Bằng Chứng Lớn Nhất
Trong thư thứ I gởi cho đồ đệ Timôthê, Thánh Phaolô nhắc lại rằng Chúa Giêsu Kitô, trong cuộc thương khó, đã làm chứng trước mặt tổng trấn Philatô “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (I Tm 6,13). Làm chứng về điều gì? Khi nghe Người khẳng định Người có một vương quốc, ông tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên, đã hỏi lại ngay: “Vậy ông là vua sao?” Người đáp” “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật” (x. Ga 18, 36-37). Sự thật nào? Không phải là sự thật về cuộc sống và về sự nghiệp của mình. Nhiều người đã chết và vẫn còn chết hiện nay cho một sự nghiệp bất chính mà vẫn nghĩ rằng nó là chính đáng. Nhưng sự phục sinh, -vâng, chính sự phục sinh làm chứng cho sự thật về Chúa Kitô, như sau này Thánh Phaolô sẽ nói trước Hội đồng Arêopagô ở thành phố Athen: “Thiên Chúa đã cho mọi người một bảo đảm về Đức Giêsu khi cho Người sống lại từ cõi chết” (Cv 17,31).
Cái chết: bằng chứng tối cao cho tình yêu
Cái chết không làm chứng cho chân lý, nhưng cho tình yêu của Chúa Kitô. Hay nói đúng hơn, cái chết làm nên chứng cớ tối cao về tình yêu này như chính Chúa Kitô đã nói: “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Có người sẽ phản bác: “Còn có một tình yêu lớn hơn nữa, đó là tình yêu của kẻ chết vì thù địch của mình”. Thì Chúa Giêsu cũng chính là một con người như thế, và hơn bất cứ ai. Thư gởi giáo đoàn Rôma viết: “Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì những người lương thiện. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,6-8). Và trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho chính những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Có một thứ tu đức phiến diện ca ngợi đau khổ và thập giá như thể tự mình chúng là có giá trị. Chúa Giêsu dạy cho biết chỉ có tình yêu mới đáng cho ta hy sinh tất cả vì nó. Người dạy ta phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ nhau. Đau khổ, thập giá mà thiếu vắng tình yêu thì chỉ còn là tai họa đè bẹp con người mà thôi. Nhưng với tình yêu, tất cả sẽ có một ý nghĩa và gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Thánh Âu-tinh nói: “Khi yêu thì không đau khổ, mà nếu có đau khổ thì người ta sẽ yêu thích cả nỗi khổ ấy”. Sách Công vụ Tồng đồ kể lại: các Tồng Đồ bị điệu ra trước tòa, bị đánh đòn, bị cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh, rồi được thả ra. Các ngài ra về, “lòng hân hoan vui mừng” không phải vì được trả tự do nhưng vì thấy mình đã “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Đối với các Tông Đồ, được chịu khổ vì Đấng mình yêu mến cũng là một ân huệ mà không phải ai cũng có! Tình yêu mạnh hơn sự chết. Có tình yêu –nghĩa là biết mình đang yêu hoặc đang được yêu- thì không sợ gì nữa. Thánh Phaolô đã trải nghiệm mãnh liệt “chân lý” này. Ngài chia sẻ kinh nghiệm ấy trong thư Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm đao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta …” (Rm 8,35-37).
Sự phục sinh: câu trả lời cuối cùng cho mầu nhiệm sự chết.
Cuộc đời không bao giờ hết đau khổ và nước mắt. Nhưng người môn đệ Chúa Kitô không chỉ bằng lòng với việc ghi nhận đau khổ như một sự kiện khách quan, rồi để mặc nó. Đau khổ phải bị loại bỏ, phải được vượt qua. Mọi người phải góp phần chống lại nó dù biết rằng nó mãi mãi là một phần của cuộc đời trần gian. Ít nhất là tránh đừng gây ra đau khổ cho mình hay cho kẻ khác.
