Ngày 24-11-2002, Thánh Bộ Đức Tin của Toà Thánh Vatican đã công bố những hướng dẫn cho các tín hữu khi tham gia vào đời sống chính trị của các quốc gia. Tài liệu viết: "Thánh Thomas More, người đã được chọn làm quan thày của các nhà lãnh đạo quốc gia và chính khách đã dùng chính cuộc sống và sự chết của ngài để dạy chúng ta rằng con người không thể tách biệt khỏi Thiên Chúa, cũng như chính trị không thể tách biệt khỏi luân lý. Đối diện với những nhu cầu đạo đức căn bản và bất khả thay đổi, các Kitô hữu phải nhận thức rằng điều đang bị lâm nguy là căn bản của luật luân lý, liên quan đến sự toàn thiện của con người. Đó là những vụ liên quan đến luật lệ về phá thai và án tử hình. Những luật lệ này phải bảo vệ quyền sống căn bản, không đước tách khỏi quan niệm về sự chết tự nhiên." Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây cho người Công Giáo là có nên ủng hộ những vụ giết người không? Đối với vấn đề phá thai thì câu trả lời dứt khoát là "không". Nhưng đối với án tử hình, mặc dù giáo huấn hiện đại của Giáo hội Công Giáo cũng trả lời là "không", nhưng còn minh định thêm rằng đây không phải là vấn đề luân lý bình thường, nên cũng có thể thay đổi tùy hoàn cảnh khác nữa.

I.- KHÁI NIỆM VỀ ÁN TỬ HÌNH

a) Theo Kinh Thánh và cổ luật

Trong Cựu Ước, chúng ta thường gặp những câu: "Mắt đền mắt, răng đền răng" (Leviticus 24:20, Exodus 21:24). Có nghĩa là ai móc mắt tôi thì tôi có quyền móc mắt lại người đó hoặc ai lấy mạng sống tôi thì người đó cũng sẽ phải mất mạng sống. Câu Kinh Thánh dưới đây cũng bênh án tử hình: "Ai lấy đi mạng sống của người khác thì người đó cũng sẽ phải chết" (Leviticus 24:17).

Tuy nhiên, cũng trong Cựu Ước, những người chống án tử hình lại trưng ra được những câu khá thời danh: "Thiên Chúa nói rằng: Ta chẳng vui gì khi thấy kẻ gian ác phải chết, nhưng vui khi nó thay đổi đường lối để được sống." (Ezekiel 33:11).

Trước những câu Kinh Thánh có vẻ như nghịch nhau này, các nhà chuyên khảo Kinh Thánh dạy chúng ta đừng hiểu theo nghĩa đen từng lời của Kinh Thánh, mà phải tìm hiểu khi nào và tại sao Kinh Thánh được viết ra. Theo Đức Tổng Giám Mục Daniel E. Pilarczyk, câu Kinh Thánh "mắt đền mắt, răng đền răng" được nêu ra với chủ đích bảo vệ những người khởi xướng bạo hành không bị trừng phạt một cách vô hạn định, chứ không có ý thừa nhận sự trả thù của nạn nhân. (Bài viết "Mười hai vấn đề nan giải ").



Bước vào thời đại Chúa Giêsu, rõ rệt là luật lệ đã cho phép dùng hình phạt tử hình, vì chính Chúa đã bị xử tử do bản án của các Thày Cả Thượng Phẩm. Ngược lại, trong suốt 3 năm giảng đạo, Chúa luôn luôn cổ võ sự tha thứ, hòa giải và cứu chuộc. (Xem Bài Giảng Trên Núi về 8 mối phúc thật, Matthêu, 5:1-12; 5:21-26). Chúa đã công khai bác bỏ luật trả thù như sau: "Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Mắt đền mắt, răng đền răng. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để lấy áo trong của anh, thì hãy để cho nó lấy cả áo ngoài. Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm. Ai xin, thì hãy cho, ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi." (Mt. 5: 38-42)

Hậu quả của những lời lẽ không rõ rệt trong Thánh Kinh là những giáo huấn của Giáo Hội về án tử hình cũng lần lượt thay đổi theo thời gian. Dưới thời các Thánh Tông Đồ và Giáo Hội sơ khai, do ảnh hưởng các lời giảng dạy của Chúa, án tử hình đã không được chấp nhận, ví dụ thời Clement of Rome (năm 101) và Justin Martyr (năm 165), nhưng dưới thời đế quốc La Mã, việc chống án tử hình đã giảm dần.

