Tôi Thấy Và Nghĩ Gì Khi Về Thăm Ðất Nước?

Con cò lại bay trên đồng ruộng xanh

Tre già bảo nhau cúi đầu trầm ngâm

Cùng mùi khói lam quen thuộc
...


(Khi Tôi Về, thơ Kim Tuấn, nhạc Phạm Duy)

Hà Nội, ngày đầu hạnh ngộ…

Buổi sáng ra phi trường TSN. Lên máy bay của Pacific Airline. Có lẽ tại trời nóng, chiếc máy bay nồng nực mùi mồ hôi chăng? Không phải chỉ lúc vừa bước lên, mà khi máy bay đã cất cánh, máy lạnh đã chạy mát, cái mùi khó chịu vẫn còn, tới nỗi tôi có cảm tưởng như đang ngồi trong một chiếc …tàu đánh cá! Chuyến bay chỉ có hơn 1 giờ đồng hồ, mà khách có thể chọn ăn trưa là cơm bò, hoặc phở xào thịt bò. Ăn khá được. Thế là hơn những chuyến bay ngắn ở Mỹ rồi, khi mỗi người chỉ được 1 bịch đậu phộng hay pretzels!

Xuống tới phi trường Nội Bài, không khí ở đây nhẹ nhàng hơn ở TSN, có lẽ tại trời lạnh. Nhìn chung quanh ai cũng mặc áo khoác dầy, trông khắc hẳn không khí Sàigòn. Có xe đón chúng tôi về khách sạn Hanoi Horison Hotel. Xe đi trên con đường vắt ngang sông Hồng, nhìn xuống sông thấy nước có mầu hồng nâu thật. Con đường khá rộng và ít xe cộ, có cây lớn trồng hai bên, đi qua khu ruộng nương hoặc vài khu phố nhỏ. Nghe nói trước đây nó là con đê chính ngăn nước sông Hồng, bây giờ được xây lại kiên cố hơn, nhưng hằng năm nước sông vẫn dâng ngập trọn một tầng nhà. Tôi có cảm giác hơi xa lạ, chắc chắn vì là lần đầu ra miền Bắc, nhưng có lẽ cũng vì khung cảnh nơi đây vắng lặng so với Saigòn tôi vừa rời chân sáng nay.

Xe thả chúng tôi xuống Hanoi Horison Hotel. Ðây là một hotel 5 sao của một công ty Thụy Sĩ, tất cả đều rộng rãi, sang trọng. Nhân viên lịch sự nhưng không vui vẻ như ở Grand Hotel bên Sàigòn. Những gia đình đi tour chung với chúng tôi sẽ đến rai rai cho tới nửa khuya. Cậu em út của tôi đã từ Mỹ về Saigòn sau chúng tôi gần 1 tuần, và cũng có mặt trong chuyến đi tour này. Buổi chiều, thuê taxi ra Hồ Hoàn Kiếm, đi một lúc thì ghé vào phố cổ. Thì ra Hà Nội 36 Băm Sáu Phố Phường chíng là đây! Chúng tôi chỉ rảo sơ một vòng cho biết, vi ngày mai nhóm đi tour cũng sẽ ra đây. Chiều nay có bóng đá nên các quán càphê chật ních người, ai cũng chăm chú dán mắt vào màn ảnh lớn và thỉnh thoảng reo hò ầm ĩ. Trong khi Sàigòn trông rất hỗn tạp với cà phê vỉa hè, gánh hàng rong, những tấm nylon trải trên lề đường bán hàng hoá này nọ, trẻ con bán vé số, hoặc người ăn xin.. . thì mấy khu phố này của Hà Nội lại rất trật tự, ngăn nắp; các cửa hàng nhỏ nhưng đẹp mắt nằm sát nhau, chen lẫn với những quán cà phê đông người nhưng bàn ghế kê rất trật tự và người ta ngồi xem bóng đá trong tư thế khá nghiêm chỉnh. Xe Honda đậu kín lề đường nhưng cũng gọn gàng theo hàng lối hẳn hoi. Thỉnh thoảng cũng có những quán vỉa hè, số thực khách ngồi ăn khá đông, nhưng hình như cũng vẫn …trật tự hơn Sàigòn. Hay là cái nhìn của tôi bị lệch lạc mất rồi? Thấy có người bán hạt dẻ rang, tôi ngừng lại mua một cân, và chúng tôi thả bộ lại phía hồ. Trời hơi lanh, vừa đi quanh bờ hồ, vừa bóc hạt dẻ rang nóng hổi, ăn rất thơm và bùi… Tuyệt vời!

