LTS: Trong chương trình phát thanh của Liên Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ vào tối hôm qua 26-3-2004, xướng ngôn viên Kim Thúy đã phỏng vấn LM Trần Công Nghị về đường hướng Hội Nhập Văn Hóa và Truyền Giáo của các Đức Giám Mục Á Châu, đặc biệt là chiều hướng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam liên quan tới những điểm them chốt nêu trên. Sau đây là nội dung bài phỏng vấn:

Kim Thúy: Xin chào Cha Trần Công Nghị, trước hết, xin cha cho biết qua về tông thư “Giáo Hội tại Á châu” hình thành ra sao? Thưa Cha

Cha Nghị: Dù châu Á là nơi khai sinh của Ðức Giêsu và cũng là nơi Ðức Giêsu lập Giáo Hội, số tín hữu Công giáo hiện nay cũng chỉ đạt được hơn 100 triệu trong số 4000 triệu người trong suốt 2000 năm truyền giảng Tin Mừng. Có người đã nói đến sự thất bại, có kẻ nói đến sự bất lực của các môn đệ Ðức Giêsu và tính kém hiệu quả của Tin Mừng. Chính vì thế mà từ lâu các Giáo Hội tại Châu Á luôn luôn coi việc truyền giáo là một thách đố trong sinh hoạt của Giáo Hội. Do đó để dọn đường cho các Giáo Hội tiến vào ngàn năm thứ ba, được coi như thiên niên kỷ của người Á châu, thì trong thập niên 1990, các Hội Đồng Giám Mục Á châu đã có nhiều cuộc trao đổi và tham luận về sống đức tin và loan truyền đức tin đó tại lục địa rộng lớn này. Và để đúc kết các cuộc nghiên cứu và kinh nghiệm với nhau thì vào năm 1998 đã có cuộc Họp Thượng Đỉnh các Giám Mục Á châu tại Vatican đề hoàn thành tài liệu, mà sau này chính Đức Thánh Cha đã công bố tông thư “Giáo Hội tại Á châu” trong dịp ngài sang thăm Ấn Đố mấy năm trước đây. Đây là một tài liệu có tính cách mạng với cái nhìn mới mẻ về thần học, tôn giáo, và truyền giáo của Giáo Hội Công Giáo. Có thể nói những ý kiến của các Giám Mục Á châu, lần đầu tiên nói lên với tính xác quyết và và không dè dặt chi hết cả.

Kim Thúy: Nhìn tổng quan, thì đâu là những điểm chính của tông thư này?

Cha Nghị: Xác định và làm nổi bật ý nghĩa trước tiên Đức Giêsu là người Á châu, nhấn mạnh tính cách phong phú và thâm sâu của các tôn giáo lớn cũng phát xuất từ Á châu, Kinh nghiệm sống đạo của Á châu trầm lặngm nhưng sâu sắc, thiên về chiêm niệm, sống tình cảm và không nặng lý thuyết, bao dung mà không cố chấp, v.v… Nhưng trên hết tài liệu này nhấn mạnh đến truyền thống văn hóa lâu đời của Á châu và đạt trọng tâm vào nội dung của từ "văn hoá và hội nhập văn hoá trong việc loan báo tin mừng cứu độ". Thực tế và các thách đố của Giáo hội tại châu Á và tại Việt Nam về vấn đề HNVH. Thêm vào đó, tài liệu nói tới vai trò quan trọng của đối thoại Liên Tôn. Và cuối cùng giáo hội phải chú ý tới người nghèo mà họ là thành phần đa số tại lục địa này.

Kim Thúy: Tông thư này đặt nặng vấn đề truyền thống văn hóa của người Á châu ra sao, trong bối cảnh Thiên Chúa Giáo?

Cha Nghị: Ðể cho việc loan báo có hiệu quả hơn, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói đến văn hoá và việc hội nhập văn hoá trong toàn bộ chương IV của Tông huấn. Ngài nhắc đến từ văn hoá 129 lần và từ hội nhập văn hoá 21. Ðiều đó cho ta thấy ÐTC quan tâm đến văn hoá và sự hội nhập văn hoá (HNVH) như thế nào trong tông huấn này. Thật vậy, một trong những nguyên nhân chính yếu khiến Tin Mừng chưa thể phổ biến rộng rãi cho các dân tộc châu Á đó là những người rao giảng Tin Mừng đã không để ý nhiều đến nền văn hoá của mỗi dân tộc, biến Kitô giáo thành một thứ xa lạ với đời sống thường ngày của con người. Vì thế, Ðức Thánh Cha giới thiệu giải pháp cần thiết là phải làm sao cho đức tin Kitô Giáo hội nhập vào văn hoá và mọi sinh hoạt của con người trong xã hội. Hội nhập văn hoá là công việc khẩn thiết cho mọi thành phần Giáo hội ở châu Á hiện nay.

