Nhân Năm Truyền Giáo, THỬ BÀN VỀ SẮC LỆNH AD GENTES

Tôi nói là thử mà chưa dám bàn hẳn về vấn đề, vì AD GENTES là một sấc lệnh quan trọng về một vấn đề rộng lớn bao quát cả công cuộc truyền giáo của Hội thánh và đặc biệt của người giáo dân, nên khó có thể bàn cho thấu đáo ngay được.Vì thế, tôi xin hạn chế bài này trong việc giới thiệu trình bày sơ qua những điểm chính yếu trong sắc lệnh mà thôi.

Giới thiệu

AD GENTES là một trong 9 sắc lệnh của Công đồng Va-ti-ca-nô II ban hành ngày 7.12.1965 tai Roma với chữ ký của ĐGH Phao-lô VI và 2394 chữ ký của các Nghị Phu. Sắc lệnh này chia lam 6 chương, đánh số từ 1 đến 42; mỗi chương là một đề mục và mỗi đề mục lại chia ra làm nhiều tiểu tiết. Toàn bộ sắc lệnh nói nhiều về vấn đề truyền giáo của Hội thánh, trong đó người giáo dân chiếm một vị trí đáng kể. Đã 39 năm kể từ khi được ban hành, sấc lệnh vẩn chưa mất tính thời sự mà lại còn rất thich hợp cho chúng ta nghiên cứu, học hỏi trong năm truyền giáo này.

Nói đến truyền giáo là tự nhiên nghĩ đến truyền đạo. Mà truyền đạo nhiều khi lại bị hiểu là dụ dỗ, lôi kéo như chiêu mộ đảng viên vào một đảng phái chính trị vậy. Truyên giáo không phài là như the, mà cốt yếu là rao giảng lời chân lý và sinh ra các hội thánh. (praedicaverunt verbum veritatis et genuerunt ecclesias) Thời nào Hội thánh cũng phải truyền giáo và giao phó công việc này cho các con cái mình cho đến khi Chúa Giê-su lại đén trần gian lần thứ hai, để thu hồi vạn vật về một mối mà dâng lên Chúa Cha, khi chu kỳ lịch sử hoàn tất. Lúc bấy giờ công trình cứu chuộc mới hoàn toàn chấm dứt. Vậy từ đây đến giai đoạn đó, mọi người đã lãnh nhận bí tích thánh tẩy phải làm việc truyền giáo nơi bản thân mình cũng như nơi những người khác. Phải chăng vì vậy mới phân biệt làm hai thứ truyền giáo : truyền giáo bên trong và truyền giáo bên ngoài. Truyền giáo bên trong là lo cho công việc truyền giáo ở trong nước mình, trong gia đình mình, nơi bản thân mình. Từ dây mới có những từ như missio ad intra trong tiếng la-tinh và mission à l’intérieur trong tiếng Pháp. Sở dĩ có những từ này vì nhiều nước dạo gốc bên Au-châu như Pháp, Đức, Ý, người ta bỏ đạo hay không hành đạo mấy nữa, nên phải tìm những cách thế thích hợp để giảng đạo cho những nơi đó. Vì vậy, có những đội ngũ linh mục và giáo dân tra tay làm công việc truyền giáo ngay trên chính quê hương của họ. Gần đây lại có từ nova