Một vài kỉ niệm tưởng nhớ tới người bạn Phêrô Hồ Thành Việt, sáng lập VNI
Kỹ sư Hồ Thành Việt, sáng lập viên Bộ chữ Việt Nam VNI sử dụng trên máy điện toán và là chủ hãng VNISoft đã từ trần tại tư gia ở Fountain Valley, California hôm 28-8-2003, hưởng thọ 49 tuổi. Anh Hồ thành Việt sinh ngày 20-7-1955 tại Nha Trang, Việt Nam.
Ba của anh là người Công Giáo và khi anh Việt sinh ra anh được rửa tội lấy tên thánh là Phêrô, sau này khi qua Hoa Kỳ, anh nhận thêm tên gọi là John Hồ thành Việt, Mẹ của anh theo đạo Phật Giáo. Khi kết hôn với chị Kim, gia đình bên ngoại cũng theo Phật Giáo. Hai con của Anh là Hồ thanh Huy 11 tuổi và Hồ thanh Hoàng 9 tuổi cũng đã được chính tôi ban phép Thanh Tẩy và do nhà văn Quyên Di đỡ đầu. Do đó lễ nghi an táng cho Anh theo ý muốn của gia đình được cử hành theo cả hai nghi thức tôn giáo.
Tin anh Việt qua đời là một tin bất ngờ. Sự ra đi của Anh để lại thương tiếc cho biết bao nhiêu người, vì nhờ những sáng kiến của Anh mà việc sử dụng ngôn ngữ Việt trong máy điện toán đã trở nên dễ dàng và thông dụng hơn.
Đặc biệt trong giới Công Giáo Việt Nam, hầu hết các linh mục, nam nữ tu sĩ, các cộng đoàn CGVN, các giáo xứ, cả ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam, hầu hết đều sử dụng bộ chữ VNI. Ngay từ thời kỳ sơ khai (vào năm 1985) của tiếng Việt trên điện toán, kỹ sư Hồ Thành Việt đã làm việc sát cánh với tôi trong việc nghiên cứu chữ Việt trên máy điện toán, chương trình hóa cách đánh máy chữ Việt trên bàn máy điện toán và cách hiển thị tiếng Việt trên màn ảnh.
Tôi ngồi viết lại những dòng kỉ niệm sau đây để tưởng nhớ một một người có công với nền văn hóa Việt Nam, một người cộng tác chân thành, một người bạn thân thiết của tôi.
Tôi gặp kỹ sư Hồ Thành Việt trong một hoàn cảnh cũng thật bất ngờ. Vào đầu năm 1985, khi đó, tôi mới di chuyển về Miền Nam California trong một chương trình nghiên cứu xã hội về các Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam mà Cha Silvano Tomasi, lúc đó làm giám đốc Chương Trình Tị Nạn thuộc Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã nhờ tôi thực hiện. Vì thấy, tiềm năng sử dụng máy điện toán là một nhu cầu khẩn thiết trong tương lai, đàng khác với kinh nghiệm là chủ bút cho nguyệt san Dân Chúa Mỹ châu mà tôi điều hành, khi phải bỏ dấu tiếng Việt rất là vất vả và mất thời giờ, nên lúc đó, tôi đã nhờ một kỹ sư điện toán người Hoa Kỳ giúp thực hiện chữ Việt trên điện toán. Khi nghe biết rằng tôi có ý định đó và đang thực hiện, thì cùng lúc tôi được một số các kỹ sư Việt Nam trong vùng Nam Cali tìm đến hợp tác, người đầu tiên đến với tôi là Anh Hồ Thành Việt.
Anh Hồ Thành Việt đến với tôi mang theo một bàn máy bằng tiếng Việt to gấp hai bàn máy chữ thông thường, vì trên bàn máy này anh có làm thêm các dấu tiếng Việt sẵn. Anh trình bày cho tôi về khả năng đánh tiếng Việt hiển thị được trên máy điện toán, nhưng việc in ra tiếng Việt còn trở ngại vì khi đó còn dùng DOS. Trong thời kỳ sơ khai này chưa có Microsoft windows, chương trình phải viết để sữ dụng trong DOS, nên lúc đầu bộ nhớ tiếng Việt phải ghi trực tiếp vào một thẻ riêng (hardware) và đốt (burn) vào trong memory rom của máy luôn.