Kim Thúy: Thưa Cha, các tôn giáo lớn đa sô là phát sinh từ Á châu, Giáo Hội có cái nhìn như thế nào về các tôn giáo trong việc truyền giáo của Giáo Hội?

Cha Nghị: Giáo hội tại châu Á sống trong một bối cảnh có quá nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. Các tôn giáo này lại giới thiệu các thần linh của mình như là Ðấng cứu độ, do đó thật khó khăn khi người Kitô hữu rao giảng Ðức Giêsu Kitô như là Ðấng Cứu Ðộ duy nhất, vì rao giảng như thế có nguy cơ xúc phạm đến nền văn hoá và tôn giáo của các dân tộc. Hơn nữa, trong cách rao giảng và sống đạo, các nhà truyền giáo cũng như các tín hữu Á Châu không biết đã trình bày Ðức Giêsu thế nào khiến cho người ta lầm tưởng là Ngài là một người Tây phương hơn Ðông phương. Ðằng khác, có thể vì những nhà truyền giáo thiếu hiểu biết về nền văn hoá tôn giáo địa phương của châu Á, chưa giới thiệu Ðức Giêsu cho người châu Á theo những hình thức văn hoá và cách tư duy của người Á Châu. Phải có cái nhìn mới về thần học, nhất là môn Kitô học, phụng vu, Kinh Thánh và việc đào tạo các người rao giảng Tin Mừng. Môn Kitô học chưa trình bày Ðức Giêsu như một người đang sống rất gần gũi với con người, nhất là người châu Á, chứ không phải chỉ là một mớ những tri thức rời rạc, những dữ liệu vô hồn để minh chứng về một con người lịch sử. Ngoài ra sự học hỏi về các tôn giáo khác và đối thoại liên tôn là tiến trình cần thiết cho việc biến đổi con người.

Kim Thúy: Giáo Hội Việt Nam đang mừng kỉ niệm 400 năm truyền giáo, vậy các Đức giám mục Việt Nam, nhấn mạnh đến những vấn đề gì, và mong ước gì? Thưa Cha?

Cha Nghị: Các Đức Giám Mục Việt Nam quan tâm tới nhiều vấn đề và có rất nhiều mong ước, truy nhiên tôi xin chỉ được nêu lên một vài điểm chính sau đây, đó là: Các Đức Giám Mục nhấn mãnh đế những thành quả của tiền nhân, và kinh nghiệm sống đức tin kiên cường của các thánh tử đạo VN. Tuy nhiên các ngài cũng nhận rõ là Bối cảnh Việt Nam hiện nay đầy biến động. Những bất ổn do hậu quả chiến tranh gây nên là yếu tố nổi bật. Thế hệ hậu chiến tranh - chiếm 80% dân số - mang nặng một não trạng kế thừa của gia đình đã trải qua thời chiến, cộng với những thèm khát được bù trừ trong hiện tại. Hiện tại hậu chiến tranh nầy lại đang ở thời kỳ mở cửa về mặt kinh tế, nên chịu ảnh hưởng vô số những yếu tố có tính cách phá hoại nếp sống gia đình và đời sống đức tin. VÀ sau biến cố năm 1975, Nhà Nước Việt Nam đã đưa ra những giới hạn đối với sinh hoạt tôn giáo: hoạt động các hội đoàn, việc huấn giáo, thậm chí công tác mục vụ của các vị chủ chăn mọi cấp; các phương tiện truyền thông xã hội để trở thành độc quyền của Nhà Nước; các cơ sở giáo dục, y tế, v.v... trước đây của Giáo Hội không còn nữa, khiến việc loan báo Tin Mừng như mất hết các phương tiện vật chất.

Kim Thúy: Truyền giáo trong thế giới ngày nay, đặc biệt trong hoàn cảnh chính trị, và kinh tế của Việt Nam, thì theo Cha, Giáo Hội cần chú trọng tới những gì?

Cha Nghị: Tông thư của Đức Thánh Cha cũng như của Hội Đồng Giám mục Việt Nam nhắc đến người nghèo là ưu tiên số một cho việc phục vụ, và điểm thứ hai là huấn luyện và đào tạo giáo dân và nữ tu cho công việc truyền giáo mới hiện nay.

Kim Thúy: Chúng con xin cám ơn cha đã dành cho chúng con cuộc phỏng vấn rất hữu ích để thấy được tầm nhìn xa và những thao thức của Giáo Hội Việt Nam trong thiên niên kỉ mới.