evangelisatio (thường được dịch là tái phúc âm hóa). Nova evangelisatio thục ra là rao giảng Tin Mừng dưới một hình thức mới cho hợp với những thay đổi đang diễn ra trên thế giới, đề người ta có thể hiểu và đón nhận chứ không phải chiều theo các ý thích của họ để được chấp nhận, vì Tin Mừng là một giá trị cao quí vốn có tính đòi hỏi cao. Mà vì đòi hỏi cao như thế nên mới càng có giá trị. Người ta bỏ đạo, không theo đạo nữa, tại sao vậy ? Có phải tại lối trình bày hay sống đạo của con cái mình không ? Có phải tại người ta khô khan, chạy theo vật chất, mất hết ý thức về tội lỗi và sự thiêng thánh cũng như mất lòng tin vào Thiên Chúa rồi không, tuy ho vẫn ăn ở đàng hoàng đối với những người khác ? Hội thánh tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra những đường lối thích hợp. Nếu nói là tái phúc âm hóa rhì dường như có một lúc nào đó.công việc rao giảng Tin Mừng của Hội thánh đã bị gián đoạn, nên bây giờ mới phải làm lại cho hợp với chữ tái. Thực ra, Hội thánh đã không bao giờ ngừng rao giảng, dù gặp thời thuận tiện hay không thuận tiện như thánh Phao-lô khuyên bảo môn đệ của mình : “Hãy rao giảng lời Chúa, hãy lên tiếng, lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện; hãy biện bác, ngăm đe, khuyên nhủ, với tất cả lòng nhẫn nại và chú tâm dạy dỗ.” (2 Tm 4,2) Có những giai đoạn vô cùng khó khăn, Hội thánh không làm gì để công khai loan báo Tin mừng được thì con cái của Hội thánh, bằng nhìều cách thế khác nhau, vẫn duy trì công việc rao giảng Tin Mừng, như 300 năm đầu khi Hội thánh mới được thành lập trong đế quốc Rô-ma, như ở Việt Nam trong thời kỳ vua quan nhà Nguyễn cấm đạo, chủng sinh được huấn luyện trên càc ghe thuyền bí mật ngoài khơi hay trên sông rach, như ở Nhật Bản từ thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XIX, không còn và không có một nhà truyền giáo nào lọt vào được, thế mà giáo dân vẫn cha truyền con nối dạy bảo nhau giữ đạo cho đến khi các nhà truyền giáo lại đước bước chân tới. Trong hiện tình, hình thức truyền giáo bên trong là điều thiết thực với các nước đạo gốc bên Au châu. Cũng vì vậy nên ơã có những tổ chức như Mission de France, để người Pháp giảng đạo cho chính đồng bào họ, trên chính quê hương đất nước của họ. Khi DGH Gio-an Phao-lô II dung từ nova evangelisatio, có lẽ Người muốn chú trọng đến điểm rao giang Tin Mừng dưới những hình thức mới nhiều hơn chăng ?.

