Linh mục Giáo Phận Phú Cường - Tĩnh tâm năm 2004
I. TỪ MỘT ĐỊNH NGHĨA
Truyền giáo là gì? Người ta có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng trong các định nghĩa ấy, người truyền giáo không bao giờ được phép quyên một định nghĩa quan trọng, vì nhờ đó mà làm nên ơn gọi truyền giáo trong Giáo Hội. Một ơn gọi không đến từ yếu tố con người, nhưng lại tùy thuộc vào yếu tố thần linh.
Đúng hơn, định nghĩa quan trọng ấy thuộc về chính Đấng vừa là NGUỒN vừa là ĐÍCH. NGUỒN, nơi mà từ đó xuất phát ra ơn gọi truyền giáo. ĐÍCH, nơi màchính công việc truyền giáo phải quy về. Đấng đó không ai khác hơn là chính CHÚA KITÔ.
Chính Người là gợi hứng cho ơn gọi truyền giáo và là chung cuộc cho hành trình truyền giáo của Giáo Hội. Vì thế cũng chính Người là gợi hứng về một định nghĩa quan trọng mà chúng ta đang nhắc tới: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình.
1. Muốn cho ai bất cứ cái gì, phải có, mới có thể cho. Chỉ có một con đường duy nhất để trao tặng Chúa Kitô, là phải có Chúa Kitô trong tâm hồn mình. Nếu hiểu một tâm hồn chưa thanh sạch là một tâm hồn thiếu vắng Chúa Kitô, thì tôi phải tự hỏi rằng, rất nhiều lần tôi giơ ban phép lành để tha tội cho anh chị em của mình, để sau khi được tha thứ, anh chị em của tôi có Chúa Kitô, còn tâm hồn tôi đã thanh sạch chưa, đã có Chúa Kitô chưa?
Bảo rằng truyền giáo là ban tặng Chúa Kitô, thì bước đầu tiên để khởi sự truyền giáo, lòng tôi phải có Chúa Kitô. Tôi phải luôn ý thức rằng, tội lỗi, gướng xấu không bao giờ làm bạn với ơn truyền giáo.
2. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Nhưng vượt lên đứng hàng đầu trong số các Kitô hữu ấy về việc sống ơn truyền giáo là chính linh mục. Từ những việc làm rất lớn như cử hành thánh lễ, cử hành bí tích…, đến việc nhỏ nhất như một lời nói, một cử chỉ thân thương, một nụ cười dung thứ… của linh mục, đều có thể gây ảnh hưởng, và cũng rất có khả năng ảnh hưởng đó lan rộng. Vậy muốn có được một đời sống chứng tá như thế, người linh mục tất yếu phải kiểm điểm mình liên tục. Tôi có còn thói quen kiểm điểm bản thân hay không, hay vì vịn vào công việc của mình, từ lâu tôi đã bỏ mất thói quen này?
II. TIẾP NỐI BƯỚC CHÂN CHA ÔNG
Định nghĩa quan trọng về truyền giáo: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, không chỉ dừng lại ở định nghĩa, mà qua định nghĩa quan trọng đó, còn nói lên cả một nền tảng của đức tin, của cả dòng lịch sử Kitô giáo, của niềm hãnh diện và say mê có giá trị hàng ngàn năm mà Giáo Hội đã, đang và sẽ còn cưu mang và sống. Niềm hạnh phúc tuyệt diệu khi được tiếp nối bước chân Chúa Kitô làm nhà truyền giáo đã thể hiện ngay từ thuở bình minh của Giáo Hội. Sách Công vụ tông đồ đã chứng minh điều đó, khi cho thấy những bước chân lên đường không mệt mỏi, không sợ sệt, không đầu hàng nghịch cảnh, bất chấp sự chống đối của thế gian, sự cô đơn khi phải đối diện với sứ mạng nặng nề của mình…
Bảo rằng, đấy là Giáo Hội sơ khai, nhưng những con người của Giáo Hội sơ khai ấy, lại là những con người trưởng thành. Không chỉ trưởng thành mà thôi, nếu so sánh với mỗi người trong anh em chúng ta, có lẽ ta phải gọi các ngài là “Những nhà truyền giáo trưởng thành vượt bậc”, điều mà anh em linh mục ngày nay, dù đã thừa hưởng kho tàng đức tin do các ngài để lại lên đến 2.000 tuổi, vẫn không dễ gì có được.
