Nếu Giáo xứ Việt Nam Paris là một ngôi làng thì nhà thờ Giáo xứ là nhà chung. Đức Ông Giám đốc là Tiên chỉ, các cha, các soeurs, các thầy trong ban Giám đốc là các Hương chức. Hội đồng Mục vụ là Tri sự. Ban Giáo lý là Hương giáo v.v. Nhà chung Giáo xứ Paris trải qua nhiều cơ sở :
1) 1950 - 1957 : 36 bis boulevard Raspail. Paris 7. Métro : Sèvres-Babylone.
2 & 3) 1957 : một cơ sở ở quận 5 Paris (Kỷ yếu 50 năm thành lập, tr. 26 : không ghi địa chỉ). Tiếp theo là 32 avenue de l’Observatoire, Paris 14 (Tu viện Visitandines).
4) 1967 - 1999 : 15 rue Boissonades, Paris 14 (Tu viện Visitandines). RER : Port Royal.
5) 7 -1998 : 38 rue des Epinettes, Paris 17. Cổng vào : 2 Villa des Épinettes. Métro : Porte de Saint-Ouen.
Mỗi cơ sở phản ảnh thực trạng của cộng đoàn : các cơ sở đầu tiên đều là nhà thuê, diện tích các cơ sở sau tăng dần theo số giáo dân. Số người tích lũy qua nhiều thế hệ, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử đất nước. Cơ sở hiện nay tương đối rộng rãi, có khả năng tiếp nhận khoảng 1000 người. Nhà chung Giáo xứ Épinettes (1998-2004) đã có 6 năm hoạt động. Trong khuôn khổ năm Truyền giáo 2004, Báo Giáo Xứ dành số tháng 6 để ôn cố cơ sở, tri tân truyền giáo. Bài báo này gồm 5 phần : pháp luật, giới thiệu khu phố Épinettes, ý nghĩa kiến trúc, hiện trạng và bảo trì cơ sở.
I - QUI CHẾ PHÁP LÝ
Cơ sở Giáo xứ hiện nay (2 Villa des Épinettes, Paris 17) do Tòa Tổng Giám mục Paris, thông qua Hiệp hội Giáo phận Paris (Association Diocésaine de Paris : ADP), cho phép Giáo xứ sử dụng theo Hợp đồng cho mượn để sử dụng miễn phí (Contrat de prêt à usage gratuit) ký ngày 13 tháng Bẩy 1998, chiếu các điều 1384, 1386, 1875, 1881, 1886, 1891 của luật dân sự. Cơ sở hiện nay gồm có :
- tầng trệt (en rez-de-chaussée) : sân + nhà chơi (préau), 3 nhà ở (Đức Ông Giám đốc, Cha Trần Anh Dũng, Cha Nguyễn Văn Cẩn), 1 phòng nghênh đón (hall d’accueil);
phía trái : tòa báo, 1 nhà vệ sinh (bloc sanitaire)
phía trái : phòng in báo + photocopie
- tầng hầm 2 (2ème sous-sol ) : nhà nguyện (chapelle) + hội trường đa dụng (salle polyvalente). Các ngày lễ lớn, nhà nguyện được nới rộng qua hội trường bằng cách mở 3 cánh cửa kéo (portes coulissantes). 4 lớp học và phòng bán sách báo, nhiều phòng vệ sinh, nhiều phòng kỹ thuật và kho. Thời hạn sử dụng là 30 năm (1/7/1998 - 1/7/2028), sau đó được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 9 năm, trừ trường hợp Hiệp hội Giáo phận Paris hoặc Giáo xứ Việt Nam thông báo khước từ 6 tháng trước khi hết hạn.
Ngày 22-5-1998, Giáo xứ mua thêm 4 phòng ở lầu 1 trong cao ốc số 38 rue des Épinettes qua tên của Hiệp hội Giáo phận Paris (Diocésaine de Paris : ADP), theo văn thư ngày 19-5-1998, với số tiền là 740 000 francs, ký tại Văn phòng Chưởng khế Christian Lefèbvre ở Paris, mang chữ ký của Ông Daniel Fandeur đại diện ADP, có sự hiện diện của Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh và LS Lê Đình Thông, cố vấn pháp luật Giáo xứ. Các căn phòng này để tiếp đón các vị trong hàng giáo phẩm Việt Nam, linh mục, tu sĩ, vãng lai Paris.
Hiệp hội Giáo phận Paris (ADP) do ĐHY Dubois, Tổng giám mục Paris, thành lập ngày 16-4-1924. Theo điều 5 Điều lệ, Đức Hồng y Tổng Giám Mục Paris là chủ tịch Hội đồng Quản trị ADP.
Ngày 15-7-1998, Đức Ông Mai Đức Vinh gửi văn thư đến các chủ nhà trong cao ốc cùng địa chỉ với Giáo xứ gửi lời chào thân hữu, đồng thời nhắc lại ý kiến của ĐHY Jean-Marie Lustiger nhân kỷ niệm 50 thành lập Giáo Xứ (1947-1997) : Trong sư hiệp thông trọn vẹn với Giáo phận, Giáo xứ Việt Nam duy trì và phát huy các quan hệ lịch sử với Giáo hội Pháp và Giáo hội Việt Nam. Vì vậy, ADP giúp Giáo xứ thực hiện sứ mạng tông đồ bằng cách cho mượn các cơ sở (locaux) và sân (cours) số 38 rue des Épinettes. Cơ sở mới này cho phép Giáo xứ phát triển các sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, giáo dục và xã hội. Ngày 25-3-1999, Hội đồng Đại diện Cao ốc (HĐĐD : Conseil syndical) nhóm họp để quyết định về đơn khiếu tố của một số chủ nhà liên quan đến việc Giáo Xứ ‘‘gây những yếu tố nguy hại’’ (nuisances). Trong phiên họp có sự tham dự của Ông Ủy viên Cơ sở Nguyễn Văn Thơm, LS Lê Đình Thông đã trực tiếp trả lời nhiều câu hỏi của những chủ nhà ký đơn khiếu tố. Đến nay, liên hệ láng giềng giữa Giáo Xứ và các chủ nhà hoàn toàn tốt đẹp.
