Tu là cõi phúc: 32 nữ tu tuyên khấn tại Phan Thiết

Ngày 15.04.2004, tại nguyện đường Hội Dòng Mến Thánh Giá Phan Thiết, Đức Cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi sẽ chủ sự Lễ khấn dòng cho 7 Nữ Tu Khấn Trọn Đời và 25 Nữ Tu Khấn Lần Đầu. Xin hiệp ý tạ ơn Chúa, cầu nguyện cho các khấn sinh và chia sẽ vài tâm tình. Nguyễn Du đã viết trong Truyện kiều như sau:

Phúc hoạ đạo trời

Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra

Có trời mà cũng có ta

Tu là cõi phúc tình là giây oan
. (Kiều, 2655-2658).

Có phải tình là giây oan và tu là cõi phúc không ?

“Tu” tự nó không phải là cõi phúc và “tình” tự nó chẳng phải là dây oan. Hạnh phúc hay oan khiên đều bắt nguồn từ lòng người.

Tu” và “tình” là hai phạm trù khác biệt, bề ngoài có vẻ trái nghịch nhau, nhưng thực tế lại liên hệ mật thiết và bổ túc cho nhau. Người đi tu, kẻ lập gia thất đều sống chung trong cùng một thế giới, trong cùng một xã hội và cùng một Giáo hội. Từ gia đình tốt, đạo đức mới có người dâng mình cho Chúa.

Người sống đời vợ chồng kết lập giao ước yêu thương qua bí tích hôn phối. Người đi tu kết lập giao ước tình yêu dâng hiến với Đức Kitô.

Ngày lễ khấn dòng, người Nữ tu quỳ gối trước mặt Đức Giám Mục, đặt tay trong tay của Chị tổng phụ trách, tuyên khấn ba lời khuyên phúc âm : Khiết tịnh, Nghèo khó, Vâng phục. Ba lời khấn làm nên sự khác biệt giữa nữ tu với mọi người. Nét đẹp thanh cao vì họ thuộc về Chúa Kitô là Đấng Tuyệt Mỹ, Đấng Chí Thánh.

Con đường tu trì được ví như một cuộc đi tìm cái đẹp (philocalia số 19), hướng tới sự chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa, chân phúc dành cho các tâm hồn trong trắng ( Thánh Grêgôriô Nissa). Người đi tu được thu hút bởi vẻ đẹp của Chúa. Họ mê say chiêm ngưỡng Chúa để rồi phản chiếu khuôn mặt rạng rỡ của Người qua chính đời sống hiến dâng phục vụ tha nhân (Tông huấn Vita consecrata, số 27) và đống thời cố gắng tu bổ hình ảnh của Thiên Chúa đã bị méo mó trên khuôn mặt của bao anh chị em đồng loại (số 75). Đó là cõi phúc của người sống đời tận hiến cho Chúa, phục vụ Giáo hội.

Tình yêu là nhu cầu cần thiết, là khát vọng sâu xa làm cho người nam người nữ đi tìm một nửa kia để hoà hợp nên “một xương một thịt”. Một tình yêu mà ai ai cũng muốn cảm nếm từ tuổi xuân, muốn tìm đến một ai đó, một nửa hồn mình mà nói hết lý lẽ của con tim. Khi thiếu vắng, khi xa một nửa hồn mình, con người cảm thấy trống trải tẻ nhạt như lời thơ trải nghiệm :

Người đi một nửa hồn tôi mất,

một nửa hồn kia hoá dại khờ
( Hàn Mặc Tử)

Vì the, khi khước từ tình yêu có nhiều sức hấp dẫn kỳ lạ ấy để dâng mình cho Chúa, đi theo Chúa, đòi hỏi người tu sĩ phải từ bỏ lớn lao. Vẻ đẹp thánh thiện và cao quý chính là chính là dâng tình yêu, dâng tuổi xuân cho Thiên Chúa. Dâng đời mình cho Chúa, người tu sĩ hiểu rằng tất cả cuộc đời mình đã trao dâng cho Người : thân xác, linh hồn và cả tình yêu. Không ai chiếm được trái tim người tu sĩ ngoài một mình Đức Kitô. Qua lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục, người tu sĩ thể hiện sâu xa hơn một tình yêu không chia sẽ, một con tim dâng hiến trọn vẹn cho Đức Kitô.

Chọn Đức Kitô và bước theo Đức Kitô, người tu sĩ được ơn trợ lực, vượt qua những vẫy gọi của hạnh phúc ngọt ngào lứa đôi, lắng im tiếng tơ lòng quyến rũ. Tất cả đều ở lại phía sau, trở nên lãng quên, trả về quá khứ một tình yêu khát khao hạnh phúc riêng hồn mình. Từ đây người tu sĩ mở rộng con tim mình để chia sẽ với mọi người một tình yêu thanh khiết trao dâng như Đức Maria, người Nữ Tu đầu tiên của Thiên Chúa. Đức Maria đã sống hoàn toàn đức khiết tịnh, đức khó nghèo trong cuộc đời mình cho tình yêu “xin vâng”.

