GIÁO XỨ KIM NGỌC
CHUẨN BỊ:
* Một bàn thờ Tổ Tiên, một trống đại, một chiêng.
* Lễ vật: trầu - rượu, bánh – trái, hương – hoa, bánh - rượu.
* Nhân sự:
- Giới thiệu viên ( đứng trên gác đàn để quan sát)
- Nghi lễ viên (lễ sinh) áo thụng khăn đóng 01 người
- Giúp lễ (thiếu nhi) áo thụng khăn đóng 02 người
- Chủ sự (người đọc văn tế) áo thụng khăn đóng 01 người
- Dâng lễ vật (thiếu nhi: nữ áo dài, nam áo thụng khăn đóng) 04 đôi
- 12 người từ cuối nhà thờ tiến lên đứng hàng ngang ở bậc cấp cung thánh.
(Lễ nghi cử hành sau Bài giảng lễ).
A/ MỞ ĐẦU (Tất cả ổn định hàng ngũ ở cuối nhà thờ)
LỜI GIỚI THIỆU: (xướng ngôn viên)
Hằng năm vào dịp tết, con cháu quây quần mừng tuổi Ông Bà Cha Mẹ, tưởng nhớ Tổ Tiên, các bậc sinh thành đã an giấc ngàn thu. trước là để bày tỏ tấm lòng hiếu thảo kính yêu, sau là dâng lễ chúc mừng tuổi thọ và xin ơn trên ban phước.
Hôm nay, trong không khí tưng bừng đón xuân mới – xuân Nhâm Thìn, Con cháu trăm họ thuộc giáo xứ Kim Ngọc thành kính bày tỏ mối tình con thảo với Ông Bà Cha Mẹ và các bậc Tổ Tiên, các Bô Lão còn sống cũng như đã an giấc.
Với những món quà khiêm tốn tượng trưng, qua nghi lễ gia tiên đơn thành, con cháu xin cúi đầu tạ tội vì những lỗi lầm đã qua, đồng kính dâng lên Tổ Tiên, Ông Bà, Cha Mẹ cùng các Bô Lão tâm tình hiếu thảo và lòng kính mến, niềm tri ân sâu xa. LỄ GIA TIÊN bắt đầu: (một hồi dài chiêng + trống đại, ca đoàn hát một bài vui xuân, đoàn nghi lễ từ cuối nhà thờ tiến lên theo thứ tự: 04 đôi lễ vật, lễ sinh, giúp lễ, chủ sự).
Tất cả đứng thành hàng ngang ở bậc cấp cung thánh bái đầu, lễ sinh lên giảng đài.
B/ CHÍNH LỄ: (lễ sinh) Kính thưa công đoàn.
Cây có cội, nước có nguồn, con người có tổ có tông. Trước thềm năm mới, chúng ta tưởng nhớ đến các bậc Tiền Bối đã có công với xứ sở, với non sông đất nước. Là những người đi trước, các Ngài đã dẫn đường chỉ lối cho chúng ta và trải qua mọi thời đại, các Ngài đã để lại một gia tài công đức vô cùng quý báu, nào là công ơn sinh thành dưỡng dục, nào là bao tấm gương anh dũng, nào là tình thương lai láng như bể khơi, nào là cuộc sống thánh thiện muôn đời ngời sáng.
Do đó, uống nước phải nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Chúng ta đây, con bầy cháu đống, đừng chỉ đánh trống khua chuông, nhưng phải gắng giữ cho vuông tròn đạo hiếu. Sớm chiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm cần thể hiện lòng kính mến biết ơn đối với các bậc Tổ Tiên đã khuất, và đối với Ông Bà Cha Mẹ cùng với các Bô Lão. (kính mời cộng đoàn đứng lên nghe Lời Chúa)
1/ LỜI CHÚA: (Hc 44,1.7 – 8,11 – 15) Lời Chúa trong sách Huấn Ca.