Ngày 15-8-1998, Giáo Xứ cử hành Thánh lễ đầu tiên tại cơ sở mới, nhằm lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên TrờI. Các linh mục dâng lễ đã phó thác cộng đoàn Giáo xứ trong tay Đức Mẹ.
Ngày 15-11-1998, ĐHY Jean-Marie Lustiger cử hành trọng thể Đại lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đồng thời khánh thành cơ sở mớI của Giáo xứ. ĐHY chính thức công bố sắc phong của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II vinh thăng linh mục Giuse Mai Đức Vinh lên hàng Đức Ông với danh hiệu Kinh sĩ của Đức Thánh Cha (Chapelain de Sa Sainteté), theo thỉnh cầu của ĐHY Tổng Giám Mục Paris. Suốt 18 năm lãnh trọng trách Giám đốc Giáo xứ (16-11-1980 đến 15-11-1998), Đức Ông Mai Đúc Vinh cùng với ban Giám đốc không ngừng hoạt động nhằm giúp cộng đoàn thăng tiến về mọi mặt, trở thành một cộng đoàn ngoại kiều có uy tín tại Paris, phát huy tinh thần liên đới và hội nhập, có nhiều sinh hoạt mục vụ, văn hóa và xuất bản, cơ sở mới khang trang, ngày nay có khả năng tự túc về tài chính.
Ngày 28-1-2000, Hiệp hội Văn hóa Xã hội Pháp-Việt (Association socio-culturelle franco-vietnamienne) chuyên trách các lớp học tiếng Pháp tại Giáo xứ đổi trụ sở từ 269 bis rue du Faubourg Saint-Antoine, Paris 11 về Giáo xứ. Ban Trị sự gồm Đức Ông Mai Đức Vinh (Giám đốc Giáo xứ : Chủ tịch), BS Nguyễn Ngọc Đỉnh (Chủ tịch HĐMV : Phó chủ tịch), LS Lê Đình Thông, Phó chủ tịch HĐMV : Tổng thư ký), Ông Ngô Triệu Hùng (Ủy viên Tài chánh HĐMV : Thủ quĩ).
An cư là điều kiện cần thiết để lạc nghiệp. Từ khi dọn về cơ sở mới, Giáo xứ lần lượt cải tiến hệ thống âm thanh, trang bị đàn piano điện tử (numérique) hiệu Yamaha và máy chiếu vidéo (vidéoprojecteur) hiệu Sagem. Các phương tiện này giúp Giáo Xứ xúc tiến nhiều sinh hoạt đáp ứng được chương trình mục vụ của Giáo phận và riêng của Giáo xứ (xin xem hình mầu minh họa phụ bản trang giữa số báo này)
- Ngày 5-4-1999 : Nhóm Thư Viện tổ chức buổi sinh hoạt Mạn đàm về thơ.
- Ngày 1-5-2000 : Đại hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần thứ I.
- Ngày 17-12-2000, Đại hội Thánh Ca bế mạc Năm Thánh 2000, gồm 4 phần : Tin, Cậy, Mến, Chúc tụng. Tổ chức cuộc thi Hang đá mừng Năm Thánh 2000.
- Ngày 1-5-2002 : Mạng toàn cầu (internet) Giáo xứ chính thức hoạt động. 2002 : Ngày Gia Đình lần I đươc tổ chức tại Giáo xứ.
- Ngày 12-10-2002 : Cung nghinh trọng thể Thánh tượng Đức Mẹ La Vang.
- Chúa nhật 23-3-2003 : Thánh lễ Trực tiếp Truyền hình trên đài France 2; được đài TV5 tiếp vận để phát lại trên khắp thế giới. Trong Thánh lễ này trưng bầy hai bức họa : Đức Mẹ La Vang và Tử Đạo Việt Nam của họa sĩ Vũ Đình Lâm.
- Năm 2003 : Phong trào Cursillo (Giáo Xứ Paris) kỷ niệm 10 năm thành lập (1993-2003). - ngày 1-5-2003 : Đại Hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần 4. Phát hành Niên giám LĐNN. Trình chiếu phim : Liên đới Nghề nghiệp.
- Ngày 2-11-2003 : Thánh lễ Giới trẻ theo phương thức mới được cử hành ngày 2-11-2003 và chủ nhật thứ nhất mỗi tháng.
- Tháng 12-2003 : Thi Hang đá phát động Năm Truyền giáo 2004.
- Ngày 28-3-2004 : Ngày Gia đình lần thứ 3 với chủ đề : Trao truyền văn hóa và đức tin cho con cái. Phát hành hai công trình văn hóa trong năm Truyền giáo : Văn hóa và Đức tin (636 trang. 12 tác giả) và Báo Giáo xứ Kỷ niệm 20 năm tục bản (1984-2004) (130 trang khổ lớn. 12 tác giả). Maquette bìa : Họa sĩ Vũ Đình Khiêm. Độc giả Báo Giáo Xứ chưa có sách hoặc báo có thể điện thoại Đức Ông để mua với giá đặc biệt. ( 01 53 06 36 21).
- Ngày 1-5-2004 : Đại hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần thứ 5 với chủ đề Truyền giáo trong sinh hoạt nghề nghiệp. Trình chiếu phim mang chủ đề Truyền giáo : Ruộng Đồng Đức Tin.