Chúng tôi kêu 3 chiếc xích lô đạp đi tiếp một đoạn bờ hồ, ba anh phu xích lô tuổi trung niên vui vẻ mời chúng tôi lên xe. Ơ, kỳ ghê ta, cả những chiếc xích lô của hà Nội cũng mới hơn, ghế nệm bọc da sạch sẽ hơn, và nhất là rộng gần gấp đôi những chiếc xích lô đạp trong Sàigòn. Ba anh đạp xe thật khoẻ và thật nhanh nên chỉ một thoáng là hết cuốc xe. Con tôi lấy làm khoái chí vì lần lần tiên được ngồi xe như vậy. Sau đó chúng tôi kêu taxi về lại khách sạn để đi ăn bữa tối đầu tiên của chường trình đi tour.

Tới nhà hàng Nam Hoa ở đường Hai Bà Trưng, chúng tôi phải đi qua cổng, vào cửa tiệm hơi khuất bên trong, rồi lên phòng dành riêng cho nhóm ở trên lầu. Các cô tiếp viên đứng chào và tiếp khách đều mặc áo dài, rất lịch sự và vui vẻ. Nhà hàng ngăn nắp, trang trí rất nghệ thuật… Bữa ăn được đặt sẵn với rất nhiều món mà bây giờ tôi chỉ nhớ những món gọi theo tiếng Bắc như thịt lợn kho, cá rán, và chả nem hay nem rán gì đó, tức là chả giò… Tất cả đều được dọn lên rất lịch sự, các cô tiếp viên còn đứng xúc vào bát cho các thực khách nữa. Ðúng là kiểu Bắc Kỳ cổ điển. Con tôi nhớ mãi chuyện kêu nước uống mà đợi hoài không thấy. Ai kêu gì cũng đều được các cô đem đến, mà thằng nhỏ kêu ‘Coke' thì chờ hoài chẳng thấy ai đem ra. Tôi lại phải dặn cô tiếp viên nhớ mang Coke ra cho cháu. Vẫn chẳng thấy Coke đâu, tôi bèn hỏi cô lần nữa sao không thấy đem Coke ra, thì cô chỉ vào cái ly không trên bàn và bảo: “Cháu đã đem cho em cái …cốc này từ nãy đến giờ rồi ạ!.” Nghe thế cả bàn nháy nhau cười khúc khích, và tôi cũng chợt nhớ ra ngày xưa gia đình tôi cũng từng gọi cái ly là cái cốc theo kiểu người Bắc. À, thì ra mình phải nói là Cô-Ca thì người Bắc mới không nhầm với cái cốc. Thế là con tôi lại học thêm được một chữ VN mới bằng cách nhớ câu “cái cốc để uống Cô Ca”, còn chữ “bẩy úp” tức 7-up thì chúng học ở đâu trong Saigòn thì phải. Bây giờ chúng cứ nhắc lại những chữ này và cười khúc khích với nhau.

Một vòng quanh Hà Nội

Hôm nay dành cho việc thăm một vài nơi của Hà Nội. Sau khi ăn sáng tại khách sạn, mọi người tề tựu ở lobby. Một số đã gặp nhau hôm trước, và những người đến khuya cũng được giới thiệu luôn. Tất cả có 3 nhóm từ Montreal, 2 nhóm từ Mỹ. Mỗi nhóm là một gia đình, hoặc anh chị em tổ chức đi chung, với người travel agent cũng từ Montreal đi tháp tùng theo đoàn khách của bà, tổng cộng là 24 người, đầy đủ các lứa tuổi già, trung niên, trẻ và trẻ con… coi như ai cũng có bạn để trao đổi suốt chuyến đi. Ngoài ra còn thêm tài xế và hướng dẫn viên. Vì có một cặp vợ chồng người Canadian và đám trẻ con không rành tiếng Việt, nên người hướng dẫn viên phải nói cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh.

Trước hết là đi Chùa Một Cột. Xe đi qua phố phường Hà Nội nhưng chúng tôi chưa định hướng nổi mình đang ở đâu. Có 2 gia đình muốn xe đi ngang căn phố cũ của gia đình họ, là nơi mà họ đã sinh ra và lớn lên trước năm 1954. Mọi người trên xe cùng reo lên mỗi khi có người nhận ra căn phố mang địa chỉ đang được tìm. Các ngôi nhà này được xây theo kiểu Tây rất đẹp, và bây giờ đã trở thành nơi làm việc hoặc cơ sở thương mại. “Chủ cũ” đó nói sơ về kiến trúc phía bên trong cũng như những kỷ niệm thời thơ ấu. Không khí trên xe càng trở nên thân mật. Tới Chùa Một Cột, một số người lên thắp hương khấn vái, số còn lại lo chụp hình. Cũng không có gì đặc biệt ngoại trừ vẻ cổ kính và hồ nước quanh cột chùa đầy ngập sen. Cột chuà được làm lại và dĩ nhiên không phải bằng loại gỗ quí ngày xưa nên trông có vẻ hơi giả tạo.