Vậy bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau nghe lại một phần (chỉ một phần thôi) về những lời đầy khí phách, những thái độ ngoan cường, và những tâm hồn tràn đầy lòng yêu mến, tràn đầy niềm phó thác của cha ông mình:
“Có những người thuộc hội đường, gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alexanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông… Họ đưa mấy người làm chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến nơi thánh và lề luật…”. Toàn cử tọa trong Hội đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
Bấy giờ vị thượng tế hỏi Stêphanô: “Có đúng như vậy không?”. Ông đáp: “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây… Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. Các ông là những người đã lãnh nhận lề luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ”.
Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô.
Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa tôi thấy trời mở ra, và Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá… Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 6,8-7, 60).
Đối với Giáo Hội Việt Nam hôm nay cũng không khác. HĐGM. VN, một lần nữa mời gọi chúng ta nhìn về cha ông của mình để “tiếp nối bước chân truyền giáo” của các ngài: “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đới sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quý giá” (Thư mục vụ 2003).
Sau khi nghe những lời ấy, có lẽ thái độ thích hợp nhất của chúng ta lúc này là lặng đi để có thể tra vấn lương tâm mình. Một lần thinh lặng, để một lần nữa, ta ý thức rằng, ơn gọi truyền giáo là ơn gọi cấp bách, đã từ thôi thúc cha ông mình, thì hôm nay sự thúc bách ấy vẫn mới nguyên, vẫn đòi mỗi người dấn thân mình y như thế!
III. KHÔNG THỂ KHÔNG CẦU NGUYỆN
Nói gì thì nói, điều quan trọng nhất vẫn là cầu nguyện. Để có thể làm tròn sứ mạng Truyền giáo: mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, chúng ta đừng quyên rằng, việc cầu nguyện là việc làm trước tiên, và là việc ưu tiên hàng đầu. Nếu muốn trao tặng quà, trong tay phải có quà, và muốn đưa Chúa Kitô đến với anh chị em, tâm hồn phải có Chúa Kitô, thì chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện bằng tất cả lòng tin, niềm hy vọng, lòng mến yêu, sự tôn thờ sốt sắng, ta mới thấy lòng khao khát Chúa thẳm sâu. Chính khi ta đói khát Thiên Chúa thật nơi tâm hồn mình, đó mới là dấu hiệu có Chúa trong ta.
Ý thức truyền giáo không bao giờ xuất phát từ một tâm hồn đầy, đúng hơn, là một tâm hồn không thấy mình khao khát Chúa. Vì thế, nếu ta lo toan quá nhiều, bộn bề với bao nhiêu việc, có khi là những công việc không đâu, hay không hoạch định cho mình những công tác nào ưu tiên, việc làm nào cần phải cắt bỏ, việc làm nào tuyệt đối không được phép làm…, chắc chắn không bao giờ ta thấy mình thiếu Chúa.
Không bao giờ thấy mình khao khát Chúa, là một nguy hại cho đời sống đức tin đã vậy, nó còn tạo nên một khoảng cách trong lòng mình càng lúc càng xa Thiên Chúa, làm cho bản thân thất vọng về Chúa, không còn cảm thấy muốn vươn lên. Để xảy ra như thế, người linh mục đã đánh mất, không chỉ bản thân mình, bên cạnh đó còn đánh mất cả tâm hồn anh chị em mà Chúa giao cho mình chăm sóc. Sự nguy hại như thế không nhỏ chút nào. Nó sẽ biến ta thay vì thành một nhà truyền giáo, lại có thể gieo rắc những gì khác hơn không thuộc về Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ của HĐGM. VN, phần đề nghị “Những việc làm cụ thể”, các Đức Giám mục đã không nói đến một điều gì cao xa, nhưng trước tiên vẫn chính là việc cầu nguyện: “Cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đây là việc quan trọng hàng đầu”.