- Tháng 10-2004 : Triển lãm Truyền giáo bế mạc Năm Truyền giáo tại Giáo Xứ.
II - GIỚI THIỆU KHU PHỐ ÉPINETTES
Thuở trước, khu phố Épinettes (quartier des Épinettes) còn là đồng lúa. Khu phố Épinettes có từ năm 1693, tên gọi Épinettes xuất phát từ nghề trồng nho, épinette blanche là tên một giống nho ngày nay gọi là nho trắng (pineau blanc, dùng để chế tạo rượu pineau ngọt dịu). Giống nho này trước đây được trồng ở khu phố Épinettes.
Từ thế kỷ 17 được đổi tên là Les Épinettes. Cánh đồng lúa biến dần. Các công sự bảo vệ kinh thành được xây cất dưới thời vua Louis-Philippe 1er (1773-1850), giới hạn khu phố Bắc (1839-1848).
Năm 1860, khu phố được chia thành từng lô. Chemin de St-Ouen rẽ đôi với đường Clichy được đặt tên là La Fourche (Ngã ba đường).
Năm 1882, Chemin de St-Ouen (đường làng) được đổi tên thành avenue de St-Ouen, dẫn tới làng St-Ouen ở ngoại thành Paris. Năm 1897, chemin des Epinettes được đổi tên thành rue des Épinettes. Năm 1910 : métro de St-Ouen bắt đầu hoạt động. Giá vé lúc đầu là 0,15 F.
Bảng tên đường Rue des Épinettes cũng như các tên đường khác ở Paris có từ năm 1807. Ngày 23-5-1806, hoàng đế Napoléon 1er (1769-1821) ban hành sắc lệnh qui định mẫu bảng đường Paris như hiện nay : chữ trắng, nền xanh dương, chiều rộng của bảng đường là 3,5 cm.
Sau khi cộng đoàn Giáo xứ dọn về cơ sở mới, tên Impasse des Épinettes được thay bằng Villa des Épinettes : Ngõ cụt (impasse) được khai lối bằng phố xá biệt thự (villa) : Ngựa xe như nước áo quần như nen (Nguyễn Du). Sự thay đổi này nói lên hướng đi mới của cộng đoàn Giáo xứ.
Rue des Chazelles trong khu phố Épinettes là nơi chào đời của tượng Nữ thần Tự do. Tượng gồm 300 miếng đồng, cao 46 mét, nặng 200 tấn, được tháo ra, đóng vào nhiều thùng, do một hạm đội hải quân Pháp chuyển vận sang Mỹ. Ngày 4-7-1884, Tử tước Ferdinand de Lesseps (1805-1894), chủ tịch Ủy ban Hiệp nhất Pháp - Mỹ bàn giao công trình điêu khắc này cho bộ trưởng Mỹ Morton : Bức tượng Tự do soi sáng thế giới. Tượng đài (gồm cả chân tượng) cao 93 mét.
Thánh đường Saint-Joseph des Épinettes (40 rue Pouchet, Paris 17) được dựng năm 1910. Còn nguyện đường 38 rue des Épinettes có tháp chuông nhỏ (clocheton) và cây thánh giá, được Hội bảo trợ giáo lý St-Joseph des Épinettes (Patronage de St-Joseph des Épinettes) cất năm 1876. Hội Patronage (gọi tắt là Patro) do Hội Dòng St-Vincent de Paul sáng lập. Ngày 4-2-1877, ĐHY Guibert, tổng giám mục Paris làm phép khánh thành giáo đường.
Sau này tòa tổng giám mục Paris cho xây thánh đường ở dưới sân, rộng 600 mét vuông, phía trên là tòa nhà cao 20 mét (bằng chiều sâu một giếng nước), với 116 căn phòng. Ngoài ra còn nhà chơi (préau) rộng 176 mét vuông. Nhà nguyện sâu 6 mét dưới lòng đất.
Trong toàn bộ cơ sở Giáo xứ, nguyện đường thể hiện ý nghĩa kiến trúc như được trình bầy trong phần III.
III - Ý NGHĨA KIẾN TRÚC
Nguyện đường mang ba ý nghĩa : thần học, triết học và phụng vụ.
- Ý nghĩa thần học : Vòm cao tam giác trên cung thánh là biểu tượng của Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đó Ngôi Ba Thánh Thần là tình yêu nối kết giữa Ngôi Cha và Ngôi Hai. Vòm Thiên Chúa Ba Ngôi lợp kính mầu, tiếp nhận ánh sáng từ Trời đổ xuống bàn thờ chính, rồi từ đó lan rộng khắp cộng đoàn, trở thành ánh sáng muôn dân. Cách thiết kế này nhằm diễn tả Lời Chúa : Ta là ánh sáng thế gian.
Ý nghĩa thần học còn bao hàm ý nghĩa thời gian : Ba Ngôi Thiên Chúa có từ thuở đời đời, được tiếp tục đến ngày nay và mai sau. Ánh sáng muôn dân nhắc lại hiến chế Lumen Gentium được Công đồng Vaticanô II thông qua khóa V ngày 21-11-1964.
- Ý nghĩa triết học : Biểu tượng Thiên Chúa Ba Ngôi trên vòm cao trở thành chủ đề của toàn bộ công trình kiến trúc, được thể hiện dưới dạng những hình tam giác cân (triangles isocèles) trên vách ngôi thánh đường. Các tam giác này diễn tả ý nghĩa triết học : Mọi tâm hồn hướng thượng đều gặp nhau (Tout ce qui monte converge).