Sau đó chúng tôi qua bên Quãng Trường Ba Ðình, thực sự thì tôi mù tịt về Hà Nội và chẳng biết một tí gì về Quãng Trường Ba Ðình cả, nhưng đến và biết rồi thì …thôi không kể đoạn này nữa.

Kế tiếp là đi xem Văn Miếu… Tôi nhớ có tượng của Khổng Tử, và tượng của công thần Chu Văn An. Những bia đá khắc tên những người đậu Tiến Sĩ mấy trăm năm về trước nay đã mòn gần hết chữ. Dưới chân mỗi bia đá thì có tượng con ruà, và được biết rùa tượng trưng cho điều tốt lành. Vào một ngôi nhà rộng ở phiá trong, chúng tôi được thấy và nghe các cô gái Bắc trong áo tứ thân ngũ sắc và nón quai thao, hát các điệu dân ca miền Bắc rất hay. Hát xong các cô trao nón quai thao cho những khán giả ngồi hàng đầu, trong đó có tôi. Thế là tôi được đội nón quai thao và được mời đứng chung với các nghệ sĩ này trên sân khấu cho người khác chụp hình.

Ra khỏi Văn Miếu, nhóm đi ăn Chả Cá Lã Vọng, là tiệm đầu tiên bán món này cách nay cả trăm măm, nằm trên con đường cũng có tên là đường Chả Cá. Món này khi tôi ăn ở Mỹ thì cá được để trên chảo điện và rưới mỡ sôi vào, nhưng ở đây người ta đem ra những cái lò bằng đất sét trong có than rực đỏ, và đặt lên trên một cái vỉ có những miếng cà vàng ngậy trong mỡ nóng, phát ra những tiếng xèo xèo. Những tô bún tươi và rất nhiều thì là, hành lá được đem tới cho chúng tôi tự bỏ vào chảo và phải đảo cho khéo để rau chín mà cá không bị nát, xong lấy ra bỏ lên bún tươi, chan mắm tôm vào và ăn.

Ăn xong, xe đi một vòng phố cổ Hà Nội. Các phố hàng Gai, hàng Bạc, hàng Ðào… Một bác trong nhóm hỏi: “Hàng Ðào bán cái gì vậy ta? Bán hoa đào, hay trái đào nhỉ?” Một bác trai khác cướp lời anh tour guide: “Không đâu, hàng Ðào ngày xưa bán …ả đào đấy bác ạ". Mọi người cười ồ. Sau đó anh tour guide mới trả lời là phố hàng Ðào là phố bán hoa quả. Và phố Khâm Thiên mới đúng là nơi trước đây có các ả đào hát cho khách thưởng ngoạn đến mua vui.

Tới Hoả Lò hay người Mỹ còn gọi là Hanoi Hilton, tức nhà giam của người Pháp xây khi xưa ở ngay làng Hoả Lò là làng chuyên làm nghề lò rèn, đúc sắt… Chứ không phải vì nhà giam này …nóng như cái hoả lò mà tôi vẫn hiểu lầm từ trước tới giờ. Nhà giam này trước dùng để giam những anh hùng VN chống Pháp và bị bắt, sau này giam những phi công Mỹ bị bắn rớt. Một cô nhân viên ở đây đưa chúng tôi đi xem các nơi và giải thích cặn kẽ. Có mấy điều làm tôi rùng mình, là lời kể về sự tra tấn các nữ phạm nhân, hình ảnh phòng giam các gia đình có cả trẻ nít, và cái máy chém. Có một cái máy chém chỉ là mô hình rập theo, cùng cỡ và y hệt cái máy thật ngày xưa, và cái máy thật cũng vẫn còn đó, làm tôi nghĩ đến những anh hùng chống Pháp đã kê cổ bên dưới cái lưỡi chém của nó… Ðau lòng thay!

Nhóm rời Hoả Lò và tới Hồ Hoàn Kiếm, đi bộ qua cầu Thê Húc và vào thăm đền Ngọc Sơn. Tôi cũng hiểu lầm từ trước đến giờ là Thần Rùa trả lại kiếm cho ông vua nào đó. Thật ra là vua Lê Thái Tổ có được một cây kiếm quí, bằng cách nào thì tôi không rõ, và đã nhờ cây kiếm này mà thắng được quân Tàu. Một hôm vua đi thuyền trên Hồ thì có con rùa ngoi lên há miệng chờ, vua đưa cây kiếm ra thì nó ngậm lấy và lặn mất. Hồ Hoàn Kiếm ở ngoài hay chụp hình trông đều rất đẹp, mang vẻ cổ kính và thơ mộng.