Công tác truyền giáo là một công tác đặc biệt, khác mọi công tác bình thường khác. Nếu trong mọi công tác, ta càng có đầy bao nhiêu, thì càng dễ ban phát bấy nhiêu. Còn trong công tác truyền giáo, ta càng thấy mình đói Thiên Chúa, càng khao khát Chúa Kitô mãnh liệt bao nhiêu, thì lại càng giới thiệu Chúa một cách đầy xác tín, mạnh mẽ, nhiệt huyết và thành công bấy nhiêu. Vì những công tác khác, khi đầy là ta có, còn việc rao giảng Tin Mừng, khi thấy mình cần Chúa hơn, mình quá mong manh, yếu đuối, lẻ loi, nhiều khuyết điểm… lại là lúc ta giàu có Thiên Chúa để mà cho đi.
Vậy để nung nấu tâm hồn mình, chỉ có một cách duy nhất là chìm đắm trong cầu nguyện, để chính đời sống cầu nguyện ấy thẩm thấu trong từng chi tiết, từng biểu hiện của mình, nhờ đó bản thân sẽ mỗi ngày một khao khát Chúa hơn. Vì sự khao khát, ta
sẽ dám dấn thân cho Chúa hơn. Khao khát và dấn thân trong nỗ lực từng ngày như thế, chúng ta sẽ nên những chứng tá đích thực trong đời thường mà mình đang sống. Vì một nguyên tắc không thể sai chạy trong việc truyền giáo: truyền giáo đòi phải có chứng tá, truyền giáo mới hiệu quả.
III. MỘT LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, nhận lãnh lời mời gọi của Chúa năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 16), Giáo Hội, kể từ buổi bình minh của mình, do các thánh tông đồ trực cai quản, đến nay đã có một sức sống hàng ngàn năm, vẫn không ngừng lên đường truyền giáo.
Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn của cuộc sống, đều có những khó khăn trong nỗ lực mang ơn cứu độ của Chúa trao cho thế giới. Nhất là thời buổi mà chúng con đang sống hôm nay, giữa lòng của một thế giới đầy tục hóa, một thế giới giải thiêng, không còn nhận ra vận mạng của mình bởi đâu và thuộc về ai nữa. Thậm chí phong trào chống đối Thiên Chúa, dường như cũng lướt qua dần, thay vào đó là một não trạng nguy hiểm hơn: có Chúa hay không, không cần thiết, không quan trọng. Vì nếu chống đối Thiên Chúa, có khi đó là khởi điểm của một đức tin, bởi cứ theo lý luận bình thường, thì phải tin rằng có, mới có thể chống. Nhưng khi người ta có thái độ hờ hửng, thái độ đứng bên lề đức tin để giải quyết vấn đề của mình, không liên quan gì đến Thiên Chúa, người ta trở thành kẻ ngông cuồng đến điên dại trong mọi cư xử của mình. Như thế thì không việc làm nào, người ta không dám làm, dẫu là xấu xa nhất, nguy hại nhất.
Và từ thực tế của não trạng tẩy chay Thiên Chúa ấy, lôi kéo người ta lún sâu dần vào chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa bạo lực, chủ nghĩa thực dụng… và chỉ có duy thế tục mà thôi. Chưa hết, giữa thế giới mà chúng con đang đồng hành, còn là một thế giới đầy hận thù, giành giật, chiến tranh, khủng bố, tai ương…
Vì thế chúng con cảm thấy mệt mỏi, chán chường khi lời rao giảng về tình yêu, bao dung, nghèo khó, tha thứ… theo đòi hỏi của Tin Mừng, càng lúc như càng trở thành một tiếng la giữa sa mạc, hay giữa một khoảng không vô tận nào đó. Một tiếng la thuộc về chân lý mà sao quá lạc lỏng, quá xa cách với suy nghĩ của con người. chúng con có cảm tưởng rằng, tiếng la ấy, cuối cùng chỉ dội về cho mình mà thôi.