Nhưng để sống hoàn toàn thuộc về Chúa bằng tình yêu thanh khiết, người tu sĩ luôn cảm thức sâu xa “ cái bình sành dễ vỡ” nơi con người mình, thấy rõ những giới hạn của bản thân luôn mỏng dòn yếu đuối, để rồi từ đó người tu sĩ luôn ý thức được hồng ân diệu vợi mà Thiên Chúa ban tặng cho mình trong lời đoan ước.

Lời khấn khiết tịnh, khó nghèo, vâng phục đã giúp bao tâm hồn tu sĩ nam nữ thuộc hoàn toàn về Đấng Tình Quân tuyệt đối “con nay thuộc về Chúa, Chúa nay thuộc về con”. Hương thơm của cuộc đời sống thanh khiết đã mang đến cho cuộc đời một mùa xuân dịu mát trong những vẻ đẹp thanh cao nhất, biến đổi thế giới trong những ích kỷ chiếm đoạt của tình yêu đam mê, hướng nhân loại nhìn về Nước Trời mai sau trong hạnh phúc vĩnh cửu tuyệt mỹ.

Dâng hiến không có nghĩa là biến trái tim trở nên khô cứng lạnh lùng băng giá, không còn rung cảm trước những vẻ đẹp của nhân tình thế thái. Dâng hiến cũng không phải là trở nên lạc lõng cô độc, khinh thường tình yêu trần thế; mà trái lại, người tu sĩ vẫn là người giữa cuộc đời, vẫn tiếp nhận những làn sóng yêu thương gọi mời trong rung động của trái tim. Vẫn có thể bị dao động trước một đối tượng mình tiếp xúc. Vẫn nhìn thấy những kỳ lạ tình yêu đi tìm một nữa hồn mình. Nhưng cõi phúc là ở chỗ :dám từ bỏ để dâng tình yêu cho Chúa, dám sống đời hèn mọn, dám sống đời tận hiến.

Sau Công đồng Vaticanô II, thần học về đời tu chú trọng tới ý niệm tận hiến (consecratio). Bộ giáo luật 1983 đã thu nhận đường hướng đó và đã trình bày các chiều kích của sự tận hiến ờ đ.573. Nội dung phong phú của ý niệm tận hiến được giải thích tường tận trong văn kiện của Bộ tu sĩ tựa đề “ Những yếu tố cốt yếu của đời tu sĩ” (Xuất bản năm 1983).Trong Tông Huấn Vita consecrata, ban hành ngày 25.3.1996, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II gọi đời thánh hiến là một đoàn sủng đặc biệt trong Giáo hội, được phát xuất và duy trì bởi Chúa Thánh Thần. Tu sĩ nam nữ là món quà mà Chúa Thánh Thần ban cho Giáo hội và là một kho báu mà người Kitô hữu cần trân trọng giữ gìn.( x.Chia Sẽ số 11, nội san liên tu sĩ tp.hcm).

Bức tranh Chúa Giêsu biến hình trên núi được Đức Thánh Cha đặt làm sườn cho cả văn kiện (số15). Các môn đệ lên núi chiêm ngắm Chúa biến hình, liền sau đó là xuống núi để phục vụ (số 75), họ còn phải trèo lên một núi khác nữa, tức là núi Calvariô (số14;40). Đức Kitô cần phải qua núi Calvariô để vào vinh quang thiên quốc. Trước đây, đời tu trì quen được ví với việc khắc kỷ tu thân, vác thập giá để đi theo Chúa. Nhưng đó chỉ mới là cái nhìn của truyền thồng Latinh; còn truyền thống Đông phương thì muốn nêu bật sự biến dạng đổi hình, từ con người phàm tục sang con người thần thiêng khi đi theo Chúa. Đức Gioan Phaolô II đã kết hợp cả hai cái nhìn về đời tu trong quang cảnh Chúa biến hình; chủ đề thập giá và vinh quang gắn liến với nhau trong mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô ( x. Chia sẽ, trang 91).

Đời tu là một bài ca tạ ơn Thiên Chúa. Tạ ơn vì đời sống thánh hiến được ban cho Giáo hội. Hồng ân Thiên Chúa chiếu rực trong cuộc đời của người tu sĩ để rồi người tu sĩ “biến hình” và”Sống Chúa Kitô cho mọi người”. Như thế, quả thật “Tu là cõi phúc”, hạnh phúc trong Chúa, có Chúa,vì Chúa và cho tha nhân.