Bên cạnh việc truyền giáo ở bên trong là truyền giáo ở bên ngoài. Thường khi nói đến truyền giáo, người ta quen hiều về hình thức này nhiều hơn. Quả thực, truyền giáo là được sai đi. Từ missio trong tiếng la-tinh được dùng để chỉ việc truyền giáo. Missio bởi động từ mittere là sai. Nhà truyền giáo là người được sai đi, thường là đền những nơi xa, xa quê hương, đồng bào, tổ quốc mình để sống giữa một dân lạ chưa biết Chúa biết đạo. Đó là các nhà truyền giáo châu Au được sai đến các nước bên châu Phi hay châu Á. Bây giờ thì ngược lại. Hiện đang có phong trào các Hội thánh châu Au mời cac linh mục, tu sĩ người châu Á, châu Phi sang làm việc giúp các họ đạo bên đó, nhất là các dòng tu. Dòng Phaolô thành Chartres tỉnh Đà nẵng, Sài-gòn, Dòng Đức Bà, Dòng Don Bosco, Dòng Trợ thế thánh Gio-an Thiên Chúa đã gửi các tu sĩ của mình sang làm việc tại những nới ấy.

Còn đối với giáo dân thì sao. Xưa nay, người ta vẫn nghĩ truyền giáo là việc của các linh mục, tu sĩ. Nhưng thực ra không phải thế. Sắc lệnh Ad Gentes cho chúng ta một cái nhìn khác, đặc biệt chú trọng và đề cao vai trò của giáo dân trong công việc truyền giáo. Có thể nói chính vì giáo dân, vì vai trò của họ mà Công đồng ra sắc lệnh này, để cổ võ và hướng dẫn giáo dân làm việc truyền giáo. Muốn hiểu để xác tín điều này, cần phải đọc toàn bộ sắc lệnh. Trước đây có thể chúng ta không biết vì chưa nghe nói đến, dù từ năm 1970 đã có bản dịch bằng tiếng Việt Nam của Giao hoàng học viện Đà lạt, nhưng thường ít người đọc. Nói chung người Việt Nam ít đọc sách báo, người công giáo cũng it đọc sách báo đạo. Đây cũng là một điều bất lợi cho nền văn hóa công giào ở nước ta, vì sách báo làm ra chủng mấy ai chịu mua và đọc nên ít người viết và cũng không thấy có hứng thú để viết. Vậy để giúp cho dễ đọc sấc lệnh này, tôi xin phân chia các phần đoạn như sau.

2. Trình bày sắc lệnh

Lời mở đầu

Trước khi vào chương I, sắc lệnh có mấy lời mở đầu nói đến vai trò của Hội thánh. Hội thánh được sai đến với các dân ngoại làm dấu chỉ phổ quát về ơn cứu độ. Do những đòi hỏi về tính công giáo (phổ quát) của mình và vì phải tuân theo lệnh truyền của Đấng sáng lập, nên Hội thánh có bổn phận phải rao giảng Tin Mừng cho mọi người và thành lập cộng đồng tín hữu ở kháp nơi, noi gương các Tông đồ để lại, sao cho Lời Chúa được phổ biến và tôn vinh (2Tx 3,1). Nhằm mục đích này, Hội thánh phác họa những đường nét chính yếu về hoạt động truyền giáo và tập hợp sức mạnh của giáo dân dể cùng nhau bước qua cửa hẹp thập giá, hầu mở rộng bờ cõi Nước Thiên Chúa, cho đến ngày mọi sự được hoàn thành viên mãn trong Chúa Ki-tô.

Chương I : Các nguyên tắc mang tính giáo thuyết

2.1 Ý định của Chúa Cha (số 2)

Do bản chất, Hội thánh mang tính truyền giáo trong cuộc hành hương trên cõi đời này. Tính chất đó bắt nguồn từ sứ mệnh của Chúa Con và Chúa Thánh Thần theo ý định của Chúa Cha. Vì yêu thương loài người. Chúa Cha muốn cho mọi người được tham dự vào đời sống thần linh của Người không phải cách riêng rẽ, nhưng cách tập thể. Vì vậy Người kêu gọi tất cả những ai tản lạc về qui tụ thành một dân dưới sự che chở của Người (x. Ga 11,52)

2.2 Sứ mệnh của Chúa Con (số 3)

2.3 Ý định cứu độ loài người của Chúa Cha không diễn ra cách kín đáo trong tâm tưởng của con người, nhưng cụ thể nơi Chúa Con. Chính vì thế, Chúa Con đã được sai xuống trần gian, bước vào lịch sử của loài người một cách dứt khoát, mới mẻ, để lôi kéo họ ra khỏi chốn tối tăm và khỏi quyền lực của Xa-tan (x Cl 1,13 : Cv 10,38) và hòa giải họ với Chúa Cha (x. 2 Cr 5,19). Đúng là “Con Người đến để tìm và cứu những gì dã mất” (Lc 19,10) Trong số này, vai trò của Chúa Con xuống thế làm người được mô tả rất đầy đủ và cô đọng.