“Tôi muốn ca tụng những người nhân đức. Cha ông chúng ta đời đời kế tiếp, sinh thời hết thảy họ được tôn trọng và được hiển dương ngày ngày đời họ. Trong họ có những người đã lưu lại tên tuổi, thiên hạ còn ngợi khen nhắc đến. Nơi dòng giống họ, phúc ấm bền lâu, cơ nghiệp của họ truyền lại hết đời con đến đời cháu. Trong giao ước của họ, dòng giống của họ sẽ đứng vững và nhờ họ, con cháu họ sẽ trung kiên. Ký ức của họ sẽ lưu truyền vạn đại, đức nghĩa của họ sẽ không bao giờ bị lãng quên. Thân xác họ được chôn cất bình an, tên tuổi của họ sẽ sống từ đời này qua đời nọ. Sự khôn ngoan của họ được cộng đoàn truyền tụng, và công hội thuật lại lời ngợi khen họ”. Đó là lời Chúa.
2/ ĐÁP CA: (ca đoàn hát một bài đáp ca ngắn gọn: cây có cội, nước có nguồn ….)
3/ VĂN TẾ: (xướng ngôn viên) Văn tế kính dâng Ông Bà Tổ Tiên, Cha Mẹ và các Bô Lão. (một hồi chiêng trống ngắn, hai giúp lễ rước chủ sự tiến lên bàn thờ Tổ Tiên).
*GHI CHÚ: Văn tế được đọc theo cung giọng, trong khi đọc có đệm thêm chiêng trống.
Dấu Hiệu: (1) 1 tiếng trống, 1 tiếng chuông.
(3) 3 tiếng trống, 3 tiếng chuông (2 tiếng trước liền nhau)
Dứt bài văn tế, một hồi trống chiêng dài.
VĂN TẾ (chủ sự đọc)
Chúc mừng Bô lão Đoàn con kính cẩn cúi đầu
Kính bái Ông Bà Ghi ơn tưởng nhớ
Cúi chào Mẹ Cha Tình sâu nghĩa nặng
Nhân ngày thánh hoá Công sinh thành như núi Thái Sơn
Lão Bà lão Ông Nợ tình thương bể khơi chan chứa
Mồng hai Nhâm Thìn Dẫu cho ngày tháng thoi đưa
Cháu con quây quần Tựa bóng câu ngang cửa
Ông Bà thấu tỏ Tân Mão vừa đi Nhâm Thìn bước tới
XNV: cúc cung bái (3) XNV: cúc cung bái (3)
(Chủ sự)
Xuân đến xuân đi, lòng hiếu thảo làm sao quên được (1).
Bao ân tình lớn lao, dù cho sông chảy núi mòn, tình con sau trước vẫn còn thiết tha (3).
Kẻ gần người xa, họp mặt sum vầy, tiến về nơi đây, chúc thọ Ông Bà, Mừng Tuổi Mẹ Cha (1).
Thành kính dâng lên, một bài trường ca tán dương công đức (3).
Các bậc hiền nhân để lại thế trần, công ơn trời bể (1).
Hỡi đàn con cháu thế hệ mai sau, quyết cùng nhau đáp đền (3).
Nay cháu con đây trước vong linh Tiền Nhân xin bày tỏ.
Đã là Người
phải có Tổ, có Tông
có Ông, có bà
có Cha, có Mẹ
Có một cõi linh thiêng, có nguồn cội để tìm về
Có một chốn để tri ân, để dâng niềm thảo hiếu.
Thưa Tổ tiên Ông bà cha mẹ, sao kể hết bao hy sinh cao cả
Mẹ cha ơi, nào đếm được những vất vả gian lao
Kìa núi Thái không sánh được/ tình Cha dưỡng dục
Nọ biển Đông chẳng rộng bằng/ nghĩa Mẹ mớm nuôi
Cho dù có đi /cùng trời cuối đất
Cho dù thủ đắc lắm bạc vàng, danh vọng, cao sang
Làm sao trả nỗi /tình cha, nghĩa mẹ
Làm sao báo đáp bao nhọc nhằn, mang nặng, đẻ đau
Ôi, nhắc lại chín chữ cù lao / mà lòng thêm thẹn!
Rày, có đến ngàn đời báo đáp / sao dạ được an?