- Ý nghĩa phụng vụ : Thánh đường là nơi suy niệm và cầu nguyện. Các biểu tượng kiến trúc là lời mời gọi cầu nguyện :
a) Tam giác phân kỳ trên cung thánh : Ba Ngôi chiếu sáng thế gian.
b) Nhiều tam giác hội tụ trên vách thánh đường : toàn thể cộng đoàn hiệp ý trong suy niệm và nguyện cầu.
Ý nghĩa này còn được minh họa qua mầu sắc :
a) mầu xanh da trời : Ba Ngôi Thiên Chúa.
b) mầu nâu của đất (ocre de la terre) : thế gian.
Sự hòa hợp mầu sắc giữa Trời mới - Đất mới mời gọi sự hòa hợp trong tâm hồn và giữa cộng đoàn. Nếu mỗi người chia sẻ tâm tình này, Giáo Xứ sẽ là điểm đồng qui, nối kết các thành phần dân Chúa.
IV - THỜI ĐIỂM HÔM NAY
Trong năm truyền giáo 2004, Giáo xứ thưc sự là một Nhà Chung. Nhà nguyện rộng mở cho những ai muốn cầu nguyện. Ngoài ra, vườn cây phía ngọn tháp được Ông Nguyễn Văn Tốt tự nguyện vun sới, bỏ tiền mua nhiều cây cảnh và nhiều loại hoa. Ngoài ra, Ông Nguyễn Văn Thơm đốn hai cây cao để ngăn ngừa thiệt hại giông bão, rễ cây ảnh hưởng đến ngọn tháp. Các công trình này tạo cho sân giáo xứ trở thành nơi gặp gỡ và trao đổi, theo sự gợi ý của Giáo phận trong Năm Truyền giáo 2004 : tận dụng các nơi gặp gỡ : vườn hoa, công trường (utiliser les lieux de rencontre : jardin, place ).
Ngày Gia đình, Đại Hội Liên Đới Nghề nghiệp, Ngày Văn hóa Thư viện được tổ chức tại hội trường Giáo Xứ là nơi trao đổi việc trao truyền Đức tin và Truyền giáo trong gia đình, trong môi trường nghề nghiệp và cả những người thuộc các tôn giáo khác. Mặt khác, Giáo xứ còn tạo điều kiện để giới trẻ gặp gỡ theo gợi ý của Giáo phận (faire rencontrer les jeunes). Thánh lễ Giới trẻ được tổ chức mỗi chủ nhật đầu tháng trở nên một sinh hoạt mục vụ thu hút, với việc sử dụng phương tiện thính thị hiện đại. Mặt khác, các khóa chuẩn bị hôn nhân và các lớp giáo lý đều được quan niệm như không gian phúc âm hóa (lieux d’évangélisation).
Trong mùa chay vừa qua, 6 bài giảng của 6 vị hồng y hoặc trưởng giáo chủ được dịch sang tiếng Việt và phổ biến rộng rãi để cộng đoàn thấu triệt ý nghĩa của Năm Truyền giáo : đem hạnh phúc đích thực đến cho mọi người.
Ngoài ra, các đơn vị mục vụ như như Đoàn Kitô Vua, Phong trào Cursillo, Ban Giáo lý, Ban Bữa cơm chủ nhật v.v. đều có những sinh hoạt thường xuyên tại cơ sở Giáo xứ.
Cao điểm của Năm Truyền giáo là đợt sinh hoạt mục vụ vào tháng 10-2004. Trong tháng này, Giáo Xứ sẽ tổ chức Triển lãm Truyền giáo, với sự đóng góp của Cha Trần Anh Dũng, Thầy Phó tế Phạm Bá Nha và Hội Đồng Mục Vụ. Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam (14-10-2004) sẽ được cử hành trọng thể, mang ý nghĩa truyền giáo theo giáo huấn của Giáo hội Việt Nam và Giáo phận Paris.
Từ 23-10 đến 4-11-2004, cơ sở Giáo xứ sẽ tiếp nhận khoảng 30 tín hữu từ các nước trong Liên hiệp Âu châu đến Paris tham dự Năm Truyền giáo của Giáo phận và Giáo xứ. Nhóm người này sẽ dự cuộc triển lãm Truyền giáo của Giáo xứ, tham dự thánh lễ tại cộng đoàn và cầu nguyện chung.
Các sinh hoạt mục vụ tại cơ sở từ 1998 đáp ứng được nhu cầu mục vụ của cộng đoàn nói chung và từng đối tượng : nam, phụ, lão, ấu; các ngành nghề khác nhau. Sống năm Truyền Giáo 2004, mỗi người cùng chia sẻ tâm nguyện : Giáo xứ là Giáo hội thu nhỏ cho người Việt ở Paris và vùng phụ cận.
IV- BẢO TRÌ CƠ SỞ
Trước năm 1997, Ông Nguyễn Văn Thơm giúp Giáo xứ bảo trì và chỉnh trang cơ sở cũ 15 rue Boissonade, Paris 14. Công tác này ngày càng cần thiết trong đời sống cộng đoàn. Vì vậy, Đại hội Mục vụ năm 1997 (kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo xứ) đã định chế hóa thành chức vụ ủy viên cơ sở, đồng thời mời Ông Nguyễn Văn Thơm đảm nhận trọng trách này. Ông Thơm điều khiển xí nghiệp xây dựng (entreprise de construction) Thomas Guillier. Năm 1990, ông có công thành lập nhóm Xây dựng trong Phong trào Liên Đới Nghề Nghiệp. Nhóm này qui tụ 24 người có tên trong Niên giám Liên đới Nghề nghiệp 2003. Tại cơ sở Boissonade, ông Thơm có công dựng dẫy nhà sinh hoạt nối liền với sân khấu mang hình thước thợ, tráng xi măng sân Giáo xứ.( Giaoxuvnparis.org)
1) 1950 - 1957 : 36 bis boulevard Raspail. Paris 7. Métro : Sèvres-Babylone.