2.4 Sứ mệnh của Chúa Thánh Thần (số 4)

Để hoàn thành sứ mệnh nói trên, Chúa Giê-su đã sai Thánh Thần từ Chúa Cha đến thực hiện ơn cứu độ trong tâm hồn các tín hữu, và thúc đẩy Hội thánh hoạt động cho lan rộng khắp nơi. Chúa Thánh Thần đã hoạt động trước khi Chúa Ki-tô được vinh hiển. Tuy vậy, ngày Ngũ Tuần, Người cũng đã ngự xuống trên các Tông đồ để ở với các ông luôn mãi (x. Ga 14,16). Hội thánh được thành lập và xuất hiện công khai trước mặt mọi người, Tin Mừng được rao giảng cho muôn dân. Cả số này kê khai hoạt động rất phong phú và hữu hiệu của Chúa Thánh Thần trên toàn Hội thánh xưa cũng như nay và mãi cho đến tận thế.

2.5 Hội thánh được Chúa Giê-su sai đi (số 5)

Ngay từ đầu cuộc đời công khai truyền đạo, Chúa Giê-su đã “gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai để các ông ở với Người. Và Người sai các ông đi rao giảng” (Mc 3,13; x. Mt 10,1-42)

Như vậy, các Tông đồ là mầm mống của Ít-ra-en mới, và đồng thời cũng là nguồn gốc phẩm trật trong Hội thánh. Rồi sau khi từ cõi chết trỗi dậy, khải hoàn vinh hiển, hoàn thành mầu nhiệm cứu độ và phục hồi thế giới, với đầy đủ quyền hành trên trời dưới đất (x. Mt 28,18), trước khi về Trời (x. Cv 1,11), Chúa Giê-su đã thành lập Hội thánh làm dấu chỉ ơn cứu độ. Người đã sai các môn đệ đi khắp thế gian và truyền lệnh cho các ông : “Vậy anh em hay đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19tt); “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ, còn ai không tin thì sẽ bị kết án.” (Mc 16,15tt)

Từ đây xuất phát nhiệm vụ của Hội thánh phải quảng bá đức tin và mang ơn cứu độ đến cho muôn người. Số này có những lời lẽ rất thấm thía về nhiệm vụ truyền giáo của Hội thánh; Hội thánh phải noi gương Chúa Giê-su trên đường truyền đạo trong tinh thần đơn sơ nghèo khó, vâng lời, phục vụ, hy sinh chịu chết như Chúa Giê-su để cuối cùng sống lại vinh hiển như Người.

2.5 Hoạt động truyền giáo (số 6)

Nhiệm vụ này phải được hoàn thành do lệnh của Hàng Giám mục mà đứng đầu là Đấng kế vị thánh Phê-rô với lời cầu nguyện và sự hợp tác của toàn thể Hội thánh. Nhiệm vụ này là một và duy nhất ở khắp nơi trong mọi hoàn cảnh, dù không diễn ra cùng một cách như nhau, do hoàn cảnh khác nhau tại mỗi địa phương. Vì thế, phải công nhận rằng những sư khác nhau đó trong hoạt động truyền giáo của Hội thánh không do chính bản chất thâm sâu của việc truyền giáo, mà do hoàn cảnh tại nơi diễn ta việc truyền giáo. Những điều kiện và hoàn cảnh này một phần tùy thuộc ở Hội thánh, một phần tuỳ thuộc ở các dân tộc, các đoàn người mà hoạt động truyền giáo hướng tới. Do đó, việc truyền giáo có thể gặp khó khăn hay thuận lợi, có thể tiến triển nhanh hay chậm, thậm chí có khi bị ngăn cản hay phá hủy nữa. Nhưng mục đích chính yếu và riêng biệt vẫn là loan báo Tin Mừng và thành lập Hội thánh nới các dân tộc và các đoàn người chưa tin vào Chúa Ki-tô. Bản văn la-tinh trong sắc lệnh dùng chữ implnntandi nghĩa là trồng : munus Evangelium praedicandi et Ecclesiam ipsam implantandi. Chữ trồng rất gợi ý. Người ta nói là trồng cây. Hội thánh được coi như một thứ cây được mang đi trồng ở nơi này nới khác. Việc trồng cây đòi phải có sự chăm sóc kỹ lưỡng, cây mới khỏi chết và lớn lên được, như phải dọn đất, làm cỏ, bón phân, tưới nước v.v… Việc “trồng” Hội thánh cũng phải diễn ra như vậy.