Người Kitô hữu không thể nói đức tin không mang lại câu trả lời cho huyền nhiệm đau khổ và sự chết. Làm thế nào để bảo đảm với ai đó là trong chiếc ly nước không có thuốc độc? Có một cách: mình uống chén nước trước họ! Đó là điều Thiên Chúa đã làm với con người. Người đã uống chén đắng của cuộc khổ nạn. “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Thư Do-thái 2,18). Nỗi khổ của con người không thể bị đầu độc, không chỉ chứa toàn là tiêu cực, mất mát, phi lý nếu chính Thiên Chúa đã chọn uống cạn chén. Dưới đáy cái chén phải có một viên ngọc.
Viên ngọc ấy có tên là ơn phục sinh. “Tôi nghĩ rằng, những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Và sách Khải huyền: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chằng còn tang tóc, kêu than và đau đớn nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Chứng từ của các vị tử đạo.
Sau Chúa Giêsu, những kẻ đã làm chứng “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp”, đó là các vị tử đạo. Thời đầu Giáo Hội, các truyện kể về các ngài được gọi là “bài thương khó” (Passio) giống như bài thương khó của Chúa Giêsu Kitô, mà chúng ta nghe nhiều lần trong Tuần Thánh. Người ta đọc truyện tử đạo và phổ biến rộng khắp trong Giáo Hội với một lòng tôn kính bao la. Ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, người Kitô hữu lại phải trải qua cuộc thử thách rất nặng nề của bắt bớ và tử đạo.
Có một đặc điểm phân biệt những truyện tử đạo chân chính với những truyện mang tính “ hư truyền” người ta “chế biến” ra sau những cuộc bách hại với những mục đích khác nhau, đó là: trong những truyện chân chính, không thấy dấu vết “bút chiến” nào chống lại những kẻ bách hại; tác giả chỉ chú tâm vào hành động anh dũng của các vị tử đạo, chứ không để ý tới sự tàn bạo của các quan tòa và bọn lý hình mà lên án. Thánh Cyprianô tử đạo đã đi tới chỗ truyền cho người nhà biếu tên đao phủ sắp chém đầu ngài hai mươi lăm đồng tiền vàng. Các thánh tử đạo quả xứng là môn đệ của Đấng đã cầu nguyện trước khi chết: “Lạy Cha, xin tha cho họ …”
Tôi nhớ đã đọc một lời tâm sự của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói đại ý rằng ngài rất ái ngại mỗi khi có nhà báo đến phỏng vấn, vì họ thường tìm mọi cách để ngài “nói xấu” về những kẻ bắt bớ giam cầm ngài. Một bằng chứng về sự thánh thiện chân thật của Đức Hồng Y chính là ở chỗ ngài luôn luôn giữ một tâm trạng bình an, hiền hòa và quảng đại với hết mọi người kể cả những kẻ thù nghịch với ngài.
Và làm sao chúng ta không khâm phục một “chứng từ cao đẹp” khác của một vị tử đạo nổi tiếng ngày nay, ông Shahbaz Bhatti, người Pakistan? Ông là người công giáo duy nhất trong chính phủ Hồi giáo Pakistan, với chức vụ bộ trưởng phụ trách những cộng đồng người thiểu số. Ông đề nghị bãi bỏ những đạo luật chống báng bổ (anti-blasphemy laws) và công khai bênh vực Asia Bibi, một người Kitô hữu mẹ gia đình bị kết án tử hình theo chính đạo luật bất công này. Trong bản Di chúc của mình, ông viết những lời khẳng khái sau đây:
“Những nhân vật cao cấp trong chính quyền đã đề nghị với tôi và họ yêu cầu tôi từ bỏ cuộc chiến đấu, nhưng tôi đã luôn luôn từ chối, ngay cả khi biết rằng tôi đang liều mất mạng. Tôi không tìm kiếm sự nổi danh, tôi không muốn những vị trí quyền lực. Tôi chỉ muốn một chỗ dưới chân Chúa Giêsu. Tôi muốn rằng đời sống tôi, tính tình tôi, các hành động của tôi lên tiếng thay cho tôi và nói rằng tôi đang đi theo Chúa Giêsu Kitô. Ước muốn này thật mạnh mẽ trong tôi đến nỗi tôi coi mình là rất may mắn nếu –trong nỗ lực của tôi và trong cuộc chiến đấu của tôi nhằm giúp người thiếu thốn, kẻ khó nghèo, người Kitô hữu bị bắt bớ của Pakistan – tôi được Chúa Giêsu Kitô vui lòng chấp nhận hiến lễ đời tôi. Tôi muốn sống cho Chúa Kitô và tôi muốn chết vì Người”.