2 & 3) 1957 : một cơ sở ở quận 5 Paris (Kỷ yếu 50 năm thành lập, tr. 26 : không ghi địa chỉ). Tiếp theo là 32 avenue de l’Observatoire, Paris 14 (Tu viện Visitandines).
4) 1967 - 1999 : 15 rue Boissonades, Paris 14 (Tu viện Visitandines). RER : Port Royal.
5) 7 -1998 : 38 rue des Epinettes, Paris 17. Cổng vào : 2 Villa des Épinettes. Métro : Porte de Saint-Ouen.
Mỗi cơ sở phản ảnh thực trạng của cộng đoàn : các cơ sở đầu tiên đều là nhà thuê, diện tích các cơ sở sau tăng dần theo số giáo dân. Số người tích lũy qua nhiều thế hệ, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử đất nước. Cơ sở hiện nay tương đối rộng rãi, có khả năng tiếp nhận khoảng 1000 người. Nhà chung Giáo xứ Épinettes (1998-2004) đã có 6 năm hoạt động. Trong khuôn khổ năm Truyền giáo 2004, Báo Giáo Xứ dành số tháng 6 để ôn cố cơ sở, tri tân truyền giáo. Bài báo này gồm 5 phần : pháp luật, giới thiệu khu phố Épinettes, ý nghĩa kiến trúc, hiện trạng và bảo trì cơ sở.
I - QUI CHẾ PHÁP LÝ
Cơ sở Giáo xứ hiện nay (2 Villa des Épinettes, Paris 17) do Tòa Tổng Giám mục Paris, thông qua Hiệp hội Giáo phận Paris (Association Diocésaine de Paris : ADP), cho phép Giáo xứ sử dụng theo Hợp đồng cho mượn để sử dụng miễn phí (Contrat de prêt à usage gratuit) ký ngày 13 tháng Bẩy 1998, chiếu các điều 1384, 1386, 1875, 1881, 1886, 1891 của luật dân sự. Cơ sở hiện nay gồm có :
- tầng trệt (en rez-de-chaussée) : sân + nhà chơi (préau), 3 nhà ở (Đức Ông Giám đốc, Cha Trần Anh Dũng, Cha Nguyễn Văn Cẩn), 1 phòng nghênh đón (hall d’accueil);
phía trái : tòa báo, 1 nhà vệ sinh (bloc sanitaire)
phía trái : phòng in báo + photocopie
- tầng hầm 2 (2ème sous-sol ) : nhà nguyện (chapelle) + hội trường đa dụng (salle polyvalente). Các ngày lễ lớn, nhà nguyện được nới rộng qua hội trường bằng cách mở 3 cánh cửa kéo (portes coulissantes). 4 lớp học và phòng bán sách báo, nhiều phòng vệ sinh, nhiều phòng kỹ thuật và kho. Thời hạn sử dụng là 30 năm (1/7/1998 - 1/7/2028), sau đó được gia hạn nhiều lần, mỗi lần 9 năm, trừ trường hợp Hiệp hội Giáo phận Paris hoặc Giáo xứ Việt Nam thông báo khước từ 6 tháng trước khi hết hạn.
Ngày 22-5-1998, Giáo xứ mua thêm 4 phòng ở lầu 1 trong cao ốc số 38 rue des Épinettes qua tên của Hiệp hội Giáo phận Paris (Diocésaine de Paris : ADP), theo văn thư ngày 19-5-1998, với số tiền là 740 000 francs, ký tại Văn phòng Chưởng khế Christian Lefèbvre ở Paris, mang chữ ký của Ông Daniel Fandeur đại diện ADP, có sự hiện diện của Đức Ông Giám đốc Mai Đức Vinh và LS Lê Đình Thông, cố vấn pháp luật Giáo xứ. Các căn phòng này để tiếp đón các vị trong hàng giáo phẩm Việt Nam, linh mục, tu sĩ, vãng lai Paris.
Hiệp hội Giáo phận Paris (ADP) do ĐHY Dubois, Tổng giám mục Paris, thành lập ngày 16-4-1924. Theo điều 5 Điều lệ, Đức Hồng y Tổng Giám Mục Paris là chủ tịch Hội đồng Quản trị ADP.
Ngày 15-7-1998, Đức Ông Mai Đức Vinh gửi văn thư đến các chủ nhà trong cao ốc cùng địa chỉ với Giáo xứ gửi lời chào thân hữu, đồng thời nhắc lại ý kiến của ĐHY Jean-Marie Lustiger nhân kỷ niệm 50 thành lập Giáo Xứ (1947-1997) : Trong sư hiệp thông trọn vẹn với Giáo phận, Giáo xứ Việt Nam duy trì và phát huy các quan hệ lịch sử với Giáo hội Pháp và Giáo hội Việt Nam. Vì vậy, ADP giúp Giáo xứ thực hiện sứ mạng tông đồ bằng cách cho mượn các cơ sở (locaux) và sân (cours) số 38 rue des Épinettes. Cơ sở mới này cho phép Giáo xứ phát triển các sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, giáo dục và xã hội. Ngày 25-3-1999, Hội đồng Đại diện Cao ốc (HĐĐD : Conseil syndical) nhóm họp để quyết định về đơn khiếu tố của một số chủ nhà liên quan đến việc Giáo Xứ ‘‘gây những yếu tố nguy hại’’ (nuisances). Trong phiên họp có sự tham dự của Ông Ủy viên Cơ sở Nguyễn Văn Thơm, LS Lê Đình Thông đã trực tiếp trả lời nhiều câu hỏi của những chủ nhà ký đơn khiếu tố. Đến nay, liên hệ láng giềng giữa Giáo Xứ và các chủ nhà hoàn toàn tốt đẹp.