2.6 Lý do và sư cần thiết phải hoạt động truyền giáo (số 7)

Lý do là vì Thiên Chúa muốn như thế. Người muốn “ cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý. Thật vậy, chỉ có một Thiên Chúa, chỉ có một Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người; đó là một con người, Đức Ki-tô Giê-su, Đấng đã tự hiến làm giá chuộc mọi người” (1 Tm 2,4-6); “Ngoài Người ra, không ai đem lại ơn cứu độ.” (Cv 4,12)

Vậy, mọi người phải trở về với Chúa Giê-su. Chúa Giê-su được biết là nhờ lời rao giảng của Hội thánh và mọi người phải được sáp nhập vào Hội thánh là thân thể mầu nhiệm của Người nhờ bí tích thánh tẩy. Nhiều người không biết Tin Mừng không phải vì lỗi tại họ nên Hội thánh có bổn phận, đồng thời cũng có quyền rao giảng Tin Mừng. Vì thế, hoạt động truyền giáo của Hội thánh bây giờ cũng như xưa kia vẫn cần thiết và giữ nguyên vẹn sức mạnh.

2.7 Hoạt động truyền giáo trong đời sống và lịch sử con người (số 8)

Tin Mừng được coi như là chất men khơi lên tự do, tiến bộ, hữu nghị, hiệp nhất và hòa bình. Chúa Giê-su được phụng vụ Mùa Vọng tôn vinh là “niềm hy vọng và ơn cứu độ của muôn dân” Hoạt động truyền giáo được xếp vào thời kỳ giữa cuộc giáng lâm lần thứ nhất và thứ hai để bày tỏ chương trình cứu độ và công trình thực hiện của Thiên Chúa. Giữa hoạt động truyền giáo và bản tính con người có một mối dây liên hệ mật thiết. Khi biểu lộ Chúa Ki-tô, Hội thánh bày tỏ cho loài người qua chính việc đó, sự thật về bậc đời và ơn gọi toàn vẹn của họ. Chúa Ki-tô là nguyên lý và mô hình của nhân loại được đổi mới, tức một xã hội rộng lớn được thấm nhuần tình huynh đệ chân thành, tính hiếu hòa mà mọi người đang ngưỡng vọng. Hội thánh làm chứng cho Chúa Giê-su bằng lời rao giảng Tin Mừng. Lời rao giảng này vượt lên mọi thứ phân biệt về nòi giống hay chủng tộc. Chính Chúa Giê-su là sự thật và con đường mà lời rao giảng Tin Mừng phải tỏ cho mọi người thấy.

2.8 Tính cánh chung của hoạt động truyền giáo (số9)

Từ sau khi Chúa Giê-su về trời cho đến khi Người lại đến là thời gian của Hội thánh. Hội thánh được Chúa giao cho nhiệm vụ phải làm cho muôn dân trở thành môn đệ của Người bằng việc loan báo Tin Mừng khắp nơi (x. Mc 13,10). Hoạt động này là làm sao cho người ta thấy được ý định cứu độ của Thiên Chúa tỏ hiện và thể hiện trong lịch sử loài người. Nhờ việc rao giảng và cử hành các bí tích mà bí tích Thánh Thể là trung tâm và chóp đỉnh, hoạt động truyền giáo làm cho Chúa Giê-su, Đấng cứu độ hiện diện giữa loài người. Tất cả những gì là hay là tốt là đẹp nơi các dân tộc là như do một sự hiện diện bí mật của Thiên Chúa. Hoạt động truyền giáo đến giải gỡ con người cho khỏi cái xấu, để trả lại những điều tốt lành kia cho Chúa Giê-su, Đấng phá hủy quyền lực của ma quỉ và ngăn chặn đủ mọi thứ tội ác. Như vậy, hoạt động truyền giáo hướng về ngày cánh chung, góp phần vào việc xây dựng trời mới đất mới vào thời chu kỳ lịch sử hoàn tất, và Dân Thiên Chúa mỗi ngày một mở rộng như lời tiên báo nhiệm mầu của ngôn sứ I-sai-a : “Hãy nới rộng lều ngươi đang ổ, căng các tấm bạt ra, đừng hẹp lòng hẹp dạ. Nối dây thừng dài thêm, đóng cọc lều cho chắc.” (Is. 54,2)