Ngày 2 tháng 3 năm 2011, ông đã bị một nhóm khủng bố thuộc tổ chức Al-Quêđa ám sát. Một năm sau Giáo Hội Pakistan đã nhất trí xin phong thánh cho vị tử đạo của mình.
Có một trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu từ trần trên thập giá. “Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: ‘Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.’”(Mt 27,54). Nhưng một trận địa chấn còn dữ dội hơn xảy đến khi Người phục sinh. “Thiên thần Chúa từ trời xuống, lăn tảng đá ra rồi ngồi lên trên.” (Mt 28,2). Và sẽ luôn luôn xảy ra như thế. Cứ sau mỗi trận động đất gây chết chóc sẽ lại có một trận động đất mang lại sự sống. Ai đó đã nói: “Từ nay chỉ một vị thần mới cứu nổi chúng ta”. Chúng ta xác tín rằng vị ấy sẽ ra tay cứu vớt chúng ta “bởi vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho thế gian” (Ga 3,16).
(Viết theo cha Ranieri Cantalamessa, OFMCap.)
Trong thư thứ I gởi cho đồ đệ Timôthê, Thánh Phaolô nhắc lại rằng Chúa Giêsu Kitô, trong cuộc thương khó, đã làm chứng trước mặt tổng trấn Philatô “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp” (I Tm 6,13). Làm chứng về điều gì? Khi nghe Người khẳng định Người có một vương quốc, ông tổng trấn rất đỗi ngạc nhiên, đã hỏi lại ngay: “Vậy ông là vua sao?” Người đáp” “Chính ngài nói rằng tôi là vua. Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích làm chứng cho sự thật” (x. Ga 18, 36-37). Sự thật nào? Không phải là sự thật về cuộc sống và về sự nghiệp của mình. Nhiều người đã chết và vẫn còn chết hiện nay cho một sự nghiệp bất chính mà vẫn nghĩ rằng nó là chính đáng. Nhưng sự phục sinh, -vâng, chính sự phục sinh làm chứng cho sự thật về Chúa Kitô, như sau này Thánh Phaolô sẽ nói trước Hội đồng Arêopagô ở thành phố Athen: “Thiên Chúa đã cho mọi người một bảo đảm về Đức Giêsu khi cho Người sống lại từ cõi chết” (Cv 17,31).
Cái chết: bằng chứng tối cao cho tình yêu
Cái chết không làm chứng cho chân lý, nhưng cho tình yêu của Chúa Kitô. Hay nói đúng hơn, cái chết làm nên chứng cớ tối cao về tình yêu này như chính Chúa Kitô đã nói: “Không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của kẻ hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Có người sẽ phản bác: “Còn có một tình yêu lớn hơn nữa, đó là tình yêu của kẻ chết vì thù địch của mình”. Thì Chúa Giêsu cũng chính là một con người như thế, và hơn bất cứ ai. Thư gởi giáo đoàn Rôma viết: “Khi chúng ta không có sức làm được gì vì còn là hạng người vô đạo, thì theo đúng kỳ hạn, Đức Kitô đã chết vì chúng ta. Hầu như không ai chết vì người công chính, họa may có ai dám chết vì những người lương thiện. Thế mà Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,6-8). Và trên thập giá, Chúa đã cầu nguyện cho chính những kẻ đóng đinh mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).