Buổi tối chúng tôi trở lại tiệm Nam Hoa để ăn tối, có lẽ vì tối qua có nhiều người đến khuya nên chưa được biết tiệm này. Chắc vì là tối thứ Bảy nên có các cô mặc áo tứ thân đi đến từng bàn hát dân ca miền Bắc và chơi các nhạc cụ cổ truyền đơn giản nhưng rất hay. Các cô để những đĩa CD trên bàn để mời chúng tôi mua, và đặc biệt để trước mặt mỗi thực khách một cành hoa hồng. Chúng tôi đã mua nhiều CD nhạc cổ truyền ở Văn Miếu sáng nay nên không mua nữa, nhưng những phải làm gì để đáp lại việc các cô tặng hoa cho mình đây ? Anh trưởng đoàn cầm cành hồng lên khiến mọi người hồi hộp theo dõi xem anh sắp làm gì thì làm theo. Anh móc túi lấy la một tờ bạc, quấn chung quanh cành hồng, rồi đưa lại cho các cô. À, thì ra là thế! Tất cả chúng tôi đều bắt chước làm theo và các cô cám ơn chúng tôi với những nụ cười thật tươi. Phải công nhận người Việt Nam mình sao tế nhị quá!

Sau đó chúng tôi phải vội vã lên xe tới nhà hát lớn để kịp vào xem Múa Rối Nước. Vé được mua chung cho cả nhóm, và giá mỗi vé có chừng mấy dollars, tôi không nhớ rõ, nhưng phải nói là rất rẻ. Trước đây nghe nói tới show này, tôi chỉ biết đó là một nghệ thuật đặc biệt, nhiều công phu… Nhưng khi được xem mới thấy là mình có được những giây phút thật thoải mái và giá trị!

Coi như xong một ngày, chúng tôi được săn sóc hết sức kỹ lưỡng và rất hài lòng với ngày đầu tiên trong chuyến tour. Bây giờ chỉ còn về khách sạn ngả lưng thôi… À chưa hết, một số người còn cần đi bộ ra quán internet café gần đó nữa. Ở Sài gòn giá 1 dollar/1giờ đã là rẻ, ở đây chỉ khoảng 13 cents/1 giờ. Trong khi nếu xử dụng ngay trong khách sạn có thể lên tới 4,5 dollars/1 giờ. Ðúng là chẳng có tiêu chuẩn gì cả.

Hạ Long…

Sáng hôm sau, nhóm lại lên chiếc xe bus của mình để đi Vịnh Hạ Long. Xe đi qua nhiều đường phố trước khi ra ngoại ô, nên tôi có dịp quan sát sinh hoạt Hà Nội kỹ hơn. Xe cộ cũng đông vì là giờ đi làm, nhưng không hỗn độn bằng Sàigòn. Ða số là xe máy và cũng nhiều xe taxi, xe hơi. Chắc có sự thay đổi lớn gần đây, chứ mới ngày nào ở hải ngoại tôi còn được xem những tấm hình do các ký giả ngoại quốc chụp đường phố Hà Nội gần như 100% là xe đạp kia mà. Các cửa hàng dọc hai bên phố trưng bày đẹp mắt, gọn gàng nằm sát nhau. Nhưng nếu ngước mắt nhìn lên tầng 2, tầng 3… sẽ thấy cảnh người dân sống chen chúc, chật chội, nghèo nàn với những ô cửa nhỏ xíu và quần áo phơi ngổn ngang. Tầng dưới bán hàng đầy màu sắc vui tươi, nhưng những tầng bên trên màu gì không nhận ra được vì ở tình trạng quá cũ.