Một nhóm anh em khác đến gặp tôi, đó là anh Việt Linh và anh Nhiêu, chủ nhân Việt Toán (sau này làm ra bộ chữ Việt Toán). Các anh cũng có chương trình giao dịch đánh máy và hiển thị chữ Việt trên điện toán, nhưng việc in ra tiếng Việt cũng còn là một trở ngại.
Nhóm chuyên viên thứ ba gặp tôi đó là anh Nguyễn Việt và chị Sương là hai kỹ sư rất tài ba mà sau này hoàn thành bộ chữ VNU của VietLab và hợp tác với một kỹ sư tại nhật báo Người Việt.
Trong nhiều tháng trời, tôi đã quy tụ cả 3 nhóm là anh Hồ Thành Việt, anh Nguyễn Việt, chị Sương, và các anh nhóm Việt Toán, ngồi lại chung với nhau để chia sẻ kinh nghiệm và sáng kiện trong việc hoàn thành bộ chữ duy nhất sử dụng cho điện toán. Lúc đầu có những chia sẻ rất chân thành và ngay cả việc tiết lộ những “soft code”, thảo chương làm thế nào hiển thị chữ Việt trên máy điện toán. Tuy nhiên, có những trở ngại không thể vượt qua được đó là: thứ 1/ quy ước cách đánh máy và chỉ định các nút trên bàn máy để đánh chữ Việt, cũng như chỉ định các code trống của Microsoft cho các dấu tiếng Việt; thứ 2/ cách vẽ fonts tiếng Việt trên hệ thống DOS. Cách làm fonts tiếng Việt do anh Hồ Việt VNI thì vẽ nguyên cả mẫu tự riêng, tỉ dụ chữ ô thì làm chữ riêng cả o và dấu mũ chung nhau, còn các vị khác thì chỉ vẽ nguyên dấu mũ (^) và dùng chữ o sẵn có. Hai đàng đều có những điểm lợi và bất lợi.
Cách thế của VNI thì tuy là một file cho font sẽ dài và to hơn, nhưng chữ in ra đẹp hơn, Còn cách của các vị khác giản tiện, nhưng in ra sẽ khó hơn và không đẹp, nhất là khi dùng font chữ to. Chúng ta nhớ là thời kỳ đó chưa có thẻ graphic mode để giao dạng với chữ viết. Giữa năm 1986 mới có thẻ graphic cho màn monitor)
Việc hiển thị chữ Việt trên DOS đã khó khăn, nhưng làm thảo chương để in ra tiếng Việt trên máy tính lại càng khó khăn hơn. Thời kỳ đó đa số máy in còn sử dụng dot matrix, nên muốn in tiếng Việt phải dùng hàng dưới in mẫu tự và hàng trên in đấu.
Đến khoảng năm 1986, khi có graphic card và máy in bước sang trình độ tân tiến hơn. cho phép người sử dụng được biến code của Microsoft làm dấu riêng tự mình sáng kiến thì việc in tiếng Việt mới thực sự thấy có “ánh sáng”.
Bộ chữ Việt VNI mà anh Hồ Thành Việt hoàn thành đầu tiên đã được anh “burn” vào một bộ nhớ riêng, và cho vào một thẻ card do chính anh làm riêng (đàng sau có nút vài bật mở tắt cho khi muốn đánh máy tiếng Việt) và đã được anh tặng cho tôi để sử dụng trong máy điện toán của tôi vào năm 1986. Tôi vẫn còn giữ làm kỉ niệm.
Mấy tháng sau đó thì bộ chữ Việt Linh, Việt Toán, và VietLab cũng ra đời. Mỗi chương trình đều có những sắc thái riêng và cách in riêng, và nhất là code dùng cho dấu tiếng Việt đều riêng rẽ.
Đã đôi ba lần, tôi có gắng dàn xếp lại, để 3 nhóm làm việc với nhau đi đến một code tiếng Việt duy nhất hầu đễ dàng cho người sử dụng, nhưng cố gắng của tôi đã không thành đạt, vì mỗi nhóm đều có một số những người ủng hộ và đã dùng các bộ chữ khác nhau và đã được tung ra thị trường, nên những người chủ trương không muốn thay đổi code tiếng Việt của mình nữa.