Cúi xin Tiên tổ, Ông Bà phù hộ
Cho lớp hậu sinh được bền đỗ đến cùng
Vẹn niềm tin son sắt, kiên trung
Trước thờ Thiên Chúa một lòng
Sau biết trọng kính Ông bà
thảo hiền cùng cha mẹ
Nay, chúng con xin được ước nguyện rằng
Giòng máu nhân đức tinh tuyền, xin lưu truyền cho miêu duệ
Gương sáng tiết liệt nhân hiền, muôn thế hệ nguyện noi theo
Tha thiết dâng lời
Chút hiếu thảo đầy vơi
Trước nhan Chúa Trời
Mong tiền nhân chứng giám
(Hết bài văn tế, một hồi chiêng trống dài, chủ sự, lễ sinh và giúp lễ bái đầu, lùi ra sau hai bước, chuẩn bị nhường chỗ cho ba đôi dâng lễ vật bước sang bàn Gia Tiên, khi đôi thứ bốn dâng bánh miến rượu nho lên bàn thờ, thì chủ sự, lễ sinh, hai giúp lễ bước sang bàn Gia Tiên đứng sau ba đôi dâng lễ vật).
4/ CA ĐOÀN HÁT BÀI: ơn nghĩa sinh thành
C/ KẾT THÚC:
Dâng lễ vật: (XNV) Kết thúc lễ Gia Tiên hôm nay là phần dâng lễ vật. Đoàn con cháu chúng con kính dâng Ông Bà Tổ Tiên, Cha Mẹ và các Bô Lão những lễ vật tượng trưng: trầu rượu, bánh trái, hương hoa và lễ vật kính dâng lên Chúa là bánh miến và rượu nho.
1/ DÂNG TRẦU RƯỢU: (đôi lễ vật dâng trầu rượu tiến lên hai bậc cấp cung thánh)
XNV: Miếng trầu là đầu câu chuyện, ly rượu nồng hâm nóng tâm can. Có trầu, có rượu sầu buồn tan biến. CÚC CUNG BÁI (3) (cúi sâu) THÀNH KÍNH DÂNG LÊN (3) (dâng cao)
XNV: Cơi trầu, khay rượu tượng trưng lòng hiếu thảo của con cháu đối với Ông Bà Cha Mẹ (mang lễ vật đến và đặt lên bàn thờ Tổ Tiên)
2/ DÂNG BÁNH TRÁI: (tiến lên hai bậc cấp cung thánh và làm như đôi trước).
XNV: Bổn phận con cháu kính tôn hiếu thảo, sớm hôm biết khéo lo liệu, có cơm ngon canh ngọt cho Ông Bà Cha Mẹ. Ở gần nhà năng lui tới viếng thăm, song xa nhà nhớ gởi quà gởi bánh. CÚC CUNG BÁI (3) cúi sâu, THÀNH KÍNH DÂNG LÊN (3) (dâng cao).
3/ DÂNG HƯƠNG HOA: (tiến lên hai bậc cấp cung thánh và làm như đôi trước).
XNV: Con cháu hiếu thảo luôn biết điều, sớm hôm an ủi vỗ về, đừng để Ông Bà Cha Mẹ nay phiền muộn mai lo lắng. Khi Ông Bà Cha Mẹ qua đời, nhớ lời trăn trối mà thực thi. Sớm tối cầu nguyện, lại lo cho các Ngài mồ yên mạ đẹp, nhang khói phân minh. CÚC CUNG BÁI (3) cúi sâu, THÀNH KÍNH DÂNG LÊN (3) (dâng cao).
4/ DÂNG BÁNH RƯỢU: (tiến lên hết cấp cung thánh, đến chính diện bàn thờ và làm như đôi trước).
XNV: Bánh rượu là của ăn của uống tượng trưng cho bao công lao khổ nhọc mồ hôi nước mắt, bao hi sinh vất vả mà Ông Bà Cha Mẹ, các bậc Tiền Nhân đã dâng hiến cho con cháu và bao đời mai hậu.
Nguyện dâng lên Chúa, xin Ngài thánh hoá, chúc lành và thưởng công bội hậu cho Ông Bà Cha Mẹ cùng các bậc Tiền Nhân. CÚC CUNG BÁI (3) cúi sâu, THÀNH KÍNH DÂNG LÊN (3) (dâng cao).
(Đôi thứ tư mang lễ vật lên bàn thờ chính để chủ tế dâng lễ. Lúc này ca đoàn hát dâng lễ).
*LƯU Ý: Tất cả bốn đôi đều làm động tác như đôi thứ nhất, riêng đôi 4 lên bàn thờ.