Có một thứ tu đức phiến diện ca ngợi đau khổ và thập giá như thể tự mình chúng là có giá trị. Chúa Giêsu dạy cho biết chỉ có tình yêu mới đáng cho ta hy sinh tất cả vì nó. Người dạy ta phải yêu thương nhau chứ không dạy phải làm khổ nhau. Đau khổ, thập giá mà thiếu vắng tình yêu thì chỉ còn là tai họa đè bẹp con người mà thôi. Nhưng với tình yêu, tất cả sẽ có một ý nghĩa và gánh nặng sẽ trở nên nhẹ nhàng hơn. Thánh Âu-tinh nói: “Khi yêu thì không đau khổ, mà nếu có đau khổ thì người ta sẽ yêu thích cả nỗi khổ ấy”. Sách Công vụ Tồng đồ kể lại: các Tồng Đồ bị điệu ra trước tòa, bị đánh đòn, bị cấm không được rao giảng về Chúa Giêsu phục sinh, rồi được thả ra. Các ngài ra về, “lòng hân hoan vui mừng” không phải vì được trả tự do nhưng vì thấy mình đã “được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Giêsu” (Cv 5,41). Đối với các Tông Đồ, được chịu khổ vì Đấng mình yêu mến cũng là một ân huệ mà không phải ai cũng có! Tình yêu mạnh hơn sự chết. Có tình yêu –nghĩa là biết mình đang yêu hoặc đang được yêu- thì không sợ gì nữa. Thánh Phaolô đã trải nghiệm mãnh liệt “chân lý” này. Ngài chia sẻ kinh nghiệm ấy trong thư Rôma: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm đao? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta …” (Rm 8,35-37).
Sự phục sinh: câu trả lời cuối cùng cho mầu nhiệm sự chết.
Cuộc đời không bao giờ hết đau khổ và nước mắt. Nhưng người môn đệ Chúa Kitô không chỉ bằng lòng với việc ghi nhận đau khổ như một sự kiện khách quan, rồi để mặc nó. Đau khổ phải bị loại bỏ, phải được vượt qua. Mọi người phải góp phần chống lại nó dù biết rằng nó mãi mãi là một phần của cuộc đời trần gian. Ít nhất là tránh đừng gây ra đau khổ cho mình hay cho kẻ khác.
Người Kitô hữu không thể nói đức tin không mang lại câu trả lời cho huyền nhiệm đau khổ và sự chết. Làm thế nào để bảo đảm với ai đó là trong chiếc ly nước không có thuốc độc? Có một cách: mình uống chén nước trước họ! Đó là điều Thiên Chúa đã làm với con người. Người đã uống chén đắng của cuộc khổ nạn. “Vì bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách” (Thư Do-thái 2,18). Nỗi khổ của con người không thể bị đầu độc, không chỉ chứa toàn là tiêu cực, mất mát, phi lý nếu chính Thiên Chúa đã chọn uống cạn chén. Dưới đáy cái chén phải có một viên ngọc.
Viên ngọc ấy có tên là ơn phục sinh. “Tôi nghĩ rằng, những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Và sách Khải huyền: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chằng còn tang tóc, kêu than và đau đớn nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21,4).
Chứng từ của các vị tử đạo.
Sau Chúa Giêsu, những kẻ đã làm chứng “bằng một lời tuyên xưng cao đẹp”, đó là các vị tử đạo. Thời đầu Giáo Hội, các truyện kể về các ngài được gọi là “bài thương khó” (Passio) giống như bài thương khó của Chúa Giêsu Kitô, mà chúng ta nghe nhiều lần trong Tuần Thánh. Người ta đọc truyện tử đạo và phổ biến rộng khắp trong Giáo Hội với một lòng tôn kính bao la. Ngày nay tại nhiều nơi trên thế giới, người Kitô hữu lại phải trải qua cuộc thử thách rất nặng nề của bắt bớ và tử đạo.
