PHẦN 3 : TIÊN VÀN LÀ MỘT LINH MỤC THỨ ĐẾN MỚI LÀ MỘT BỆNH NHÂN (tt)

SUY NIỆM : LẮNG NGHE LỜI THIÊN CHÚA GỌI : THIÊN CHỨC LINH MỤC

NĂM đầu vào Đại học, tôi được hưởng học bổng do Trường Đại học miền Nam Carolina tài trợ. Được tài trợ học bổng là một vinh dự lớn, thời ấy tiền bạc đối với mẹ, em gái và tôi thật vô cùng khó khăn, cho nên học bổng cũng là giải pháp duy nhất giúp tôi có được một vốn kiến thức tốt. Thật là xúc động khi nghĩ rằng tôi là người đầu tiên trong gia đình được vào Đại học.

Tôi quyết định theo học chương trình Y Khoa cơ bản và tự nghĩ phải nỗ lực hết sức để trở thành một bác sĩ. Công việc của một bác sĩ sẽ cho phép tôi giúp đỡ mọi người, đồng thời cũng có thể đảm bảo được cuộc sống của mình.

Nhưng Thiên Chúa lại cho tôi những kế hoạch khác !

Mùa Hè kế năm đại học đầu tiên ấy, tôi trở thành bạn của hai vị Linh mục trẻ trong giáo xứ tôi. Các ngài rất thích tôi và vẫn thường hỏi tôi là có bao giờ tôi nghĩ đến việc mình sẽ trở thành một Linh mục không. Khi tôi nói là tôi muốn trở thành một bác sĩ thì các ngài lại đề cập đến vấn đề theo một lối khác. Các Ngài lý giải cho tôi là muốn trở thành bác sĩ có nghĩa là tôi muốn giúp đỡ mọi người muốn tiếp cận với tha nhân, vậy thì trở thành Linh mục cũng có thể làm như vậy !

Tôi cân nhắc về những gì mà các Linh mục trẻ ấy nói vì tôi rất kính trọng các ngài. Hầu như tôi quyết định muốn vào Chủng viện ngay tức khắc. Dĩ nhiên mẹ tôi băn khoăn khi thấy quyết định của tôi vội vàng quá. Bà cũng đặt vấn đề để tôi thấy là việc hủy bỏ học bổng quá mạo hiểm vì nếu Chủng viện sau này không còn phù hợp với tôi nữa thì tôi chẳng còn gì để có thể tiếp tục học.

Thế nhưng, bằng mọi giá, tôi xin vào Chủng viện. Thiên Chúa gọi tôi và tôi phải nghe lời Ngài.

Tôi học tại Saint Mary’s College ở Kentucky, Saint Mary’s Semimary ở Baltimore và Theological College tại Đại học Công giáo nước Mỹ ở Washington D.C. Tôi được thụ phong linh mục vào năm 1952 tại Nhà thờ thánh Giuse ở Columbia, Nam Corolina và làm việc trong giáo phận Charleston. Tôi phục vụ nhiều nhiệm sở dưới thời của bốn vị Giám mục nối tiếp nhau. Thỉnh thoảng tôi vẫn tự mỉm cười với chính mình khi thấy rằng những gì hai vị linh mục trẻ trước đây đã nói về chức linh mục quả là chí lý : Qua tác vụ của tôi, tôi có thể giúp được rất nhiều người.

Năm 1966, Đức Thánh Cha Phaolô VI chỉ định tôi làm Giám mục phụ tá giáo phận Atlanta. Và tôi trở thành vị Giám mục trẻ nhất nước. Hai năm sau tôi được bầu làm Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục và Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ. Thế là tôi chuyển về Washington D.C. Trong những năm ấy, tôi tiếp tục phải đảm nhiệm thêm nhiều trọng trách khác nữa. Tôi thấy mình càng ngày càng đi sâu vào công tác lãnh đạo, quan trọng của Giáo hội, nhưng lại làm cho tôi có phần xa cách với cuộc sống hằng ngày và sự quan tâm trực tiếp đến đa số quần chúng.

Năm 1972, Đức Thánh Cha Phaolô VI bổ nhiệm tôi làm Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Cincinnati. Tôi phục vụ tại vùng Ohio Metropolitan See gần mười năm. Thời gian này, tôi được bầu làm Chủ tịch Hôi đồng Giám mục Công giáo và Hội đồng Công giáo Hoa Kỳ trong ba nhiệm Kỳ (1974-1977)

Năm 1982, Đức Thánh Cha Gioan - Phaolô II bổ nhiệm tôi làm Tổng Giám mục của Tổng giáo phận Chicago. Sáu tháng sau tôi được vinh hạnh gia nhập Hồng y đoàn.