Thánh Tiến Sĩ Augustinô chấp nhận án tử hình như là phương tiện làm nản lòng những người hiếu sát và bảo vệ những nạn nhân vô tội. Đến thời Trung Cổ, Thánh Tiến Sĩ Tôma Aquinô cũng lập lại quan điểm này. Ngài dạy rằng nếu những công dân tốt "được bảo vệ và cứu sống khỏi những hành động hung ác của kẻ sát nhân, thì hung thủ phải bị luật pháp xử tử." Hơn nữa, cũng theo thánh Tôma, việc hành quyết những kẻ sát nhân sẽ làm nản lòng những người khác cũng đang toan tính giết hại người và thúc giục chúng phải cải sửa.

Đức TGM Daniel E. Pilarczyk viết rằng: "Trong khi xã hội luôn luôn có quyền tự vệ để chống lại những kẻ phá hoại, thì quyền hành quyết tội nhân không còn cần thiết, không hữu dụng hoặc không có chính nghĩa nữa. Nguyên tắc căn bản không thay đổi, nhưng việc áp dụng tuy thích hợp với hoàn cảnh xã hội khác, nhưng nay không còn thích hợp với nền văn hóa và thời đại chúng ta nữa." (id.)

b) Bộ Giáo Lý mới

Bộ Giáo Lý mới của Hội Thánh đã phản ảnh quan niệm cổ truyền khi xác định rằng án tử hình có thể chấp nhận được trong những trường hợp cực kỳ nặng nề. "Về điểm này, giáo huấn truyền thống của Giáo Hội công nhận chính quyền hợp pháp có quyền và có bổn phận dùng những hình phạt thích đáng để trừng trị các tội phạm, không loại trừ án tử hình đối với những trường hợp các tội phạm rất nặng nề." (điều 2266) Tuy nhiên, Bộ Giáo Lý lại thêm rằng: "Nếu các phương tiện không đổ máu tỏ ra đủ để bảo vệ các sinh mạng, chống lại kẻ gây hấn, và để bảo toàn trật tự chung và an ninh của mọi người, thì các nhà cầm quyền sẽ chỉ sử dụng các phương tiện này thôi, vì các phương tiện này phù hợp với các điều kiện cụ thể của công ích hơn, và cũng phù hợp với nhân phẩm con người ta hơn." (điều 2267) Trong thông điệp "Evangelium Vitae" (Đời Sống Phúc Âm), Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết rằng: "Ngày nay, trên thực tế,... những trường hợp quốc gia cần phải hành quyết tội nhân thì thật rất hiếm, nếu không nói là không còn thực sự tồn tại nữa."

c) Trên thế giới

Công Ước quốc tế Liên Hiệp Quốc về các quyền dân sự và chính trị đã chống lại án tử hình. Trên 100 quốc gia trên thế giới đã loại bỏ án tử hình trong văn bản luật pháp hoặc thực tế không thi hành án nữa. Nhưng Hoa Kỳ là một trong số rất ít quốc gia vẫn còn duy trì án tử hình, như Trung Quốc, Iran, Libya, Syria, Việt Nam....