Có một đặc điểm phân biệt những truyện tử đạo chân chính với những truyện mang tính “ hư truyền” người ta “chế biến” ra sau những cuộc bách hại với những mục đích khác nhau, đó là: trong những truyện chân chính, không thấy dấu vết “bút chiến” nào chống lại những kẻ bách hại; tác giả chỉ chú tâm vào hành động anh dũng của các vị tử đạo, chứ không để ý tới sự tàn bạo của các quan tòa và bọn lý hình mà lên án. Thánh Cyprianô tử đạo đã đi tới chỗ truyền cho người nhà biếu tên đao phủ sắp chém đầu ngài hai mươi lăm đồng tiền vàng. Các thánh tử đạo quả xứng là môn đệ của Đấng đã cầu nguyện trước khi chết: “Lạy Cha, xin tha cho họ …”
Tôi nhớ đã đọc một lời tâm sự của Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận nói đại ý rằng ngài rất ái ngại mỗi khi có nhà báo đến phỏng vấn, vì họ thường tìm mọi cách để ngài “nói xấu” về những kẻ bắt bớ giam cầm ngài. Một bằng chứng về sự thánh thiện chân thật của Đức Hồng Y chính là ở chỗ ngài luôn luôn giữ một tâm trạng bình an, hiền hòa và quảng đại với hết mọi người kể cả những kẻ thù nghịch với ngài.
Và làm sao chúng ta không khâm phục một “chứng từ cao đẹp” khác của một vị tử đạo nổi tiếng ngày nay, ông Shahbaz Bhatti, người Pakistan? Ông là người công giáo duy nhất trong chính phủ Hồi giáo Pakistan, với chức vụ bộ trưởng phụ trách những cộng đồng người thiểu số. Ông đề nghị bãi bỏ những đạo luật chống báng bổ (anti-blasphemy laws) và công khai bênh vực Asia Bibi, một người Kitô hữu mẹ gia đình bị kết án tử hình theo chính đạo luật bất công này. Trong bản Di chúc của mình, ông viết những lời khẳng khái sau đây:
“Những nhân vật cao cấp trong chính quyền đã đề nghị với tôi và họ yêu cầu tôi từ bỏ cuộc chiến đấu, nhưng tôi đã luôn luôn từ chối, ngay cả khi biết rằng tôi đang liều mất mạng. Tôi không tìm kiếm sự nổi danh, tôi không muốn những vị trí quyền lực. Tôi chỉ muốn một chỗ dưới chân Chúa Giêsu. Tôi muốn rằng đời sống tôi, tính tình tôi, các hành động của tôi lên tiếng thay cho tôi và nói rằng tôi đang đi theo Chúa Giêsu Kitô. Ước muốn này thật mạnh mẽ trong tôi đến nỗi tôi coi mình là rất may mắn nếu –trong nỗ lực của tôi và trong cuộc chiến đấu của tôi nhằm giúp người thiếu thốn, kẻ khó nghèo, người Kitô hữu bị bắt bớ của Pakistan – tôi được Chúa Giêsu Kitô vui lòng chấp nhận hiến lễ đời tôi. Tôi muốn sống cho Chúa Kitô và tôi muốn chết vì Người”.
Ngày 2 tháng 3 năm 2011, ông đã bị một nhóm khủng bố thuộc tổ chức Al-Quêđa ám sát. Một năm sau Giáo Hội Pakistan đã nhất trí xin phong thánh cho vị tử đạo của mình.
Có một trận động đất xảy ra khi Chúa Giêsu từ trần trên thập giá. “Thấy động đất và các sự việc xảy ra, viên đại đội trưởng và những người canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và nói: ‘Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.’”(Mt 27,54). Nhưng một trận địa chấn còn dữ dội hơn xảy đến khi Người phục sinh. “Thiên thần Chúa từ trời xuống, lăn tảng đá ra rồi ngồi lên trên.” (Mt 28,2). Và sẽ luôn luôn xảy ra như thế. Cứ sau mỗi trận động đất gây chết chóc sẽ lại có một trận động đất mang lại sự sống. Ai đó đã nói: “Từ nay chỉ một vị thần mới cứu nổi chúng ta”. Chúng ta xác tín rằng vị ấy sẽ ra tay cứu vớt chúng ta “bởi vì Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người cho thế gian” (Ga 3,16).
(Viết theo cha Ranieri Cantalamessa, OFMCap.)