Ngày 15-8-1998, Giáo Xứ cử hành Thánh lễ đầu tiên tại cơ sở mới, nhằm lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên TrờI. Các linh mục dâng lễ đã phó thác cộng đoàn Giáo xứ trong tay Đức Mẹ.
Ngày 15-11-1998, ĐHY Jean-Marie Lustiger cử hành trọng thể Đại lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, đồng thời khánh thành cơ sở mớI của Giáo xứ. ĐHY chính thức công bố sắc phong của Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II vinh thăng linh mục Giuse Mai Đức Vinh lên hàng Đức Ông với danh hiệu Kinh sĩ của Đức Thánh Cha (Chapelain de Sa Sainteté), theo thỉnh cầu của ĐHY Tổng Giám Mục Paris. Suốt 18 năm lãnh trọng trách Giám đốc Giáo xứ (16-11-1980 đến 15-11-1998), Đức Ông Mai Đúc Vinh cùng với ban Giám đốc không ngừng hoạt động nhằm giúp cộng đoàn thăng tiến về mọi mặt, trở thành một cộng đoàn ngoại kiều có uy tín tại Paris, phát huy tinh thần liên đới và hội nhập, có nhiều sinh hoạt mục vụ, văn hóa và xuất bản, cơ sở mới khang trang, ngày nay có khả năng tự túc về tài chính.
Ngày 28-1-2000, Hiệp hội Văn hóa Xã hội Pháp-Việt (Association socio-culturelle franco-vietnamienne) chuyên trách các lớp học tiếng Pháp tại Giáo xứ đổi trụ sở từ 269 bis rue du Faubourg Saint-Antoine, Paris 11 về Giáo xứ. Ban Trị sự gồm Đức Ông Mai Đức Vinh (Giám đốc Giáo xứ : Chủ tịch), BS Nguyễn Ngọc Đỉnh (Chủ tịch HĐMV : Phó chủ tịch), LS Lê Đình Thông, Phó chủ tịch HĐMV : Tổng thư ký), Ông Ngô Triệu Hùng (Ủy viên Tài chánh HĐMV : Thủ quĩ).
An cư là điều kiện cần thiết để lạc nghiệp. Từ khi dọn về cơ sở mới, Giáo xứ lần lượt cải tiến hệ thống âm thanh, trang bị đàn piano điện tử (numérique) hiệu Yamaha và máy chiếu vidéo (vidéoprojecteur) hiệu Sagem. Các phương tiện này giúp Giáo Xứ xúc tiến nhiều sinh hoạt đáp ứng được chương trình mục vụ của Giáo phận và riêng của Giáo xứ (xin xem hình mầu minh họa phụ bản trang giữa số báo này)
- Ngày 5-4-1999 : Nhóm Thư Viện tổ chức buổi sinh hoạt Mạn đàm về thơ.
- Ngày 1-5-2000 : Đại hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần thứ I.
- Ngày 17-12-2000, Đại hội Thánh Ca bế mạc Năm Thánh 2000, gồm 4 phần : Tin, Cậy, Mến, Chúc tụng. Tổ chức cuộc thi Hang đá mừng Năm Thánh 2000.
- Ngày 1-5-2002 : Mạng toàn cầu (internet) Giáo xứ chính thức hoạt động. 2002 : Ngày Gia Đình lần I đươc tổ chức tại Giáo xứ.
- Ngày 12-10-2002 : Cung nghinh trọng thể Thánh tượng Đức Mẹ La Vang.
- Chúa nhật 23-3-2003 : Thánh lễ Trực tiếp Truyền hình trên đài France 2; được đài TV5 tiếp vận để phát lại trên khắp thế giới. Trong Thánh lễ này trưng bầy hai bức họa : Đức Mẹ La Vang và Tử Đạo Việt Nam của họa sĩ Vũ Đình Lâm.
- Năm 2003 : Phong trào Cursillo (Giáo Xứ Paris) kỷ niệm 10 năm thành lập (1993-2003). - ngày 1-5-2003 : Đại Hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần 4. Phát hành Niên giám LĐNN. Trình chiếu phim : Liên đới Nghề nghiệp.
- Ngày 2-11-2003 : Thánh lễ Giới trẻ theo phương thức mới được cử hành ngày 2-11-2003 và chủ nhật thứ nhất mỗi tháng.
- Tháng 12-2003 : Thi Hang đá phát động Năm Truyền giáo 2004.
- Ngày 28-3-2004 : Ngày Gia đình lần thứ 3 với chủ đề : Trao truyền văn hóa và đức tin cho con cái. Phát hành hai công trình văn hóa trong năm Truyền giáo : Văn hóa và Đức tin (636 trang. 12 tác giả) và Báo Giáo xứ Kỷ niệm 20 năm tục bản (1984-2004) (130 trang khổ lớn. 12 tác giả). Maquette bìa : Họa sĩ Vũ Đình Khiêm. Độc giả Báo Giáo Xứ chưa có sách hoặc báo có thể điện thoại Đức Ông để mua với giá đặc biệt. ( 01 53 06 36 21).
- Ngày 1-5-2004 : Đại hội Liên Đới Nghề Nghiệp lần thứ 5 với chủ đề Truyền giáo trong sinh hoạt nghề nghiệp. Trình chiếu phim mang chủ đề Truyền giáo : Ruộng Đồng Đức Tin.
- Tháng 10-2004 : Triển lãm Truyền giáo bế mạc Năm Truyền giáo tại Giáo Xứ.