Vì thế chúng con nguyện xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con trong vạn nẻo cuộc đời. Xin cho chúng con được làm men, làm muối, làm chứng ta cho Chúa đã vậy, nhưng còn một điều quan trọng không kém: xin cho chúng son sắt một lòng tin không dễ gì mai một, không dễ gì lung lay, để dù cho hoàn cảnh nào đi nữa, chính đức tin ấy sẽ thúc đẩy chúng con bước tới chớ không chùng bước.
Lạy Chúa, xin cho đôi chân chúng con luôn bước đi chứ đừng dừng lại, cánh tay chúng con giơ cao chứ đừng buông xuôi; bàn tay chúng con mở ra chứ đừng khép chặt và cổ họng chúng con gào to chứ đừng ngậm miệng, để cho Lời Chúa được lan tỏa, để cho đời sống của chúng con minh chứng Lời Chúa qua từng hành động của mình, và hãnh diện ra đi gieo Lời ấy bằng cả một đời đã được Chúa ban, cho đến hơi thở sau cùng của cuộc đời mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con tâm nguyện rằng: Linh mục chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Vì thế hãy cứ gieo hạt giống Tin Mừng, gieo khắp nơi, gieo mọi lúc. Xin giúp chúng con tin rằng, người gieo hạt giống Lời Chúa, nếu chỉ là kẻ bất lực, thì quyền năng Thiên Chúa sẽ mạnh mẽ. Chỉ có Chúa mới làm cho xấu trở nên tốt. Dẫu cho người gieo là chính linh mục có sống trong tội lỗi đi nữa, thì chỉ có Chúa mới có thể rút ra điều tốt từ những gì mà trong con mắt con người chỉ là cái xấu.
Mãi mãi, xin cho chúng con biết tự nhủ: Hãy gieo Lời Chúa và hãy tin mãnh liệt rằng, hạt giống Lời Chúa vẫn nảy mầm và mọc lên, dù đêm hay ngày và người gieo ngủ hay thức (Mc 4, 27). Có thể có hạt rơi trên sỏi đá, rơi trên đất khô cằn. Nhưng sẽ có những hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết trái: hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi (Mt 13, 8).
I. TỪ MỘT ĐỊNH NGHĨA
Truyền giáo là gì? Người ta có thể có nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng trong các định nghĩa ấy, người truyền giáo không bao giờ được phép quyên một định nghĩa quan trọng, vì nhờ đó mà làm nên ơn gọi truyền giáo trong Giáo Hội. Một ơn gọi không đến từ yếu tố con người, nhưng lại tùy thuộc vào yếu tố thần linh.
Đúng hơn, định nghĩa quan trọng ấy thuộc về chính Đấng vừa là NGUỒN vừa là ĐÍCH. NGUỒN, nơi mà từ đó xuất phát ra ơn gọi truyền giáo. ĐÍCH, nơi màchính công việc truyền giáo phải quy về. Đấng đó không ai khác hơn là chính CHÚA KITÔ.
Chính Người là gợi hứng cho ơn gọi truyền giáo và là chung cuộc cho hành trình truyền giáo của Giáo Hội. Vì thế cũng chính Người là gợi hứng về một định nghĩa quan trọng mà chúng ta đang nhắc tới: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình.
1. Muốn cho ai bất cứ cái gì, phải có, mới có thể cho. Chỉ có một con đường duy nhất để trao tặng Chúa Kitô, là phải có Chúa Kitô trong tâm hồn mình. Nếu hiểu một tâm hồn chưa thanh sạch là một tâm hồn thiếu vắng Chúa Kitô, thì tôi phải tự hỏi rằng, rất nhiều lần tôi giơ ban phép lành để tha tội cho anh chị em của mình, để sau khi được tha thứ, anh chị em của tôi có Chúa Kitô, còn tâm hồn tôi đã thanh sạch chưa, đã có Chúa Kitô chưa?