CHƯƠNG II CHÍNH CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO

Dẫn nhập )số 10)

Hội thánh phải hoà nhập vào mọi nhóm người, liên kết với mọi điều kiện xã hội và văn hóa của những người mình đang chung sống. Cần đi lại tiếp xúc với người ngoài đạo, trò chuyện, sống chung, chia sẻ với họ, theo gương Chúa Giê-su, thực hành bác ái yêu thương, không phân biệt đối xứ hay kỳ thị sang hèn, giàu nghèo,

Tiết 1 Lời chứng mang chất Ki-tô (số 11)

1,1 Hiện diện giữa mọi người

Hội thánh phải hiện diện trong mọi lớp người, qua các con cái của mình sống, hay được sai tới sống trong đó. Mọi Ki-tô hữu, bất kỳ sống ở đâu, cũng phải biểu lộ một cách nào đó, con người mới mình đã mặc lấy nhờ bí tích Thánh tẩy, và ơn sức mạnh của Chúa Thánh Thần mình đã nhận được trong ngay lãnh bí tích Thêm sức, bằng gương sáng đời sống cũng như bằng lời nói của mình. Như vậy, họ sẽ lấy các việc lành mà tôn vinh Chúa Cha (x. Mt 5,16)

Muốn làm chứng cho Chúa Ki-tô cách hữu hiệu, họ phải hòa hợp với những người khác bằng tình thương và lòng trọng kính, coi mình là thành phần trong khu vục mình sinh sống, tham gia vào đời sống văn hóa xã hội nhờ những cuộc trao đổi và sinh hoạt chung. Họ không được xa lạ với những truyền thống của ông cha, vui vẻ tìm kiếm và khám phá ra những nơi, những người mà giá trị Lời Chúa có thể ẩn tàng trong đó.

Tuy nhiên, vì người thời nay quá say mê nhạy cảm với văn minh kỹ thuật và tiên nghi vật chất, dễ xa lìa những giá trị tôn giáo đạo đức nên Ki-tô hữu phải là những người làm chứng cho những giá trị bền vững của Tin Mừng và khơi gợi cho người ta hướng về niềm tin Ki-tô giáo.

1,2 Sự hiện diện của tình thương (số 12)

Sự hiện diện của các Ki-tô hữu trong xã hội loài người phải mang theo tình thương mà Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, Đấng đã muốn cho chúng ta yêu thương nhau như Người đã yêu thương chúng ta (x. 1 Ga 4,11). Tình thương Ki-tô giáo lan rộng tới hết mọi người, không phân biệt chủng tộc ngôn ngữ tôn giáo hay địa vị xã hội. Đó là một tình thương miễn phí không đòi hỏi gì cả, không tìm lợi lộc cũng không đòi phải biết ơn. Đức Ki-tô đã rảo qua các thành thị làng mạc, chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền để nói lên rằng triều đại Thiên Chúa đang đến (x. Mt 9,35; Cv 10,38). Hội thánh cũng phải noi gương Đấng lãnh đạo mình mà săn sóc những người ốm đau bệnh tật nghèo khổ, chia vui sẻ buồn với người ta, nhận ra các khát vọng và vấn đề của họ, cùng chịu đau khổ và băn khoăn lo lắng với họ trước cảnh chết chóc tang thương. Những người con của Chúa, con của Hội thánh phải hợp tác với mọi người thành tâm thiện chí để tham gia các tổ chức kinh tế xã hội, nhất là hoạt động trong phạm vi giáo dục học đường.