II - GIỚI THIỆU KHU PHỐ ÉPINETTES
Thuở trước, khu phố Épinettes (quartier des Épinettes) còn là đồng lúa. Khu phố Épinettes có từ năm 1693, tên gọi Épinettes xuất phát từ nghề trồng nho, épinette blanche là tên một giống nho ngày nay gọi là nho trắng (pineau blanc, dùng để chế tạo rượu pineau ngọt dịu). Giống nho này trước đây được trồng ở khu phố Épinettes.
Từ thế kỷ 17 được đổi tên là Les Épinettes. Cánh đồng lúa biến dần. Các công sự bảo vệ kinh thành được xây cất dưới thời vua Louis-Philippe 1er (1773-1850), giới hạn khu phố Bắc (1839-1848).
Năm 1860, khu phố được chia thành từng lô. Chemin de St-Ouen rẽ đôi với đường Clichy được đặt tên là La Fourche (Ngã ba đường).
Năm 1882, Chemin de St-Ouen (đường làng) được đổi tên thành avenue de St-Ouen, dẫn tới làng St-Ouen ở ngoại thành Paris. Năm 1897, chemin des Epinettes được đổi tên thành rue des Épinettes. Năm 1910 : métro de St-Ouen bắt đầu hoạt động. Giá vé lúc đầu là 0,15 F.
Bảng tên đường Rue des Épinettes cũng như các tên đường khác ở Paris có từ năm 1807. Ngày 23-5-1806, hoàng đế Napoléon 1er (1769-1821) ban hành sắc lệnh qui định mẫu bảng đường Paris như hiện nay : chữ trắng, nền xanh dương, chiều rộng của bảng đường là 3,5 cm.
Sau khi cộng đoàn Giáo xứ dọn về cơ sở mới, tên Impasse des Épinettes được thay bằng Villa des Épinettes : Ngõ cụt (impasse) được khai lối bằng phố xá biệt thự (villa) : Ngựa xe như nước áo quần như nen (Nguyễn Du). Sự thay đổi này nói lên hướng đi mới của cộng đoàn Giáo xứ.
Rue des Chazelles trong khu phố Épinettes là nơi chào đời của tượng Nữ thần Tự do. Tượng gồm 300 miếng đồng, cao 46 mét, nặng 200 tấn, được tháo ra, đóng vào nhiều thùng, do một hạm đội hải quân Pháp chuyển vận sang Mỹ. Ngày 4-7-1884, Tử tước Ferdinand de Lesseps (1805-1894), chủ tịch Ủy ban Hiệp nhất Pháp - Mỹ bàn giao công trình điêu khắc này cho bộ trưởng Mỹ Morton : Bức tượng Tự do soi sáng thế giới. Tượng đài (gồm cả chân tượng) cao 93 mét.
Thánh đường Saint-Joseph des Épinettes (40 rue Pouchet, Paris 17) được dựng năm 1910. Còn nguyện đường 38 rue des Épinettes có tháp chuông nhỏ (clocheton) và cây thánh giá, được Hội bảo trợ giáo lý St-Joseph des Épinettes (Patronage de St-Joseph des Épinettes) cất năm 1876. Hội Patronage (gọi tắt là Patro) do Hội Dòng St-Vincent de Paul sáng lập. Ngày 4-2-1877, ĐHY Guibert, tổng giám mục Paris làm phép khánh thành giáo đường.
Sau này tòa tổng giám mục Paris cho xây thánh đường ở dưới sân, rộng 600 mét vuông, phía trên là tòa nhà cao 20 mét (bằng chiều sâu một giếng nước), với 116 căn phòng. Ngoài ra còn nhà chơi (préau) rộng 176 mét vuông. Nhà nguyện sâu 6 mét dưới lòng đất.
Trong toàn bộ cơ sở Giáo xứ, nguyện đường thể hiện ý nghĩa kiến trúc như được trình bầy trong phần III.
III - Ý NGHĨA KIẾN TRÚC
Nguyện đường mang ba ý nghĩa : thần học, triết học và phụng vụ.
- Ý nghĩa thần học : Vòm cao tam giác trên cung thánh là biểu tượng của Thiên Chúa Ba Ngôi, trong đó Ngôi Ba Thánh Thần là tình yêu nối kết giữa Ngôi Cha và Ngôi Hai. Vòm Thiên Chúa Ba Ngôi lợp kính mầu, tiếp nhận ánh sáng từ Trời đổ xuống bàn thờ chính, rồi từ đó lan rộng khắp cộng đoàn, trở thành ánh sáng muôn dân. Cách thiết kế này nhằm diễn tả Lời Chúa : Ta là ánh sáng thế gian.
Ý nghĩa thần học còn bao hàm ý nghĩa thời gian : Ba Ngôi Thiên Chúa có từ thuở đời đời, được tiếp tục đến ngày nay và mai sau. Ánh sáng muôn dân nhắc lại hiến chế Lumen Gentium được Công đồng Vaticanô II thông qua khóa V ngày 21-11-1964.
- Ý nghĩa triết học : Biểu tượng Thiên Chúa Ba Ngôi trên vòm cao trở thành chủ đề của toàn bộ công trình kiến trúc, được thể hiện dưới dạng những hình tam giác cân (triangles isocèles) trên vách ngôi thánh đường. Các tam giác này diễn tả ý nghĩa triết học : Mọi tâm hồn hướng thượng đều gặp nhau (Tout ce qui monte converge).
- Ý nghĩa phụng vụ : Thánh đường là nơi suy niệm và cầu nguyện. Các biểu tượng kiến trúc là lời mời gọi cầu nguyện :
a) Tam giác phân kỳ trên cung thánh : Ba Ngôi chiếu sáng thế gian.
b) Nhiều tam giác hội tụ trên vách thánh đường : toàn thể cộng đoàn hiệp ý trong suy niệm và nguyện cầu.