Bảo rằng truyền giáo là ban tặng Chúa Kitô, thì bước đầu tiên để khởi sự truyền giáo, lòng tôi phải có Chúa Kitô. Tôi phải luôn ý thức rằng, tội lỗi, gướng xấu không bao giờ làm bạn với ơn truyền giáo.
2. Ơn gọi truyền giáo là ơn gọi của mọi Kitô hữu. Nhưng vượt lên đứng hàng đầu trong số các Kitô hữu ấy về việc sống ơn truyền giáo là chính linh mục. Từ những việc làm rất lớn như cử hành thánh lễ, cử hành bí tích…, đến việc nhỏ nhất như một lời nói, một cử chỉ thân thương, một nụ cười dung thứ… của linh mục, đều có thể gây ảnh hưởng, và cũng rất có khả năng ảnh hưởng đó lan rộng. Vậy muốn có được một đời sống chứng tá như thế, người linh mục tất yếu phải kiểm điểm mình liên tục. Tôi có còn thói quen kiểm điểm bản thân hay không, hay vì vịn vào công việc của mình, từ lâu tôi đã bỏ mất thói quen này?
II. TIẾP NỐI BƯỚC CHÂN CHA ÔNG
Định nghĩa quan trọng về truyền giáo: Truyền giáo là mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, không chỉ dừng lại ở định nghĩa, mà qua định nghĩa quan trọng đó, còn nói lên cả một nền tảng của đức tin, của cả dòng lịch sử Kitô giáo, của niềm hãnh diện và say mê có giá trị hàng ngàn năm mà Giáo Hội đã, đang và sẽ còn cưu mang và sống. Niềm hạnh phúc tuyệt diệu khi được tiếp nối bước chân Chúa Kitô làm nhà truyền giáo đã thể hiện ngay từ thuở bình minh của Giáo Hội. Sách Công vụ tông đồ đã chứng minh điều đó, khi cho thấy những bước chân lên đường không mệt mỏi, không sợ sệt, không đầu hàng nghịch cảnh, bất chấp sự chống đối của thế gian, sự cô đơn khi phải đối diện với sứ mạng nặng nề của mình…
Bảo rằng, đấy là Giáo Hội sơ khai, nhưng những con người của Giáo Hội sơ khai ấy, lại là những con người trưởng thành. Không chỉ trưởng thành mà thôi, nếu so sánh với mỗi người trong anh em chúng ta, có lẽ ta phải gọi các ngài là “Những nhà truyền giáo trưởng thành vượt bậc”, điều mà anh em linh mục ngày nay, dù đã thừa hưởng kho tàng đức tin do các ngài để lại lên đến 2.000 tuổi, vẫn không dễ gì có được.
Vậy bây giờ, chúng ta hãy cùng nhau nghe lại một phần (chỉ một phần thôi) về những lời đầy khí phách, những thái độ ngoan cường, và những tâm hồn tràn đầy lòng yêu mến, tràn đầy niềm phó thác của cha ông mình:
“Có những người thuộc hội đường, gọi là hội đường của nhóm nô lệ được giải phóng, gốc Kyrênê và Alexanria, cùng với một số người gốc Kilikia và Axia, đứng lên tranh luận với ông Stêphanô. Nhưng họ không địch nổi lời lẽ khôn ngoan mà Thần Khí đã ban cho ông… Họ đưa mấy người làm chứng gian ra khai rằng: “Tên này không ngừng nói những lời phạm đến nơi thánh và lề luật…”. Toàn cử tọa trong Hội đồng đều nhìn thẳng vào ông Stêphanô, và họ thấy mặt ông giống như mặt thiên sứ.