Mười bốn năm qua tại Chicago là những năm thành công và ân phúc hơn cả trong đời tôi. Chính tại đây, lần đầu tiên, tôi khởi sự trình bày nhu cầu cần phải có một nền đạo đức nhất quán trong đời sống. Tôi làm việc với 1.800 Linh mục giúp đỡ tôi để phục vụ khoảng 2.300.000 giáo dân trong Tổng giáo phận, bao hàm 1.411 dặm vuông gồm hai hạt Lake và Cook, trong đó có 48 trường trung học, 281 trường tiểu học, sáu trường Đại học, 19 nhà thương và ba Chủng viện thuộc Tổng giáo phận.

Là Linh mục, tôi được gọi để trở thành dụng cụ cho ý muốn của Thiên Chúa, tình yêu và tương quan của Ngài đối với mọi người. Qua sứ vụ của tôi, tôi phải nhận thức được điều ấy ! Định nghĩa cơ bản và những phẩm chất nền tảng của chức Linh mục bất di bất dịch. Và vì lúc nào cũng cố để sống phẩm chất ấy nên nhiều người nói lúc này tôi cũng vẫn y như hồi mới 40 tuổi trước đây. Lúc trước tôi ngây ngô hơn nhiều - thế giới không thay đổi gì nhiều lắm từ dó cho đến bây giờ. Mọi thứ đều khoác một thứ đồng phục dễ thương trong Giáo hội trước Công đồng Vatican II. Và trong một ý nghĩa nồng nàn nào đó, chúng ta, các linh mục, chúng ta quen thuộc hơn với vai trò của chúng ta hay ít ra là với những gì mà giáo dân mong chờ nơi chúng ta.

Thậm chí với tất cả những đổi thay đã xảy ra từ năm 1960, hầu hết những người biết rõ tôi đều đồng ý là tôi thực sự đã không thay đổi gì. Tôi luôn luôn quan tâm đến quần chúng, luôn luôn cố gắng để hoà giải với mọi người. Luôn luôn cố gắng để trở thành dụng cụ của tình yêu mang lại sự lành mạnh Chúa muốn.

Tôi không bao giờ có thể hiểu được Linh mục là gì cách rõ ràng hơn ngoài những gì tôi đang sống lúc này đây. Dân chúng muốn Linh mục phải là những chứng nhân đích thực cho vai trò của Thiên Chúa trong thế gian, những chứng nhân cho tình yêu Ngài. Họ không muốn chúng ta trở thành những chính khách hay thương gia; họ không thích có những xung đột lặt vặt trong Giáo xứ hay đời sống của giáo phận. Ngược lại, rất đơn giản, dân chúng muốn chúng ta chung chia với họ niềm vui nỗi buồn trong đời sống của họ. Tôi hiểu cơ chế rất quan trọng. Giáo hội, cũng giống như thể chế của con người, cần có một số lượng nào đó những vấn đề hành chánh. Nhưng cơ chế, với những gì riêng tư và đen tối của nó, dễ làm mất đi trong cuộc sống chúng ta công việc thực sự cần mà chúng ta phải làm đối với dân chúng.

Tôi không nghĩ rằng là linh mục, tôi phải làm nhiều hơn những gì tôi đã làm trong những năm qua. Sau thời gian hoá trị và đối diện đầu tiên, tôi nói với các cố vấn của tôi rằng lúc này tôi có một ưu tiên mới trong sứ vụ của mình : dành thời gian cho bệnh nhân và những người nhiều ưu phiền. Bất chấp công việc khác của chúng ta có ý nghĩa như thế nào, dân chúng vẫn chỉ muốn có được một điều gì đó đặc thù nơi hàng Giáo phẩm của họ. Thậm chí ngay cả khi họ chẳng tận tụy gì với bất cứ thứ tôn giáo nào rõ rệt thì nam cũng như nữ, ở mọi nơi, họ vẫn có một ước vọng sâu xa được tiếp cận với thế giới siêu nhiên. Các thành viên trong hàng Giáo phẩm có thể làm cho ước muốn đó trở nên dễ dàng qua lòng đạo đức đơn sơ mà họ chứng minh được khi sống với dân mình. Những điều mà tự nhiên dân chúng thấy hấp dẫn và hay nhớ lại hơn cả là những hành vi nho nhỏ được biểu lộ qua sự quan tâm và ân cần. Nhiều năm sau này, đó chính là những gì họ nói với các bạn về các linh mục của họ cũng như những vị khác nữa trong hàng Giáo phẩm.

Lm Ngô Mạnh Điệp dịch