Chính cá nhân tôi lúc đầu cũng sử dụng cả 3 hệ thống đánh tiếng Việt trên đây để so sánh và cân nhắc. Tuy nhiên, vì không thể đi đến một code tiếng Việt duy nhất, nên cuối cùng tôi đã chọn bộ chữ VNI cho công tác mục vụ của tôi. Và từ đó tôi bắt đầu quảng bá trong giới Công giáo và những bạn bè về việc sử dụng VNI. Lý do mà tôi chọn VNI, vì chính Anh Hồ Thành Việt bắt đầu để hết tâm huyết và nguồn lực vật chất tinh thần cho bộ chữ VNI. Anh bắt đầu mở hãng VNI, lắp ráp máy điện toán, hỗ trợ và chỉ dẫn cách sử dụng và nhất là anh muốn nối tiếp VNI bằng những chương trình hỗ trợ khác cho VNI, vẽ thêm các kiểu chữ mới lạ cho việc in ấn, quyết tâm cống hiến việc phát triển VNI như là một sứ mạng của cuộc đời anh.
Một trong những hãnh diện của chúng tôi và của riêng Anh là lần đầu tiên trong dịp sửa soạn cho Đại Lễ Phong Thánh cho 117 vị Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam vào năm 1987, thì một năm trước vào giữa năm 1986, tờ báo Chứng Nhân Công Giáo in ra 10,000 số mỗi tháng do tôi làm Chủ Nhiệm, đã hoàn toàn được thiết kế, đánh máy in ấn và phát hành dùng máy điện toán và dùng bộ chữ của VNI. Với khả năng điện toán hóa, việc đánh máy và in ấn không còn mất công và thời giờ phải đánh máy bỏ chữ, cắt xén, dán lay-out, cũng như khả năng phân phối. Đây là tờ báo Việt Nam đầu tiên (kể cả từ hải ngoại cũng như tại quốc nội)đã được điện toán hóa và lần đầu tiên được in dưới dạng chữ Việt Nam trên máy điện toán. Thêm vào đó một sự kiện to lớn về hồ sơ địa chỉ của người Việt Nam cũng được hế thống hóa trên máy điện toán, hầu cho việc phát hành được đễ dàng và mau chóng, in địa chỉ tự động hệ thống hóa theo zip code không mất giờ phân chia, để giảm tiền cước phí theo tiêu chuẩn Bưu điện dành cho các Hội đoàn Bất Vụ Lời. Đó là một thành tích đáng được ghi nhớ, và là niềm hãnh diện của Công Giáo Việt Nam. Trong suốt một năm trời sửa soạn cho Phong Thánh, hầu hết các gia đình Việt Nam khi đó nhận được nguyệt san "Chứng Nhân Công Giáo" miễn phí. Và qua đó, chương trình gây qũi cho việc tổ chức Phong Thánh cũng đạt được thành quả vô cùng tốt đẹp.
Thực tế, bên cạnh việc viết softwares nhằm đáp ứng nhu cầu in ấn của người Việt Nam và việc sử dụng điện toán, kỹ sư Hồ Thành Việt và công ty theo đà thời gian tiếp tục thay đổi và tân tiến hóa bộ chữ VNI cho phù hợp với diao diện của các loại windows mới và các máy in từ dot chuyển sang máy in laser và máy in phun mực của nhiều hãng làm máy in khác nhau. VNI cũng cống hei61n các sản phẩm văn hóa khác: các bộ tự điển Việt-Anh và Anh-Việt, tự điển phát âm VNI, nhu liệu hướng dẫn thiếu nhi hải ngoại học tiếng Việt, hoàn thành chữ Việt trong việc sử dụng làm Video và karaoke, Lịch tiếng Việt, v.v…
Xét về mặt thông dụng và tiện dụng, cho đến hơn một năm trước đây khi Unicode được phổ biến, thì VNI là bộ chữ Việt được hầu hết nhà in và các báo Việt Ngữ hải ngoại sử dụng, cũng như tại nhiều đại học Hoa Kỳ như UCI và UCLA... và cả các đại học trong nước như Hà Nội, Bách Khoa, Cần Thơ, Tổng Hợp, Nha Trang, Đà Lạt, v.v…
Về phía các tôn giáo, thì đa số các hội đoàn và cơ quan tôn giáo Việt Nam cũng sử dụng VNI, đặc biệt là trong giới Công Giáo Việt Nam và hải ngoại, hầu như các giáo xứ và hội đoàn đều sử dụng VNI, ngay cả tại Vatican và các cơ sở truyền thông lớn của Giáo Hội. Lý do là vì chỗ quen biết và việc nhất thống trao đổi tin tức và dữ kiện. Ngay từ lúc khởi đầu tôi đã hướng dẫn và giới thiệu giới tu sĩ Công giáo nhất thống việc dùng VNI để cho việc trao đỗi tài liệu và dữ kiện được dễ dàng hệ thống hóa sau này. Cho nên kể như 99% các linh mục tu sĩ đều dùng VNI, tuy dù vẫn có những sản phẩm tiếng Việt được tặng miễn phí.