Ý nghĩa này còn được minh họa qua mầu sắc :
a) mầu xanh da trời : Ba Ngôi Thiên Chúa.
b) mầu nâu của đất (ocre de la terre) : thế gian.
Sự hòa hợp mầu sắc giữa Trời mới - Đất mới mời gọi sự hòa hợp trong tâm hồn và giữa cộng đoàn. Nếu mỗi người chia sẻ tâm tình này, Giáo Xứ sẽ là điểm đồng qui, nối kết các thành phần dân Chúa.
IV - THỜI ĐIỂM HÔM NAY
Trong năm truyền giáo 2004, Giáo xứ thưc sự là một Nhà Chung. Nhà nguyện rộng mở cho những ai muốn cầu nguyện. Ngoài ra, vườn cây phía ngọn tháp được Ông Nguyễn Văn Tốt tự nguyện vun sới, bỏ tiền mua nhiều cây cảnh và nhiều loại hoa. Ngoài ra, Ông Nguyễn Văn Thơm đốn hai cây cao để ngăn ngừa thiệt hại giông bão, rễ cây ảnh hưởng đến ngọn tháp. Các công trình này tạo cho sân giáo xứ trở thành nơi gặp gỡ và trao đổi, theo sự gợi ý của Giáo phận trong Năm Truyền giáo 2004 : tận dụng các nơi gặp gỡ : vườn hoa, công trường (utiliser les lieux de rencontre : jardin, place ).
Ngày Gia đình, Đại Hội Liên Đới Nghề nghiệp, Ngày Văn hóa Thư viện được tổ chức tại hội trường Giáo Xứ là nơi trao đổi việc trao truyền Đức tin và Truyền giáo trong gia đình, trong môi trường nghề nghiệp và cả những người thuộc các tôn giáo khác. Mặt khác, Giáo xứ còn tạo điều kiện để giới trẻ gặp gỡ theo gợi ý của Giáo phận (faire rencontrer les jeunes). Thánh lễ Giới trẻ được tổ chức mỗi chủ nhật đầu tháng trở nên một sinh hoạt mục vụ thu hút, với việc sử dụng phương tiện thính thị hiện đại. Mặt khác, các khóa chuẩn bị hôn nhân và các lớp giáo lý đều được quan niệm như không gian phúc âm hóa (lieux d’évangélisation).
Trong mùa chay vừa qua, 6 bài giảng của 6 vị hồng y hoặc trưởng giáo chủ được dịch sang tiếng Việt và phổ biến rộng rãi để cộng đoàn thấu triệt ý nghĩa của Năm Truyền giáo : đem hạnh phúc đích thực đến cho mọi người.
Ngoài ra, các đơn vị mục vụ như như Đoàn Kitô Vua, Phong trào Cursillo, Ban Giáo lý, Ban Bữa cơm chủ nhật v.v. đều có những sinh hoạt thường xuyên tại cơ sở Giáo xứ.
Cao điểm của Năm Truyền giáo là đợt sinh hoạt mục vụ vào tháng 10-2004. Trong tháng này, Giáo Xứ sẽ tổ chức Triển lãm Truyền giáo, với sự đóng góp của Cha Trần Anh Dũng, Thầy Phó tế Phạm Bá Nha và Hội Đồng Mục Vụ. Thánh lễ kính các Thánh Tử đạo Việt Nam (14-10-2004) sẽ được cử hành trọng thể, mang ý nghĩa truyền giáo theo giáo huấn của Giáo hội Việt Nam và Giáo phận Paris.
Từ 23-10 đến 4-11-2004, cơ sở Giáo xứ sẽ tiếp nhận khoảng 30 tín hữu từ các nước trong Liên hiệp Âu châu đến Paris tham dự Năm Truyền giáo của Giáo phận và Giáo xứ. Nhóm người này sẽ dự cuộc triển lãm Truyền giáo của Giáo xứ, tham dự thánh lễ tại cộng đoàn và cầu nguyện chung.
Các sinh hoạt mục vụ tại cơ sở từ 1998 đáp ứng được nhu cầu mục vụ của cộng đoàn nói chung và từng đối tượng : nam, phụ, lão, ấu; các ngành nghề khác nhau. Sống năm Truyền Giáo 2004, mỗi người cùng chia sẻ tâm nguyện : Giáo xứ là Giáo hội thu nhỏ cho người Việt ở Paris và vùng phụ cận.
IV- BẢO TRÌ CƠ SỞ
Trước năm 1997, Ông Nguyễn Văn Thơm giúp Giáo xứ bảo trì và chỉnh trang cơ sở cũ 15 rue Boissonade, Paris 14. Công tác này ngày càng cần thiết trong đời sống cộng đoàn. Vì vậy, Đại hội Mục vụ năm 1997 (kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo xứ) đã định chế hóa thành chức vụ ủy viên cơ sở, đồng thời mời Ông Nguyễn Văn Thơm đảm nhận trọng trách này. Ông Thơm điều khiển xí nghiệp xây dựng (entreprise de construction) Thomas Guillier. Năm 1990, ông có công thành lập nhóm Xây dựng trong Phong trào Liên Đới Nghề Nghiệp. Nhóm này qui tụ 24 người có tên trong Niên giám Liên đới Nghề nghiệp 2003. Tại cơ sở Boissonade, ông Thơm có công dựng dẫy nhà sinh hoạt nối liền với sân khấu mang hình thước thợ, tráng xi măng sân Giáo xứ.( Giaoxuvnparis.org)