Bắt mắt nhất đối với tôi là những gian hàng hoa tươi. Từng bó lớn hồng còn nguyên nụ được xếp cạnh nhau, nào trắng, vàng, hồng, đỏ xậm… chen lẫn với cúc đại đoá vàng rực, lay-ơn, lan… Hoa tươi cũng được bán lẻ ven đường, trên những cái mẹt lớn được đặt trên cái yên xe đạp của người bán. Hoa tươi có mặt gần như khắp nơi ở Hà Nội, nhiều cửa hàng hoa đã đành, mà chỗ nào có dịch vụ cũng thường có một bình hoa tươi cắm rất nghệ thuật. Ðiều làm tôi thích thú là thấy người ta bó các cọng khoai môn (giống như cọng bạc hà nấu canh chua) lại, rồi cắt khúc ra từng bó ngắn khoảng 20cm để làm cái đế cắm hoa, chứ không dùng loại mút mềm, ngấm nước (oasis foam) như các tiệm hoa bên Mỹ vẫn dùng. Tôi để ý trên đường phố người ta ăn mặc không màu sắc sặc sỡ như trong Sài gòn, nhưng người bạn bên cạnh lưu ý tôi là trời lạnh nên ai cũng mặc áo khoác dày bên ngoài, trông rất lịch sự nhưng là màu xậm nhiều hơn. Không phải trời lạnh không thôi, còn có mưa phùn nữa vì gần Tết mà. Có lẽ cái không khí ẩm và lạnh đã khiến cho Hà nội có 1 sắc thái vừa tươi mát vừa lịch lãm chăng?

Ra tới ngoại ô, đường đi Hạ Long tương đối tốt và còn mới. Lại đi qua cầu Long Biên (hình như vậy, tôi không nhớ rõ) vắt ngang sông Hồng, ngược chiều với hôm trước đi từ phi trường Nội Bài về Hà Nội. Ngang làng Bần, ai cũng nhớ tới câu “Dưa La, cà Láng, nem Báng, tương Bần”. Nhắc tới tương Bần, loại tương Bắc thường được dùng để chấm bê thui, bò tái… anh tour guide bèn cao hứng đọc to mấy câu sau cho bà con nghe:

Tái Dê chấm với tương gừng

Ăn vào nó cứ phừng phừng như …dê

Ðêm nằm nghe vợ tỉ tê

Ngày mai ta lại …tái dê, tương gừng!


Bà con vỗ tay cười khoái chí… Ða số người trong nhóm là Bắc Kỳ di cư 54, nên đi ngang làng Bát Tràng thì ai cũng biết ngay là nơi làm đồ gốm, sản xuất bát đĩa rất đẹp. Xe ngừng ở Hồng Ngọc, gần tỉnh Hải Dương là nơi quê của gia đình tôi khi xưa. Hồng Ngọc là một trung tâm làm và bán các sản phẩm nghệ thuật và tiểu công nghệ như đồ trang sức bằng vàng bạc và đá quí, quần áo bằng gấm, lụa, tranh thêu… do một tổ chức giúp đỡ người khuyết tật dùng tài năng của mình để kiếm sống. Ở đây cũng như nhiều nơi bán đồ kỷ niệm cho khách ngoại quốc, người mua có thể tiêu cả mấy trăm dollars và có thể trả bằng credit cards, rất tiện. Chúng tôi cũng mua các đặc sản địa phương gồm bánh cốm, bánh gai, và bánh đậu xanh… để mang lên xe ăn vì còn phải đi cả tiếng nữa mới tới nơi.

Tới Hạ Long, nhóm được đưa xuống một chiếc tàu thuê riêng cho mình. Con tàu mang tên Biển Mơ, còn mới và trang bị rất đẹp. Tầng chính của tàu được kê bàn ghế như một tiệm ăn nhỏ rất khang trang, du khách có thể ngồi ở đó nhâm nhi cà phê hay rượu vang và nhìn qua cửa kính để ngắm cảnh. Nói tới rượu vang, ở VN có rượu vang làm tại Ðà Lạt mà tôi đã uống thử ở nhà một người bà con ở Sàigòn và ngạc nhiên vì rượu khá ngon, giá bán ở ngoài nghe đâu từ 3-6 dollars/1chai. Hôm đó trên tàu thì tụi tôi trả $12/chai, vẫn rẻ chán. Còn cà phê thì ở những khách sạn tôi ở cũng đều pha rất đặc, mà sữa đặc có đường lại không thấy, chỉ thấy loại sữa lỏng le không đủ chất béo, cho ít sữa thì cà phê còn quá đặc, mà cho nhiều thì cà phê nguội mất tiêu. Nói chung, dân ghiền cà phê như tôi không hề một lần uống cà phê ở VN mà thấy ngon, nhưng cà phê VN đem về Mỹ thì bảo đảm uống ngon hơn cà phê Mỹ.