Bấy giờ vị thượng tế hỏi Stêphanô: “Có đúng như vậy không?”. Ông đáp: “Thưa quý vị là những bậc cha anh, xin nghe tôi đây… Hỡi những người cứng đầu cứng cổ, lòng và tai không cắt bì, các ông luôn luôn chống lại Thánh Thần. Cha ông các ông thế nào, thì các ông cũng vậy. Có ngôn sứ nào mà cha ông các ông không bắt bớ? Họ đã giết những vị tiên báo Đấng Công Chính sẽ đến; còn các ông, nay đã trở thành những kẻ phản bội và sát hại Đấng ấy. Các ông là những người đã lãnh nhận lề luật do các thiên sứ công bố, nhưng lại chẳng tuân giữ”.
Khi nghe những lời ấy, lòng họ giận điên lên, và họ nghiến răng căm thù ông Stêphanô.
Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa, và thấy Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa tôi thấy trời mở ra, và Đức Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa”. Họ liền kêu lớn tiếng, bịt tai lại và nhất tề xông vào ông rồi lôi ra ngoài thành mà ném đá… Họ ném đá ông Stêphanô, đang lúc ông cầu xin rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy hồn con”. Rồi ông quỳ gối xuống, kêu lớn tiếng: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này”. Nói thế rồi, ông an nghỉ” (Cv 6,8-7, 60).
Đối với Giáo Hội Việt Nam hôm nay cũng không khác. HĐGM. VN, một lần nữa mời gọi chúng ta nhìn về cha ông của mình để “tiếp nối bước chân truyền giáo” của các ngài: “Từng đoàn người vượt suối băng rừng. Từng đoàn người ra khơi giữa biển rộng sóng lớn. Biết bao người bỏ mạng nơi rừng sâu núi thẳm. Biết bao người bỏ xác ngoài biển khơi. Nhưng lớp này nằm xuống, lớp khác đứng lên nối tiếp nhau ra đi đem Tin Mừng đến tận cùng thế giới.
Nhờ các vị thừa sai tràn đầy nhiệt huyết, quê hương Việt Nam đã được đón nhận Tin Mừng. Nhờ đới sống đức tin anh dũng của các bậc tiền nhân, đức tin đã không ngừng phát triển, để truyền lại cho chúng ta ngày nay một gia sản quý giá” (Thư mục vụ 2003).
Sau khi nghe những lời ấy, có lẽ thái độ thích hợp nhất của chúng ta lúc này là lặng đi để có thể tra vấn lương tâm mình. Một lần thinh lặng, để một lần nữa, ta ý thức rằng, ơn gọi truyền giáo là ơn gọi cấp bách, đã từ thôi thúc cha ông mình, thì hôm nay sự thúc bách ấy vẫn mới nguyên, vẫn đòi mỗi người dấn thân mình y như thế!
III. KHÔNG THỂ KHÔNG CẦU NGUYỆN
Nói gì thì nói, điều quan trọng nhất vẫn là cầu nguyện. Để có thể làm tròn sứ mạng Truyền giáo: mang Chúa Kitô làm quà tặng, trao tặng anh chị em của mình, chúng ta đừng quyên rằng, việc cầu nguyện là việc làm trước tiên, và là việc ưu tiên hàng đầu. Nếu muốn trao tặng quà, trong tay phải có quà, và muốn đưa Chúa Kitô đến với anh chị em, tâm hồn phải có Chúa Kitô, thì chỉ có cầu nguyện và cầu nguyện bằng tất cả lòng tin, niềm hy vọng, lòng mến yêu, sự tôn thờ sốt sắng, ta mới thấy lòng khao khát Chúa thẳm sâu. Chính khi ta đói khát Thiên Chúa thật nơi tâm hồn mình, đó mới là dấu hiệu có Chúa trong ta.
Ý thức truyền giáo không bao giờ xuất phát từ một tâm hồn đầy, đúng hơn, là một tâm hồn không thấy mình khao khát Chúa. Vì thế, nếu ta lo toan quá nhiều, bộn bề với bao nhiêu việc, có khi là những công việc không đâu, hay không hoạch định cho mình những công tác nào ưu tiên, việc làm nào cần phải cắt bỏ, việc làm nào tuyệt đối không được phép làm…, chắc chắn không bao giờ ta thấy mình thiếu Chúa.