Thế rồi vào tháng 11 năm 1996, khi internet bắt đầu khởi động mạnh, VietCatholic là mạng luới điện toán Việt Nam đầu tiên đưa font chữ Việt VNI lên mạng internet. Khi đó tôi đã bàn thảo và xác tín cho anh Hồ Thành Việt là để độc giả có cơ hội sử dụng tối đa, VNI cần cho miễn phí một số fonts để khuyến khích người đọc. Chính vì thế mà VNI đã làm những fonts VNI-Times và VNI-Heveltica (chữ thường, chữ nghiêng và chữ đậm) cho miễn phí trên Net.Đây cũng là bước quyết định chiến thuật có sức mạnh ảnh hưởng không nhỏ cho người sử dụng, và nhất là những trang Web khác vào những năm kế tiếp, kéo theo sau một số độc giả đáng kể.
Khi VietCatholic ra mắt cuốn CD ROM đầu tiên VietCatholic 2000, và kế tiếp Thánh Kinh VietCatholic 2001, anh Hồ Thành Việt cũng là người giới thiệu trong buổi ra mắt về các CD văn hóa và tôn giáo phẩm của VietCatholic.
Anh Hồ Thành Việt, không những là người cộng tác đắc lực cho tôi, anh đã từng giúp VietCatholic về kỹ thuật, nhưng còn là một người bạn chân tình thân thiết của tôi. Mỗi lần có những sản phầm VNI nào sắp ra đời, hay bộ chữ VNI nào mới, anh đều biếu tặng tôi trước, một mặt để testing thử hầu đóng góp ý kiến thêm, mặt khác để tôi sẵn có những sản phầm rất hữu dụng trong công tác tông đồ cho tôi và bạn hữu.
Về mặt tinh thần, anh Hồ thành Việt và Chị Kim (người bạn đời của anh) còn dành cho tôi vinh dự là ban phép Thanh Tẩy cho 2 cháu bé của Anh Chị. Tôi rất vui mừng mỗi lần đến thăm anh chị và thấy 2 cháu lớn lên khỏe mạnh và ngoan ngoãn.
Viết lại những kỉ niệm trên đây, để nói lên lòng biết ơn của cá nhân tôi và của VietCatholic về những đóng góp của kỹ Hồ Thành Việt và VNI, không những cho nến văn hóa Việt Nam về mặt kỹ thuật, nhưng còn cả là một công trình sáng tạo mà do việc quyết tâm của anh trong bộ chữ VNI đã tạo được lớp sóng người đông đảo cho việc dễ dàng in ấn các tác phẩm, sách báo, phát huy ngôn ngữ, mở rộng giới tuyến người sử dụng, và cả một cao trao viết tiếng Việt bằng VNI cho việc sưu tập, hệ thống hoá, duy trì, phận định các tài liệu về lịch sử, văn học, biến cố, thời điểm của người Việt Nam trong nước cũng như hải ngoại trong gần 20 năm qua.
Đó là một nguồn tài liệu phong phú mà nếu không có những sáng kiến và sự kiên định theo đuổi lý tưởng của anh, thì chắc hẳn ngành điện toán Việt Nam vẫn chưa thể tiến xa như chúng ta được hưởng thành quả ngày hôm nay.
Anh Hồ thành Việt đã làm nên lịch sử và anh là con người lịch sử của khoa học điện toán Việt Nam. Tôi có niềm hãnh diện vì đã được quen biết và cùng làm việc với anh ngay từ buổi đầu, nhất là lại được anh chia sẻ những kinh nghiệm vui mừng, cũng như những giới phút phấn đấu trên hành trình cuộc đời sự nghiệp của Anh.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh và gia đình, xin Chúa cũng thương nhận linh hồn Phêrô Hồ Thành Việt vào hưởng vinh phúc muôn đời trên Nước Hằng Sống. Nguyện xin Chúa an ủi và là nguồn sức mạnh cho Chị Kim và hai cháu, cùng gia đình trong giờ phút mất mát đau thương của gia đình. Amen.