d) Tại Hoa Kỳ

Vào năm 1966, chưa tới một nửa dân chúng Hoa Kỳ ủng hộ án tử hình. Nhưng ngày nay cuộc thăm dò cho thấy số người tán thành án tử hình tăng lên 75%. Tại sao người Mỹ lại thay đổi quan niệm một cách nhanh chóng như vậy? Câu trả lời là tội phạm bạo hành tăng quá nhanh khiến dân chúng rất lo ngại và thất vọng. Họ bảo nhau: Phải làm một cái gì để giảm thiểu tội phạm! Và nhiều người đã nghĩ ngay đến án tử hình như một biện pháp phòng ngừa. Không phải chỉ dân chúng cổ võ án tử hình mà ngay chính quyền cũng khuyến cáo dùng án tử hình để đối phó với nạn tội phạm ngày một gia tăng. Người ta trở về với quan niệm dùng án tử hình để làm nản lòng kẻ phạm tội và cải sửa những thiệt hại gây cho xã hội.

Hiện nay, có 38 tiểu bang trên tổng số 50 tiểu bang của Hoa Kỳ chấp nhận án tử hình. Năm 1994, chính phủ liên bang Hoa Kỳ đã ban hành luật chống tội ác bằng cách tăng một số tội danh đang từ 2 lên tới 60 sẽ chịu hình phạt tối đa là tử hình.

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ cũng đã can thiệp vào vấn đề này. Năm 1967, toà án tối cao này ra lệnh đình chỉ mọi cuộc hành quyết các tử tội trong lúc tòa cứu xét tính cách hợp hiến của án tử hình. Có hai bản án quan trọng được tuyên bố: Năm 1972, toà truyền hủy những luật quy định hình phạt tử hình, vì trong số các tử tội, người nghèo và thiểu số quá đông so với những thành phần khác. Năm 1987, Tối Cao Pháp Viện, trong vụ án McCleskey vs. Kemp, đã công nhận cuộc khảo cứu của David Baldus của viện Đại Học Georgia kết luận rằng thủ phạm trong những vụ giết người da trắng hầu như lãnh án tử hình nhiều hơn là trong những vụ giết người da đen. Điều này ngụ ý rằng sinh mạng những người da trắng giá trị hơn sinh mạng người da đen. Dầu vậy, vào năm 1976, Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ đã công nhận án tử hình trở lại, khiến cho việc hành quyết tử tội bắt đầu tái diễn trên đất Hoa Kỳ vào năm 1977. Hiện trên toàn quốc Hoa Kỳ có khoảng 3.500 tử tội đang chờ ngày bị hành quyết.



II.- BÊNH ÁN TỬ HÌNH

Dưới đây là những lý lẽ chính để duy trì án tử hình:

1.- Kinh Thánh đã viết rằng: "Nếu có gây tổn thương, thì ngươi phải lấy mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, vết bỏng đền vết bỏng, vết thương đền vết thương, vết bầm đền vết bầm." (Exodus 21: 23-25). Thánh Phaolô viết: "Mỗi người phải phục tùng chính quyền... vì họ mang gươm không phải không có lý do." (Rm 13:1-7). Thánh Phêrô cùng chung một lập trường: "Anh em hãy tuân phục mọi thể chế do loài người đặt ra: dù là vua, người nắm quyền tối cao, dù là quan, sứ giả của nhà vua để trừng phạt kẻ làm điều ác và khen thưởng người làm điều thiện." (1 Pr 2: 13-14)

2.- Thiên Chúa đã ban cho mỗi người một đời sống vô cùng quý giá, cho nên khi kẻ sát nhân đã tước đoạt sự sống người khác thì chỉ có mạng sống của chính hung thủ mới đền bù được mạng sống của nạn nhân.

3.- Nhờ án tử hình mà cuộc sống trong xã hội được an toàn hơn do việc loại trừ những kẻ giết người ra khỏi đời sống xã hội, miễn sao xã hội phải có những luật lệ ngăn ngừa các vụ xử tử lầm và phải theo đúng những tiêu chuẩn do Tối Cao Pháp Viện ấn định.

4.- Hậu quả của án tử hình là làm nản chí những kẻ sát nhân không dám phạm tội ác, vì khi biết rằng nếu tra tay vào vụ giết người thì chính họ cũng sẽ mất mạng.

(còn tiếp 1 kỳ)