Nhưng Hội thánh không muốn dây mình vào các công việc cầm quyền trị nước của người trần gian. Hội thánh không đòi danh hiệu nào khác ngoài danh hiệu phục vụ bằng tình thương và các dịch vụ từ thiện để hướng người ta về ơn cứu độ.

Tiết 2 : Rao giảng Tin Mừng và tụ họp Dân Thiên Chúa

1.3 Rao giảng Tin Mừng và thay đổi đời sống (số 13)

Nơi nào được tự do rao giảng để công bố mầu nhiệm về Chúa Ki-tô (x. Cl 4,3), Hội thánh phải loan báo (x. 1 Cr 9,16; Rm 10, cho mọi người (x. Mc 16,15)14) cách mạnh dạn và kiên trì (x Cv 4,13. 29.31; 9,27.28; 13,46; 14,3; 19,8; 26,26; 28,31) Thiên Chúa hằng sống (x. 1 Tx 2,2; 2 Cr 3,12; 7,14; Pl 1,20; Ep 3,12; 6,19-20) và Đấng Người đã sai là Đức Giê-su Ki-tô để cứu độ muôn người (x. 1 Tx 1,9-10; 1 Cr 1, 18-21; Gl 1, 31; Cv 14, 15; 17, 22-31), để các người không phải là Ki-tô hữu nhờ Chúa Thánh Thần soi trí mở lòng (x. Cv 16, 14) mà tin và tự do quay đầu về cùng Thiên Chúa và trung thành gắn bó với Đấng là con đường, sư thật và sự sống (Ga 14, 6)

Hội thánh nghiêm cấm con cái mình không được dụ dỗ hay cưỡng ép ai vào đạo, đồng thời cũng cương quyết đòi quyền được tự do hành đạo không bị ai ngăn cản hay cấm cách. Đây là căn bản của chính sách tự do tôn giáo mà Hội thánh chủ trương.

1.4 Tổ chức dự tòng và khai tâm Ki-tô giáo (số 14)

Ngày xưa phải đăng ký rồi xin học đạo chừng hai năm mời được lãnh phép Thánh Tẩy. Ngày nay thời gian chuẩn bị chính thức không đến nỗi lâu dài như vậy. Thời gian chuẩn bị càng lâu càng tốt. Như vậy, những người dự tòng sẽ có cơ hội hiểu biết sâu hơn đạo họ sắp theo. Theo đạo là theo một lối sống do một niềm tin. Người dự tòng được chuẩn bị để sống theo Tin Mừng bằng một nếp sống gắn bó với Chúa Giê-su, cởi bỏ con người cũ, thực thi bác ái và sống chan hòa với những người chung quanh bằng tinh thần vui tươi, cởi mở, dấn thân, phục vụ theo gương Chúa Ki-tô. Trong thời gian dự tòng, không phải chỉ có linh mục quản xứ, các giáo lý viên có liên hệ với các ưng sinh mà cả cộng đoàn họ đạo. Làm thế nào để cho các anh ehị em dự tòng cảm thấy họ đuợc đón tiếp và thuộc về một đại gia đình những người tin theo Chúa, nhờ đấy họ được khuyến khích và nâng đỡ trong những bước đầu đời đi tìm Chúa.