R.I.P.
Kỹ sư Hồ Thành Việt, sáng lập viên Bộ chữ Việt Nam VNI sử dụng trên máy điện toán và là chủ hãng VNISoft đã từ trần tại tư gia ở Fountain Valley, California hôm 28-8-2003, hưởng thọ 49 tuổi. Anh Hồ thành Việt sinh ngày 20-7-1955 tại Nha Trang, Việt Nam.
Ba của anh là người Công Giáo và khi anh Việt sinh ra anh được rửa tội lấy tên thánh là Phêrô, sau này khi qua Hoa Kỳ, anh nhận thêm tên gọi là John Hồ thành Việt, Mẹ của anh theo đạo Phật Giáo. Khi kết hôn với chị Kim, gia đình bên ngoại cũng theo Phật Giáo. Hai con của Anh là Hồ thanh Huy 11 tuổi và Hồ thanh Hoàng 9 tuổi cũng đã được chính tôi ban phép Thanh Tẩy và do nhà văn Quyên Di đỡ đầu. Do đó lễ nghi an táng cho Anh theo ý muốn của gia đình được cử hành theo cả hai nghi thức tôn giáo.Tin anh Việt qua đời là một tin bất ngờ. Sự ra đi của Anh để lại thương tiếc cho biết bao nhiêu người, vì nhờ những sáng kiến của Anh mà việc sử dụng ngôn ngữ Việt trong máy điện toán đã trở nên dễ dàng và thông dụng hơn.
Đặc biệt trong giới Công Giáo Việt Nam, hầu hết các linh mục, nam nữ tu sĩ, các cộng đoàn CGVN, các giáo xứ, cả ở hải ngoại cũng như tại Việt Nam, hầu hết đều sử dụng bộ chữ VNI. Ngay từ thời kỳ sơ khai (vào năm 1985) của tiếng Việt trên điện toán, kỹ sư Hồ Thành Việt đã làm việc sát cánh với tôi trong việc nghiên cứu chữ Việt trên máy điện toán, chương trình hóa cách đánh máy chữ Việt trên bàn máy điện toán và cách hiển thị tiếng Việt trên màn ảnh.
Tôi ngồi viết lại những dòng kỉ niệm sau đây để tưởng nhớ một một người có công với nền văn hóa Việt Nam, một người cộng tác chân thành, một người bạn thân thiết của tôi.
Tôi gặp kỹ sư Hồ Thành Việt trong một hoàn cảnh cũng thật bất ngờ. Vào đầu năm 1985, khi đó, tôi mới di chuyển về Miền Nam California trong một chương trình nghiên cứu xã hội về các Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam mà Cha Silvano Tomasi, lúc đó làm giám đốc Chương Trình Tị Nạn thuộc Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ, đã nhờ tôi thực hiện. Vì thấy, tiềm năng sử dụng máy điện toán là một nhu cầu khẩn thiết trong tương lai, đàng khác với kinh nghiệm là chủ bút cho nguyệt san Dân Chúa Mỹ châu mà tôi điều hành, khi phải bỏ dấu tiếng Việt rất là vất vả và mất thời giờ, nên lúc đó, tôi đã nhờ một kỹ sư điện toán người Hoa Kỳ giúp thực hiện chữ Việt trên điện toán. Khi nghe biết rằng tôi có ý định đó và đang thực hiện, thì cùng lúc tôi được một số các kỹ sư Việt Nam trong vùng Nam Cali tìm đến hợp tác, người đầu tiên đến với tôi là Anh Hồ Thành Việt.
Anh Hồ Thành Việt đến với tôi mang theo một bàn máy bằng tiếng Việt to gấp hai bàn máy chữ thông thường, vì trên bàn máy này anh có làm thêm các dấu tiếng Việt sẵn. Anh trình bày cho tôi về khả năng đánh tiếng Việt hiển thị được trên máy điện toán, nhưng việc in ra tiếng Việt còn trở ngại vì khi đó còn dùng DOS. Trong thời kỳ sơ khai này chưa có Microsoft windows, chương trình phải viết để sữ dụng trong DOS, nên lúc đầu bộ nhớ tiếng Việt phải ghi trực tiếp vào một thẻ riêng (hardware) và đốt (burn) vào trong memory rom của máy luôn.