Không bao giờ thấy mình khao khát Chúa, là một nguy hại cho đời sống đức tin đã vậy, nó còn tạo nên một khoảng cách trong lòng mình càng lúc càng xa Thiên Chúa, làm cho bản thân thất vọng về Chúa, không còn cảm thấy muốn vươn lên. Để xảy ra như thế, người linh mục đã đánh mất, không chỉ bản thân mình, bên cạnh đó còn đánh mất cả tâm hồn anh chị em mà Chúa giao cho mình chăm sóc. Sự nguy hại như thế không nhỏ chút nào. Nó sẽ biến ta thay vì thành một nhà truyền giáo, lại có thể gieo rắc những gì khác hơn không thuộc về Thiên Chúa.
Trong thư mục vụ của HĐGM. VN, phần đề nghị “Những việc làm cụ thể”, các Đức Giám mục đã không nói đến một điều gì cao xa, nhưng trước tiên vẫn chính là việc cầu nguyện: “Cầu nguyện cho việc truyền giáo. Đây là việc quan trọng hàng đầu”.
Công tác truyền giáo là một công tác đặc biệt, khác mọi công tác bình thường khác. Nếu trong mọi công tác, ta càng có đầy bao nhiêu, thì càng dễ ban phát bấy nhiêu. Còn trong công tác truyền giáo, ta càng thấy mình đói Thiên Chúa, càng khao khát Chúa Kitô mãnh liệt bao nhiêu, thì lại càng giới thiệu Chúa một cách đầy xác tín, mạnh mẽ, nhiệt huyết và thành công bấy nhiêu. Vì những công tác khác, khi đầy là ta có, còn việc rao giảng Tin Mừng, khi thấy mình cần Chúa hơn, mình quá mong manh, yếu đuối, lẻ loi, nhiều khuyết điểm… lại là lúc ta giàu có Thiên Chúa để mà cho đi.
Vậy để nung nấu tâm hồn mình, chỉ có một cách duy nhất là chìm đắm trong cầu nguyện, để chính đời sống cầu nguyện ấy thẩm thấu trong từng chi tiết, từng biểu hiện của mình, nhờ đó bản thân sẽ mỗi ngày một khao khát Chúa hơn. Vì sự khao khát, ta
sẽ dám dấn thân cho Chúa hơn. Khao khát và dấn thân trong nỗ lực từng ngày như thế, chúng ta sẽ nên những chứng tá đích thực trong đời thường mà mình đang sống. Vì một nguyên tắc không thể sai chạy trong việc truyền giáo: truyền giáo đòi phải có chứng tá, truyền giáo mới hiệu quả.
III. MỘT LỜI CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giêsu, nhận lãnh lời mời gọi của Chúa năm xưa: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo. Ai tin và chịu phép rửa, sẽ được cứu độ; còn ai không tin thì sẽ bị kết án” (Mc 16, 16), Giáo Hội, kể từ buổi bình minh của mình, do các thánh tông đồ trực cai quản, đến nay đã có một sức sống hàng ngàn năm, vẫn không ngừng lên đường truyền giáo.
Mỗi thời đại, mỗi giai đoạn của cuộc sống, đều có những khó khăn trong nỗ lực mang ơn cứu độ của Chúa trao cho thế giới. Nhất là thời buổi mà chúng con đang sống hôm nay, giữa lòng của một thế giới đầy tục hóa, một thế giới giải thiêng, không còn nhận ra vận mạng của mình bởi đâu và thuộc về ai nữa. Thậm chí phong trào chống đối Thiên Chúa, dường như cũng lướt qua dần, thay vào đó là một não trạng nguy hiểm hơn: có Chúa hay không, không cần thiết, không quan trọng. Vì nếu chống đối Thiên Chúa, có khi đó là khởi điểm của một đức tin, bởi cứ theo lý luận bình thường, thì phải tin rằng có, mới có thể chống. Nhưng khi người ta có thái độ hờ hửng, thái độ đứng bên lề đức tin để giải quyết vấn đề của mình, không liên quan gì đến Thiên Chúa, người ta trở thành kẻ ngông cuồng đến điên dại trong mọi cư xử của mình. Như thế thì không việc làm nào, người ta không dám làm, dẫu là xấu xa nhất, nguy hại nhất.
