé nầy rất giống mẹ. Hai mẹ con cứ như hai hạt sương ban mai, dưới ánh mặt trời.

Thế rồi, cậu bé lớn lên vùn vụt. Cậu đi học. Cậu học rất giỏi. Bạn bè trong xóm làng không ai có thể theo kịp. Chính điều ấy đã làm cho phụ huynh của các học sinh khác khó chịu. Họ bàn tán và quyết định loại trừ cậu bé ra khỏi cộng đồng, chỉ vì một lý do duy nhất : cậu không phải là con người. Cậu chỉ là một con hổ khốn nạn, đẻ rơi trong rừng già âm u, đen tối.

Nhưng không một ai có thể xác định cậu là hổ. Với bằng cứ nào ? Chả lẽ họ chỉ dựa vào cái tờ khai lý lịch mờ mờ, ảo ảo, pha nhiều màu mè huyền thoại, với bao nhiêu lời đồn thổi từ miệng người nầy lan qua miệng người khác. Có một phái đoàn từ trung ương đi về kiểm tra cậu bé. Ai ai cũng phải công nhận rằng : cậu là một học sinh giỏi, ngoan ngoãn, hiền lành, thật thà. Diện mạo của cậu thật sáng đẹp, giống y hệt một con người.

Cuối cùng ông thầy chủ nhiệm đưa ra một đề văn, nhằm trắc nghiệm giới tính, một cách khoa học : Các em hãy mô tả dòng suối, vào một đêm trăng.

Lũ học sinh hí hoáy làm bài. Những bài văn đều nhạt nhẽo và bợt bạt, không có sinh khí.

Trái lại, trong bài văn của cậu bé... tiếng gió âm u, rì rào, tranh nhau luồn vào trong bụng rừng. Những cành cây khô vặn mình răng rắc, cơ hồ tiếng xương gãy. Anh sáng lênh loáng trên mặt suối, tựa như một vết thương tràn đầy máu. Mùi cỏ trên bờ thơm ngây ngất. Những ngọn tranh nhọn sắc còn ghi dấu của chân nai đang đuổi nhau chạy qua đây...

Vừa liếc nhìn qua bài làm của cậu bé, thầy giáo đã quát lên :

- Thôi, hãy dừng bút. Bước ra khỏi lớp ngay lập tức. Mày là một con hổ rừng.

Cậu bé ngỡ ngàng, không hiểu thầy giáo muốn nói gì.

-Ra ngay khỏi lớp, con hổ ác độc.

- Không, không, thưa Thầy - cậu bé mếu máo- em là người. Em là con người. Hãy cho phép em tiếp tục làm người

- Người, người đâu có thế nầy : máu, máu và máu...

- Cút đi. Cút đi. Cút về rừng đi.

Lũ học sinh trong lớp cũng gào thét theo thầy giáo, cho hả giận, vì bị thua thiệt trong những ngày tháng qua.

Thế là cánh cửa của lớp học, đóng sập xuống, sau lưng cậu. Cậu bé thất thểu về nhà. Bà cụ hái củi đã chết, vì cây đổ. Cậu bé không biết nương tựa vào đâu. Cậu nhớ đến những người hàng xóm tốt bụng. Những người ấy đã từng ca ngợi cậu, khen cậu đẹp trai và giống mẹ như đúc...Nhưng vừa nhác trông thấy cậu, họ đã đóng sập cửa lại. Bây giờ họ chỉ biết một điều : cậu đã bị đuổi học, vì cậu là một con hổ con xấu xí.

Rừng Già đã mở lòng đón nhận cậu và dạy cho cậu trở lại làm một con hổ, giống như bao nhiêu con hổ khác « nghiện máu và thèm thịt người ».

Sau một vài tuần, cậu bé mang máng nhớ lại cái lớp học ngày xưa, ở giữa một khu làng xa xa. Ở đó có cơ man nào là người. Muốn máu và thịt bao nhiêu, sẽ có bấy nhiêu. Thế là cậu đã dẫn đoàn quân của Rừng Già, trở về thăm viếng ngôi trường cũ.

Thầy giáo, vừa nhìn thấy mặt cậu, kêu lên, giọng run rẩy :

- Em hãy vào đây. Em ngoan quá. Thầy và các bạn đều nhớ em.

- Không, không. Ta đến đây, lần nầy, không phải để học.

- Chính em đã từng học ở đây mà. Em là một con người tuyệt vời. Con Người viết hoa.

- Không. Ta không phải là người. Chính ông đã bảo ta là hổ. Ông đã ép buộc ta phải ra đi, băng ngàn, vượt suối. Chính ông đã bắt ta phải trở lại làm hổ.

Thế là cậu bé và đoàn quân của Rừng Già đã tràn vào lớp học. Thịt và máu ngập ngụa cả một vùng trời và vùng đất.

xxx

Anh Khoa ơi,

Hôm nay, tôi muốn cùng Anh đến thăm lại Ông Ba Mươi ở Vườn Thủ Lệ, Hà Nội. Nhưng lần nầy, tôi muốn kể chuyện đời tôi cho Ông Ba Mươi nghe :

Bản thân tôi cũng đã sinh ra làm cọp.