Một nhóm anh em khác đến gặp tôi, đó là anh Việt Linh và anh Nhiêu, chủ nhân Việt Toán (sau này làm ra bộ chữ Việt Toán). Các anh cũng có chương trình giao dịch đánh máy và hiển thị chữ Việt trên điện toán, nhưng việc in ra tiếng Việt cũng còn là một trở ngại.
Nhóm chuyên viên thứ ba gặp tôi đó là anh Nguyễn Việt và chị Sương là hai kỹ sư rất tài ba mà sau này hoàn thành bộ chữ VNU của VietLab và hợp tác với một kỹ sư tại nhật báo Người Việt.
Trong nhiều tháng trời, tôi đã quy tụ cả 3 nhóm là anh Hồ Thành Việt, anh Nguyễn Việt, chị Sương, và các anh nhóm Việt Toán, ngồi lại chung với nhau để chia sẻ kinh nghiệm và sáng kiện trong việc hoàn thành bộ chữ duy nhất sử dụng cho điện toán. Lúc đầu có những chia sẻ rất chân thành và ngay cả việc tiết lộ những “soft code”, thảo chương làm thế nào hiển thị chữ Việt trên máy điện toán. Tuy nhiên, có những trở ngại không thể vượt qua được đó là: thứ 1/ quy ước cách đánh máy và chỉ định các nút trên bàn máy để đánh chữ Việt, cũng như chỉ định các code trống của Microsoft cho các dấu tiếng Việt; thứ 2/ cách vẽ fonts tiếng Việt trên hệ thống DOS. Cách làm fonts tiếng Việt do anh Hồ Việt VNI thì vẽ nguyên cả mẫu tự riêng, tỉ dụ chữ ô thì làm chữ riêng cả o và dấu mũ chung nhau, còn các vị khác thì chỉ vẽ nguyên dấu mũ (^) và dùng chữ o sẵn có. Hai đàng đều có những điểm lợi và bất lợi.
Cách thế của VNI thì tuy là một file cho font sẽ dài và to hơn, nhưng chữ in ra đẹp hơn, Còn cách của các vị khác giản tiện, nhưng in ra sẽ khó hơn và không đẹp, nhất là khi dùng font chữ to. Chúng ta nhớ là thời kỳ đó chưa có thẻ graphic mode để giao dạng với chữ viết. Giữa năm 1986 mới có thẻ graphic cho màn monitor)
Việc hiển thị chữ Việt trên DOS đã khó khăn, nhưng làm thảo chương để in ra tiếng Việt trên máy tính lại càng khó khăn hơn. Thời kỳ đó đa số máy in còn sử dụng dot matrix, nên muốn in tiếng Việt phải dùng hàng dưới in mẫu tự và hàng trên in đấu.
Đến khoảng năm 1986, khi có graphic card và máy in bước sang trình độ tân tiến hơn. cho phép người sử dụng được biến code của Microsoft làm dấu riêng tự mình sáng kiến thì việc in tiếng Việt mới thực sự thấy có “ánh sáng”.
Bộ chữ Việt VNI mà anh Hồ Thành Việt hoàn thành đầu tiên đã được anh “burn” vào một bộ nhớ riêng, và cho vào một thẻ card do chính anh làm riêng (đàng sau có nút vài bật mở tắt cho khi muốn đánh máy tiếng Việt) và đã được anh tặng cho tôi để sử dụng trong máy điện toán của tôi vào năm 1986. Tôi vẫn còn giữ làm kỉ niệm.
Mấy tháng sau đó thì bộ chữ Việt Linh, Việt Toán, và VietLab cũng ra đời. Mỗi chương trình đều có những sắc thái riêng và cách in riêng, và nhất là code dùng cho dấu tiếng Việt đều riêng rẽ.
Đã đôi ba lần, tôi có gắng dàn xếp lại, để 3 nhóm làm việc với nhau đi đến một code tiếng Việt duy nhất hầu đễ dàng cho người sử dụng, nhưng cố gắng của tôi đã không thành đạt, vì mỗi nhóm đều có một số những người ủng hộ và đã dùng các bộ chữ khác nhau và đã được tung ra thị trường, nên những người chủ trương không muốn thay đổi code tiếng Việt của mình nữa.