Tiết 3 Huấn luyện cộng đoàn Ki-tô giáo (số 15)

3,1 Huấn luyện cộng đoàn

Cộng đoàn Ki-tô hữu là dấu hiệu về sự có mặt của Chúa trong xã hội trần gian và trên thế giới. Cộng đoàn Ki-tô hữu phải là những người ăn sâu mọc rễ trong dân chúng; họ không còn phải là những người xa lạ giữa đồng bào mình nên phải có tinh thần đoàn kết, hợp tác, không phân biệt đối xử, không tranh dành ảnh hưởng, không đố kỵ ai.. Ki-tô hữu không khác người ta, tuy vẫn sống cho Chúa. Họ phải sống theo lề thói của dân nước mình, cố trở nên những công dân tốt, yêu quê hương đất nước, không khinh chê coi thường người khác. Ki-tô hữu hiện diện trong xã hội không thôi thì chưa đủ mà còn phải loan báo Chúa Ki-tô bằng lời nói và việc làm, để giúp cho những người khác đón nhận đầy đủ Chúa Ki-tô nữa..

3,2 Thành lập hàng giáo sĩ bản quốc (16)

Hội thánh rất vui mừng khi nhận thấy tại các dân tộc bên châu Á, châu Phi có nhiều ơn gọi dâng mình cho Chúa làm tu sĩ, linh mục. Hội thánh được xây dựng và phát triển lớn mạnh là nhờ chính nhân sự bản quốc trong các xứ truyền giáo. Với hàng giáo sĩ này, Hội thánh đia phương sẽ có các giám mục, linh mục, tu sĩ để cai quản và tổ chức các sinh hoạt trên quê hương xứ sở của mình. Ngoài ra, tại những nơi này cũng có thể phục hồi truyền thống phó tế vĩnh viễn. Các phó tế sẽ đuợc tuyển chọn và huấn luyện để làm trợ tá cho các linh mục trong việc rao giảng Tin Mừng

3.3 Huấn luyện các giáo lý viên (số 17)

Ngày nay, ơn gọi giảm sút, nhất là tại các nước Au Mỹ, nên vai trò của giáo lý viên lại càng cần thiết. Vậy phải kêu gọi và cổ võ cho có nhiều giáo dân nam nữ tham gia tổ chức này. Họ cần được huấn luyện và khuyến khích tiếp tay cho các linh mục để giảng dạy giáo lý và giúp những người khác hiểu biết thêm về đạo. Muốn thế, họ cần được huấn luyện về giáo lý, Kinh thánh, phụng vụ. Các người có trách nhiệm phải lo cho họ có nơi, có lớp để được đào luyện về phương diện này. Đàng khác họ cũng cần được trả thù lao cho công việc họ làm. Những ai làm việc toàn thời giờ cho giáo lý cần được trả lương cân xứng.

3.4 Cổ võ đời sống tu trì (số 18)

Trong thời kỳ “gieo trồng” (thành lập) Hội thánh, phải lưu tâm gây dựng đời sống tu trì. Các tu sĩ sẽ giúp ích rất nhiều cho công cuộc truyền giáo vì lòng tân tâm và chí hướng tông đồ của họ. Với truyền thống phong phú lâu đời của mình, các dòng tu làm việc tại các xứ truyền giáo có thể đóng góp kinh nghiệm, sức sống cho các Hội thánh trẻ. Tuy vậy, các dòng hay tu hội cũng cần tìm cách hội nhập khôn khéo vào đời sống văn hóa và xã hội nơi mình đang sống, sao cho khỏi trở nên xa lạ và lạc lõng giữa nơi mình phải đem ánh sáng Tin Mừng tới. Vì vậy, phải cố biểu lộ và diễn tả các giá trị Tin Mừng theo tinh thần và đặc tính của từng dân tộc. Nơi nào đã có nhiều tu hội cùng theo đuổi một mục đích, các giám mục và Hội Đồng Giám Mục ở những nới đó không nên cho thành lập thêm nữa, kẻo có hại cho đời sống tu trì và công việc tông đồ. Tuy vậy, cũng rất nên khuyến khích thiết lập đời sống đan tu và chiêm niệm, vì đó là những nơi tiếp vận sức sống thiêng liêng.

(Còn tiếp...)