Trong khi chờ nhà bếp làm cơm trưa, nhiều người lên boong tàu ngắm cảnh hoặc chụp hình. Nói chung ai cũng có vẻ rất thảnh thơi và ngẩn ngơ trước vẻ đẹp của mặt nước êm đềm, tương phản với dáng hùng vĩ của những ngọn núi đứng sừng sững khắp nơi trong vịnh. Ðói bụng, tôi tò mò ghé mắt vô nhà bếp xem họ làm tới đâu, thì thấy bếp nhỏ, gọn, sạch sẽ, chỉ có một cô và một anh làm các việc rất nhanh nhẹn, thoăn thoắt. Tàu này là một cái business của một gia đình kinh doanh rất giỏi, họ có tới 3 chiếc tàu như vậy và đều phục vụ với tính cách gia đình. Rồi bữa trưa được dọn lên rất thịnh soạn, với tôm và cua vừa được đưa từ chiếc tàu đánh cá ở bên cạnh sang.

Ăn xong, chúng tôi xuống những chiếc xuồng nhỏ để chèo qua những cái hang xuyên qua những ngọn núi. Một trong những chiếc xuồng của chúng tôi suýt bị đắm, nhưng kịp tắp vào một cái đảo san hô nhỏ, người trong nhóm đứng ngồi chờ xuồng khác tới tiếp cứu trông rất là buồn cười. Sau đó trở lại tàu lớn, đi tới cửa Hang Sửng Sốt và Ðộng Thiên Cung. Mọi người đi theo nhân viên hướng dẫn của động, vừa thích thú nghe họ chỉ và giải thích, vừa trầm trồ nhìn những chỗ hết sức đặc biệt và lạ lùng trong trong hang. Nhiều quá nên tôi không nhớ chính xác được các chi tiết ở đây. Trở lại tàu đề về bờ và lên xe đi về lại khách sạn thì trời đã khá tối, chỉ kịp đi ăn và về đi ngủ vì leo hang động đã mỏi nhừ cả đôi chân.

Chùa Hương, Tam Cốc

Hôm sau đi Chùa Hương, tôi tưởng các bác lớn tuổi sẽ ở nhà vì không đi bộ nổi, nhưng các bác có mặt đầy đủ trên xe. Một gia đình sợ đám trẻ con không thích nên để chúng ở nhà. Ðường đi Chùa Hương không được tốt như đường đi Vịnh Hạ Long. Tuy có nhiều đoạn đang được tân trang, nhưng gần hết con đường đều hẹp và gập ghềnh, xe đi trồi lên trụt xuống, rất chậm và xóc. Tôi sợ say xe nên nuốt viên dramamine cho chắc ăn. Anh tour guide kể chuyện tiếu lâm cho bà con cười để tạm quên những cú xốc mạnh khi xe đi qua những cái ổ gà. Tỉnh Hà Ðông nổi tiếng về nghề lụa cũng nằm trên đường đi Chùa Hương, chỉ cách Hà Nội khoảng 12km thôi. Khi đi ngang Hà Ðông, anh tour guide đọc câu:

Áo Hà Ðông dệt bằng …lông sư tử

Em mặc vào, thấy giống …sư tử Hà Ðông
!

Bà con lại cười bò… Tới nơi, chúng tôi phải chia nhau thành từng nhóm 4 người để đi xuồng vào trong núi. Những người chèo xuồng to tiếng dành giật nhau để đón khách, tạo nên một khung cảnh hỗn độn, khiến đám du khách không dám hó hé mà chỉ trông chờ vào người tour guide rành rẽ trong việc này. Thực ra có một người địa phương đứng ra sắp xếp cho xuồng nào thì xuồng đó mới được nhận khách, vì hình như họ làm ăn theo tổ. Nhưng ông này không làm sao cho đám người chèo xuồng giữ trật tự được. Trong khi đó, chúng tôi bị nhiều người xúm lại nài nỉ để mua của họ những vật kỷ niệm, đa số là những chiếc vòng đeo tay, đeo cổ làm bằng những hạt gì tròn tròn, nhiều màu sắc, được xâu lại với nhau. Rồi những người thợ chụp hình đòi đi theo chụp hình cho chúng tôi, từ chối cả chục lần họ cũng chưa chịu buông tha.

