Vào năm 1959 khi đúng 33 tuổi thì John Main xin gia nhập Dòng tu Biển đức ở Luân đôn. John đã giải quyết được bài toán khó khăn là nên ở đời cưới vợ có con hay trở thành một tu sĩ dòng kín.

Trước khi lựa chọn John đã có một cuộc sống thật vững vàng, trước tiên là quân nhân, đến luật sư, rồi dến công chức ở Bộ thuộc địa làm việc ở Mã lai á. Cuối cùng John cảm nhận được ơn gọi để sống một cuộc đời cầu nguyện và tận hiến lên Thiên Chúa. Trở thành một tu sĩ với một ơn gọi đặc biệt trong chiều hướng suy tư và chiêm niệm đáp ứng nhu cầu của thời đại.

Sau 15 năm làm tu sĩ, phần lớn thời gian làm giáo sư trong các trường học của nhà dòng Biển dức ở Luân đôn và Washington DC, John luôn ước ao và khao khát tìm một lối suy tư chiêm niệm thích hợp với thời đại mà John tin tuởng và xác tín rằng con người ngày nay đang bơ vơ lạc lỏng trong đời sống tinh thần và đạo đức vì không biết cầu nguyện.Nhưng cầu nguyện như thế nào và dưới hình thức nào cho thích hợp với nhu cầu của thời đại.

John nhớ lại lúc ở Mã lai á, các người tu sĩ Ấn giáo đã lập lại liên tục một câu phù chú gọi là mantra rất thông dụng ở Đông phương khác với lời cầu kinh rất dong dài và ngôn từ thật hay ho bóng bẩy trong các sách kinh sách của người Công giáo. John trở về với nguồn gốc cầu nguyện của các giáo phụ ẩn tu trong sa mạc và tìm thấy ở John Cassian lối cầu nguyện hết sức đơn giản mà có hiệu lực. Cassian khuyến khích nên lập đi lập lại một câu rất thánh mà ngắn. Khi đọc liên tục như vậy thì đầu óc trở nên trống rổng, không suy nghĩ mong lung, hoàn toàn chìm đắm trong nhiệm mầu thần thánh. Cassian khuyên hãy đọc như lời cầu Maranatha “Lạy Chúa Giêsu xin hãy đến!” và John đã áp dụng lối cầu nguyện ấy cho chính cá nhân mình.

Vào năm 1975 John tổ chức những nhóm cầu nguyện tại tu viện Ealing thực hành lối cầu nguyện mới mẽ này. Sau này John giải thích: “Cầu nguyện là sống ra ngoài con nguời chật hẹp của chính mình. Qua cách cầu nguyện đó thì con người có thể vượt ra ngòai tâm thức của chính mình mà đi vào trong cỏi hoàn toàn yên tĩnh mà Chúa Giêsu đang sống và đang cùng chúng ta cầu nguyện.”

Nhiều giáo dân đã hưởng ứng và cho rằng lối cầu nguyện đơn giản ấy rất thích hợp với họ. Đìều này giúp cho John phổ biến các phương thức cầu nguyện này với mọi người cho đời sống thiêng liêng.

Năm 1977, được Đức Giám mục Montreal cung cấp phương tiện và khuyến khích, John truyền bá lối cầu nguyện này như là một thí điểm cho những viển kiến của mình. Tu viện Biển đức ở Montreal trở thành nơi hành hương cho mọi người. Dần dần ảnh hưởng lan rộng, những nhóm cầu nguyện được thành lập linh ứng bởi những bài viết của Main. Nhiều người dã cho biết là cuộc đời họ đã thay đổi đến chiều hướng tốt và đưa họ đến niềm tin vững chắc bằng cách mỗi ngày ngồi xuống tham thiền nửa giờ khi cầu nguyện theo phương cách của John.John nói, khi cầu nguyện như vậy chúng ta mở lòng ra để yêu thương vì Chúa là Tình Yêu. Người Kitô hữu phải là người sống với niềm tin của mình và yêu mến điều mình tin.

Đến năm 1982 thì Main bị bệnh ung thư trầm trọng nhưng Main đã can đảm chịu đựng nhựng cơn dau kinh khủng và vẫn tiếp tục viết và đi diển thuyết. Trong bài viết cuối cùng Main đã nói về “hành trình đời sống nội tâm”.

“Đời sống nội tâm là một hành trình đi tìm kiếm sự kết hợp. Trước tiên là kết hiệp với chính mình. Rồi sự sung mãn sẽ vượt ra khỏi cá nhận, tiến đến kết hợp với tha nhân. Nhờ kết hợp với tha nhân, tâm hồn chúng ta sẽ mở rộng tiến đến mầu nhiệm yêu thương, sau cùng là kết hiệp cùng Thiên Chúa vì Chúa hiện hữu khắp mọi nơi và mọi lúc.”

Main qua đời vào ngày 30 tháng 12 năm 1982.