Và từ thực tế của não trạng tẩy chay Thiên Chúa ấy, lôi kéo người ta lún sâu dần vào chủ nghĩa hưởng thụ, chủ nghĩa vật chất, chủ nghĩa bạo lực, chủ nghĩa thực dụng… và chỉ có duy thế tục mà thôi. Chưa hết, giữa thế giới mà chúng con đang đồng hành, còn là một thế giới đầy hận thù, giành giật, chiến tranh, khủng bố, tai ương…
Vì thế chúng con cảm thấy mệt mỏi, chán chường khi lời rao giảng về tình yêu, bao dung, nghèo khó, tha thứ… theo đòi hỏi của Tin Mừng, càng lúc như càng trở thành một tiếng la giữa sa mạc, hay giữa một khoảng không vô tận nào đó. Một tiếng la thuộc về chân lý mà sao quá lạc lỏng, quá xa cách với suy nghĩ của con người. chúng con có cảm tưởng rằng, tiếng la ấy, cuối cùng chỉ dội về cho mình mà thôi.
Vì thế chúng con nguyện xin Chúa đừng bỏ rơi chúng con trong vạn nẻo cuộc đời. Xin cho chúng con được làm men, làm muối, làm chứng ta cho Chúa đã vậy, nhưng còn một điều quan trọng không kém: xin cho chúng son sắt một lòng tin không dễ gì mai một, không dễ gì lung lay, để dù cho hoàn cảnh nào đi nữa, chính đức tin ấy sẽ thúc đẩy chúng con bước tới chớ không chùng bước.
Lạy Chúa, xin cho đôi chân chúng con luôn bước đi chứ đừng dừng lại, cánh tay chúng con giơ cao chứ đừng buông xuôi; bàn tay chúng con mở ra chứ đừng khép chặt và cổ họng chúng con gào to chứ đừng ngậm miệng, để cho Lời Chúa được lan tỏa, để cho đời sống của chúng con minh chứng Lời Chúa qua từng hành động của mình, và hãnh diện ra đi gieo Lời ấy bằng cả một đời đã được Chúa ban, cho đến hơi thở sau cùng của cuộc đời mỗi người chúng con.
Xin cho chúng con tâm nguyện rằng: Linh mục chỉ là dụng cụ trong tay Thiên Chúa. Vì thế hãy cứ gieo hạt giống Tin Mừng, gieo khắp nơi, gieo mọi lúc. Xin giúp chúng con tin rằng, người gieo hạt giống Lời Chúa, nếu chỉ là kẻ bất lực, thì quyền năng Thiên Chúa sẽ mạnh mẽ. Chỉ có Chúa mới làm cho xấu trở nên tốt. Dẫu cho người gieo là chính linh mục có sống trong tội lỗi đi nữa, thì chỉ có Chúa mới có thể rút ra điều tốt từ những gì mà trong con mắt con người chỉ là cái xấu.
Mãi mãi, xin cho chúng con biết tự nhủ: Hãy gieo Lời Chúa và hãy tin mãnh liệt rằng, hạt giống Lời Chúa vẫn nảy mầm và mọc lên, dù đêm hay ngày và người gieo ngủ hay thức (Mc 4, 27). Có thể có hạt rơi trên sỏi đá, rơi trên đất khô cằn. Nhưng sẽ có những hạt rơi trên đất tốt và sinh hoa kết trái: hạt được một trăm, hạt được sáu mươi, hạt được ba mươi (Mt 13, 8).