Cuối cùng thì những chiếc xuồng cũng được sắp xếp xong và chèo đi. Lúc đó tôi nhận ra có một chiếc xuồng khác cứ tự động đi theo mà chụp hình con tôi, tôi hỏi thì họ bảo con tôi đã đồng ý, mà con tôi làm sao trao đổi được tiếng Việt với họ kia chứ. Thiệt hết biết! Thấy mấy cô đi trên cả 2 chiếc xuồng đều còn trẻ và nhanh nhẹn, vui vẻ, tôi hỏi thăm về đời sống của họ thì được biết cũng có cô sắp xong trung học và dự định ra Hà Nội học đại học. Tất cả đều mặc quần jeans hoặc quần tây xậm màu áo khoác dày trông rất gọn gàng, lịch sự… Kể cả bà chèo đò đứng tuổi cũng mặc áo khoác dạ, cổ quấn khăn len trông cũng lịch sự luôn. Bà này than thở về đời sống vất vả, khó nghèo của gia đình, bây giờ nhờ khách du lịch thì đỡ hơn nhưng cả tháng mới được chia cho 1 ngày chèo như hôm nay, còn thì phải cấy lúa ngay trên cái đầm nước dẫn vào núi này, tuy là nông nhưng nước cũng ngập tới ngang bụng. Các cô gái cũng nói họ phải giúp gia đình đi cấy và gặt lúa như vậy, nhưng trông họ thì thấy sáng sủa, khiến tôi tò mò muốn được vào các làng mạc mà xem đời sống thực sự của họ ra sao. Có thể là qua bao nhiều thế hệ, đời sống của người dân ở nơi heo hút này cũng vẫn vậy, và bị văn mình thành thị bỏ lại phía sau cả bao nhiêu chục năm.

Xuồng đi trên chỗ này chỉ là một cái đầm, tên là đầm Yên Vị thì phải, và cảnh chung quanh đầm rất đẹp. Các cô chỉ cho tôi xem núi “con voi không vâng lời”, vì có 11 con voi thì tất cả 10 con đều quay đầu về phía các ngôi chùa, ngoại trừ con voi này quay đít lại. Tôi thích thú khi nhận ra hình con voi nằm phục của các rặng núi Voi Phục. Ðó là những ngọn núi lớn nhỏ, già trẻ đứng bên cạnh nhau. Ngọn nào già thì thấp và soải dài, trông như cái lưng con voi, ngọn trẻ thì nhô cao và gọn, thấy giống như đầu voi. Nếu có thêm ngọn núi thấp kế tiếp nữa thì giống như cái vòi voi phía trước,v.v.. Tôi đoán là tất cả đều do trí tưởng tượng của mỗi người chứ không nhất thiết là có sự đồng ý về từng con voi một, kể cả “con voi không vâng lời”. Riêng ngọn Mâm Xôi thì là một ngọn lớn, cao và đều như một mâm xôi, trên lại có cái chỏm trông giống như con gà để nằm ngửa trên mâm xôi vậy.

Xuồng đi ngang Ðền Trình, là ngôi chùa đầu tiên cho khách ghé vào để ‘trình’ rồi mới đi tiếp, nhưng chúng tôi không vào. Ði xuồng mất khoảng 1 tiếng thì tới chân núi có các chùa, và nhóm lên bờ. Ở đây có nhiều hàng quán bán quà vặt và đồ kỷ niệm thô sơ. Chúng tôi mua sẵn mỗi người một chiếc gậy tre để leo núi. Có một quán ăn rất đông khách, nhóm ghé vào để ăn trưa khá ngon miệng, rồi mới leo núi với chiếc gậy tre trong tay. Ðường lên núi có các bậc đá, đi khá dễ dàng. Người tour guide cho biết vào rằm tháng Hai khi người từ khắp nơi kéo về trẩy hội, thì đường lên núi chật ních, người ta đứng sát vào nhau, có khi bị xô chúi về phía trước hoặc ngã ngửa ra phía sau mà vẫn không bước đi được. Rồi gặp trời mưa thì đất trở thành lầy lội, và những bậc đá trở nên trơn trượt vì bùn lầy, đi rất dễ té nên vì vậy phải dùng gậy tre để chống đỡ, chứ nắng ráo như hôm nay thì không sao. Leo mãi mới tới chùa Thiên Trù, sân chuà khá rộng và cảnh trí rất đẹp, gồm những kiến trúc cổ xưa chen lẫn với cảnh núi đồi trùng điệp. Nhìn xuống thung lũng phiá dưới thấy các ruộng rẫy và dân làng phải đi xa lắm mới vào được tới đây để trồng trọt. Nhóm chơi ở đây khá lâu, vào trò chuyện với một sư bác trụ trì ở chùa, được sư mời ăn chuối hái dưới rẫy và uống trà, sau đó sư dẫn đi sâu vào chùa để xem các hốc đá thiên nhiên rất đẹp và cũng huyền bí nữa. Các con tôi hôm nay đi không có bạn cùng trang lứa, vì gia đình kia để con họ ở nhà. Nhưng cảnh đẹp thiên nhiên vẫn làm chúng say mê và đi không thấy mệt, xem không biết chán, khiến anh chị đó cứ tiếc là đã không cho con họ đi hôm nay.