Từ Rừng Già, Mẹ đã mang tôi về nuôi. Mẹ cho tôi bú sữa của Mẹ. Ngày ngày tôi được Mẹ vổ về, ấp ủ, cư xử và đãi ngộ như một Người « chưa thành, nhưng đang thành và sẽ thành ». Trong ý hướng đó, Mẹ đã đặt tên cho tôi là « Thành ».

Nhờ hơi ấm, liếc nhìn và bầu sữa của Mẹ, hôm nay tôi đang làm người và thành người. Bao nhiêu lông lá rằn ri đã từ từ rụng hết. Mẹ đã dạy cho tôi biết ăn cơm và tương chao, do chính bàn tay Mẹ đã làm ra.

Thoảng hoạt, có người đã cố tình dèm pha, nhắc lại quá khứ của tôi. Họ muốn xua đuổi tôi. Bao nhiêu cánh cửa đã đóng sập xuống sau lưng tôi.

Tôi đã im lặng ra đi. Tôi đã gõ cửa từng nhà, cúi đầu, ngửa tay xin củ khoai, củ sắn... để tiếp tục can trường làm người. Mọi người đã thay phiên nhau từ chối, vì có một thời, tôi đã làm cọp. Cọp thực sự. Một con cọp con.

Nhớ lại gương Mẹ ngày xưa, biết đảm đang, gồng gánh, tôi cũng đã trở lại ven rừng, đi kiếm củi, đem ra chợ bán, kiếm ăn hằng ngày. Cho dù hoàn cảnh có khắc nghiệt đến đâu, tôi vẫn cố quyết và can trường làm người.

Hôm nay, sau một cuộc đời hơn sáu mươi tuổi, đó đây vẫn còn có người luôn luôn dèm pha, nhỏ to, dị nghị : « Nó là Cọp ».

Tuy nhiên, không một ai có thể « ép buộc tôi » phải trở lại làm cọp. Tôi là một con người tự do, tự quyết. Ngày xưa Mẹ đã dạy tôi làm người. Và bây giờ, mỗi ngày tôi vẫn « chọn lựa và quyết định » làm người. Làm người một cách hạnh phúc và can đảm, mặc dù thoảng hoạt tiếng gió của Rừng Già vẫn còn thổi về và đánh thức « lòng thèm thịt, thèm máu », trong tâm hồn tôi. Dư âm của ngày xưa vẫn còn phảng phất. Nhưng ÁNH MẮT Mẹ cũng luôn luôn có mặt với tôi, trong tôi. Đôi mắt của Mẹ đang mời gọi và nhắc nhủ tôi làm người.

Từ ngày học làm người với Mẹ, tôi đã mở mắt thấy được rằng : Chất liệu Thứ Tha và Lòng Thương Yêu đã đâm chồi nẩy lộc trong bản thân và cuộc đời của tôi. Nhờ hai chất liệu nầy, con người cũng như Quê Hương của tôi mới có NGÀY MAI. Ngày Mai ấy là VẠN XUÂN bất tử và bất diệt. Ngày Mai ấy là ĐẠI VIỆT bao la và trọng đại, vượt thắng mọi tình huống bạo động và chia rẽ, kỳ thị và hận thù...

Ngược lại, nếu chúng ta không ngày ngày thắp sáng trong tâm hồn và cuộc đời, Tình Thương Yêu và Lòng Thứ Tha, Rừng Già lại trở về, với thây người chất lên thành núi, và với máu người tuôn chảy thành sông... như trong các cuộc chiến vừa qua và có thể đang còn tiếp diễn trong cõi lòng của mỗi người.

xxx

Hỡi người Em Việt Nam,

Chúng ta hãy cùng nhau sáng tạo điểm tựa là Tình Thương Yêu và đòn bẫy là Lòng Thứ Tha. Với hai nội lực nầy, chúng ta sẽ có khả năng « dời núi, lấp sông », làm nên Đại Sự trong lòng Quê Hương và gọi Mùa Xuân trở về trong tâm hồn của anh chị em đồng bào.

Học làm người có nghĩa là học Thương Yêu và Tha Thứ. Phải chăng đó cũng là gia bảo của Mẹ Au Cơ trong tiến trình xây dựng Đất Nước ngày qua và hôm nay.

« Có Mẹ trong tâm tư,

« Con trở thành Con Người Bất Tử,

« Có Mẹ trong cuộc đời,

« Phép Lạ hiện hình trong mọi sự ».

Lausanne, Thụy Sĩ - Hè 2004

CHÚ THÍCH

(*) TRẦN Đăng Khoa - Chân Dung và Đối Thoại - nXB Thanh Niên, Hà Nội 1988, tr 327-331

**NGUYỄN Văn Thành - Đồng Cảm để Đồng Hành - Tủ Sách Tình Người, Lausanne 2003