Chính cá nhân tôi lúc đầu cũng sử dụng cả 3 hệ thống đánh tiếng Việt trên đây để so sánh và cân nhắc. Tuy nhiên, vì không thể đi đến một code tiếng Việt duy nhất, nên cuối cùng tôi đã chọn bộ chữ VNI cho công tác mục vụ của tôi. Và từ đó tôi bắt đầu quảng bá trong giới Công giáo và những bạn bè về việc sử dụng VNI. Lý do mà tôi chọn VNI, vì chính Anh Hồ Thành Việt bắt đầu để hết tâm huyết và nguồn lực vật chất tinh thần cho bộ chữ VNI. Anh bắt đầu mở hãng VNI, lắp ráp máy điện toán, hỗ trợ và chỉ dẫn cách sử dụng và nhất là anh muốn nối tiếp VNI bằng những chương trình hỗ trợ khác cho VNI, vẽ thêm các kiểu chữ mới lạ cho việc in ấn, quyết tâm cống hiến việc phát triển VNI như là một sứ mạng của cuộc đời anh.
Một trong những hãnh diện của chúng tôi và của riêng Anh là lần đầu tiên trong dịp sửa soạn cho Đại Lễ Phong Thánh cho 117 vị Anh Hùng Tử Đạo Việt Nam vào năm 1987, thì một năm trước vào giữa năm 1986, tờ báo Chứng Nhân Công Giáo in ra 10,000 số mỗi tháng do tôi làm Chủ Nhiệm, đã hoàn toàn được thiết kế, đánh máy in ấn và phát hành dùng máy điện toán và dùng bộ chữ của VNI. Với khả năng điện toán hóa, việc đánh máy và in ấn không còn mất công và thời giờ phải đánh máy bỏ chữ, cắt xén, dán lay-out, cũng như khả năng phân phối. Đây là tờ báo Việt Nam đầu tiên (kể cả từ hải ngoại cũng như tại quốc nội)đã được điện toán hóa và lần đầu tiên được in dưới dạng chữ Việt Nam trên máy điện toán. Thêm vào đó một sự kiện to lớn về hồ sơ địa chỉ của người Việt Nam cũng được hế thống hóa trên máy điện toán, hầu cho việc phát hành được đễ dàng và mau chóng, in địa chỉ tự động hệ thống hóa theo zip code không mất giờ phân chia, để giảm tiền cước phí theo tiêu chuẩn Bưu điện dành cho các Hội đoàn Bất Vụ Lời. Đó là một thành tích đáng được ghi nhớ, và là niềm hãnh diện của Công Giáo Việt Nam. Trong suốt một năm trời sửa soạn cho Phong Thánh, hầu hết các gia đình Việt Nam khi đó nhận được nguyệt san "Chứng Nhân Công Giáo" miễn phí. Và qua đó, chương trình gây qũi cho việc tổ chức Phong Thánh cũng đạt được thành quả vô cùng tốt đẹp.
Thực tế, bên cạnh việc viết softwares nhằm đáp ứng nhu cầu in ấn của người Việt Nam và việc sử dụng điện toán, kỹ sư Hồ Thành Việt và công ty theo đà thời gian tiếp tục thay đổi và tân tiến hóa bộ chữ VNI cho phù hợp với diao diện của các loại windows mới và các máy in từ dot chuyển sang máy in laser và máy in phun mực của nhiều hãng làm máy in khác nhau. VNI cũng cống hei61n các sản phẩm văn hóa khác: các bộ tự điển Việt-Anh và Anh-Việt, tự điển phát âm VNI, nhu liệu hướng dẫn thiếu nhi hải ngoại học tiếng Việt, hoàn thành chữ Việt trong việc sử dụng làm Video và karaoke, Lịch tiếng Việt, v.v…
Xét về mặt thông dụng và tiện dụng, cho đến hơn một năm trước đây khi Unicode được phổ biến, thì VNI là bộ chữ Việt được hầu hết nhà in và các báo Việt Ngữ hải ngoại sử dụng, cũng như tại nhiều đại học Hoa Kỳ như UCI và UCLA... và cả các đại học trong nước như Hà Nội, Bách Khoa, Cần Thơ, Tổng Hợp, Nha Trang, Đà Lạt, v.v…
Về phía các tôn giáo, thì đa số các hội đoàn và cơ quan tôn giáo Việt Nam cũng sử dụng VNI, đặc biệt là trong giới Công Giáo Việt Nam và hải ngoại, hầu như các giáo xứ và hội đoàn đều sử dụng VNI, ngay cả tại Vatican và các cơ sở truyền thông lớn của Giáo Hội. Lý do là vì chỗ quen biết và việc nhất thống trao đổi tin tức và dữ kiện. Ngay từ lúc khởi đầu tôi đã hướng dẫn và giới thiệu giới tu sĩ Công giáo nhất thống việc dùng VNI để cho việc trao đỗi tài liệu và dữ kiện được dễ dàng hệ thống hóa sau này. Cho nên kể như 99% các linh mục tu sĩ đều dùng VNI, tuy dù vẫn có những sản phẩm tiếng Việt được tặng miễn phí.