Sau đó thì đi xuống chứ không đi nổi lên tới chùa Trong, còn gọi là Ðộng Hương Tích, dù biết là còn đẹp hơn nhiều. Các cô chụp hình đã chụp hết cuộn phim và đưa lại cho chúng tôi, tiền phim và tiền công chụp các cô lấy khoảng $10US. Còn các cô chụp lấy ngay thì đưa cho chúng tôi những tấm hình đã rửa và laminated đàng hoàng, không đẹp lắm, lại chụp quá nhiều và cứ ép chúng tôi phải lấy hết!

Buổi chiều ra về, gặp những người dân làng quẩy từng gánh khoai vừa nhổ lên ở rẫy chỗ thung lũng tôi nhìn xuống khi nãy. Họ phải gánh xuống núi rồi đi xuồng về làng, thật là vất vả mà chẳng được là bao. Những ngày đi chơi như thế này khiến tôi có nhiều thao thức. Phải chăng Thượng Ðế chỉ ưu ái ban cho con người những cảnh đẹp thiên nhiên làm ngây ngất lòng người ở những nơi mà con người không hề biết tới đời sống văn mình của thị thành, cho nên họ vẫn sống ở đấy từ đời này sang đời khác, tuy cực nhọc nhưng gần gũi với thiên nhiên, và chính họ là những con người đã gìn giữ những cái đẹp thiên nhiên ấy? Ðể rồi những người sống ở nơi văn minh, một khi có phương tiện và điều kiện thuận lợi, sẽ được đến đó chiêm ngưỡng và không thể nào từ chối một sự thật là có bàn tay của Ðấng Tạo Hoá trong vũ trụ?

Hôm sau, chuyến đi Tam Cốc ngắn hơn, buổi sáng được thong thả và buổi chiều về sớm hơn. Ðường đi tương đối tốt, có tiệm ăn rất đông khách, rộng rãi và ngon miệng ngay gần bến nước để nhóm ăn trưa rồi xuống những chiếc xuồng đi ngoạn cảnh. Trời mưa, người ta bán sẵn áo mưa ngay trước của tiệm ăn, chúng tôi mua mỗi người một cái, đám du khách bây giờ mang đủ màu sắc, đứng chờ xuồng trông vui mắt đáo để. Cảnh bến xuống ở đây có vẻ trật tự hơn chứ không hỗn độn và “dữ dằn” như lúc đón xuồng vào Chùa Hương hôm qua, người chào hàng cũng ít, có lẽ vì trời mưa. Những người đi theo chụp hình cũng lịch sự hơn, từ chối là họ thôi không nài nỉ nữa, và nói chụp 3 tấm thôi là chụp đúng 3 tấm, rửa xong đưa lại thấy khá đẹp. Cái này chắc là tuỳ người thôi, nhưng tôi đã mang một ấn tượng tốt về người dân ở vùng này.

Khi đi xuồng nhìn cảnh hai bên thì thấy gần giống như cảnh hai bên đầm Yên Vị dẫn vào Chùa Hương, nhưng núi non và 3 cái hang lớn xuyên qua núi mà xuồng chui qua thì thấy giống cảnh ở Vịnh Hạ Long. Có lẽ vì vậy mà người ta còn gọi vùng này là Hạ Long cạn nữa, vì ở đây có nhiều ruộng cấy lúa. Xuồng đi qua những mảng hoa súng và cỏ dại mọc trên mặt nước. Thấy những ngọn cỏ có những hạt tròn màu đỏ cam bám đầy, trông như những cọng hoa, nhưng hỏi ra mới biết đó là trứng ốc bươu, nhiều đến độ không thể nào diệt hết được. Ốc quá nhiều, ăn hại biết bao cây lúa khiến mùa màng hao hụt. Ðây là hậu quả cửa người dân khù khờ, nghe dân Tàu lùng mua ốc với giá cao, nên hùa nhau mua ốc giống đem về thả… Bây giờ mới biết là dân ta mắc hỡm dân Tàu, nhưng đã quá muộn… Người chèo xuồng chỉ cho chúng tôi xem những con dê núi màu trắng đứng trên sườn núi cao cheo leo. Chị nói dân ở đây vẫn lên đó đê kiếm củi và bắt dê. Tôi không hiểu làm sao người ta có sức để mà trèo lên núi cao như vậy chỉ để kiếm củi, thật là đời sống đầy thách đố khi phải trực diện với thiên nhiên.

Xuồng đi về chỉ hết độ 1 tiếng, sau đó chúng tôi lên xe về lại khách sạn để kịp ăn bữa tối đặc biệt để đón giao thừa Tết Tây, và cũng là đêm cuối cùng ở Hà Nội, vì sáng hôm sau nhóm sẽ bay vào Huế…

(còn tiếp)