Thế rồi vào tháng 11 năm 1996, khi internet bắt đầu khởi động mạnh, VietCatholic là mạng luới điện toán Việt Nam đầu tiên đưa font chữ Việt VNI lên mạng internet. Khi đó tôi đã bàn thảo và xác tín cho anh Hồ Thành Việt là để độc giả có cơ hội sử dụng tối đa, VNI cần cho miễn phí một số fonts để khuyến khích người đọc. Chính vì thế mà VNI đã làm những fonts VNI-Times và VNI-Heveltica (chữ thường, chữ nghiêng và chữ đậm) cho miễn phí trên Net.Đây cũng là bước quyết định chiến thuật có sức mạnh ảnh hưởng không nhỏ cho người sử dụng, và nhất là những trang Web khác vào những năm kế tiếp, kéo theo sau một số độc giả đáng kể.
Khi VietCatholic ra mắt cuốn CD ROM đầu tiên VietCatholic 2000, và kế tiếp Thánh Kinh VietCatholic 2001, anh Hồ Thành Việt cũng là người giới thiệu trong buổi ra mắt về các CD văn hóa và tôn giáo phẩm của VietCatholic.
Anh Hồ Thành Việt, không những là người cộng tác đắc lực cho tôi, anh đã từng giúp VietCatholic về kỹ thuật, nhưng còn là một người bạn chân tình thân thiết của tôi. Mỗi lần có những sản phầm VNI nào sắp ra đời, hay bộ chữ VNI nào mới, anh đều biếu tặng tôi trước, một mặt để testing thử hầu đóng góp ý kiến thêm, mặt khác để tôi sẵn có những sản phầm rất hữu dụng trong công tác tông đồ cho tôi và bạn hữu.
Về mặt tinh thần, anh Hồ thành Việt và Chị Kim (người bạn đời của anh) còn dành cho tôi vinh dự là ban phép Thanh Tẩy cho 2 cháu bé của Anh Chị. Tôi rất vui mừng mỗi lần đến thăm anh chị và thấy 2 cháu lớn lên khỏe mạnh và ngoan ngoãn.
Viết lại những kỉ niệm trên đây, để nói lên lòng biết ơn của cá nhân tôi và của VietCatholic về những đóng góp của kỹ Hồ Thành Việt và VNI, không những cho nến văn hóa Việt Nam về mặt kỹ thuật, nhưng còn cả là một công trình sáng tạo mà do việc quyết tâm của anh trong bộ chữ VNI đã tạo được lớp sóng người đông đảo cho việc dễ dàng in ấn các tác phẩm, sách báo, phát huy ngôn ngữ, mở rộng giới tuyến người sử dụng, và cả một cao trao viết tiếng Việt bằng VNI cho việc sưu tập, hệ thống hoá, duy trì, phận định các tài liệu về lịch sử, văn học, biến cố, thời điểm của người Việt Nam trong nước cũng như hải ngoại trong gần 20 năm qua.
Đó là một nguồn tài liệu phong phú mà nếu không có những sáng kiến và sự kiên định theo đuổi lý tưởng của anh, thì chắc hẳn ngành điện toán Việt Nam vẫn chưa thể tiến xa như chúng ta được hưởng thành quả ngày hôm nay.
Anh Hồ thành Việt đã làm nên lịch sử và anh là con người lịch sử của khoa học điện toán Việt Nam. Tôi có niềm hãnh diện vì đã được quen biết và cùng làm việc với anh ngay từ buổi đầu, nhất là lại được anh chia sẻ những kinh nghiệm vui mừng, cũng như những giới phút phấn đấu trên hành trình cuộc đời sự nghiệp của Anh.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho anh và gia đình, xin Chúa cũng thương nhận linh hồn Phêrô Hồ Thành Việt vào hưởng vinh phúc muôn đời trên Nước Hằng Sống. Nguyện xin Chúa an ủi và là nguồn sức mạnh cho Chị Kim và hai cháu, cùng gia đình trong giờ phút mất mát đau thương của gia đình. Amen.
R.I.P.