Suy niệm Giáng Sinh
Trời lạnh khủng khiếp. Tuyết rơi dày vào buổi tối cuối năm. Phố xá thưa người. Giữa cảnh trời băng giá tối tăm, một bé gái bán diêm, đầu trần, chân không, lạc lõng lê bước bán hàng cho khách qua lại trên đường phố.
Suốt ngày, em chẳng bán được hộp diêm nào, mà cũng chẳng ai thí cho em lấy một xu. Cơn đói cồn cào trong ruột, tuyết phủ đầy trên mái tóc.
Kiệt sức vì đói và lạnh, em ngồi thu mình vào một góc giữa hai căn phố, lấy áo khoác ủ lấy đôi chân cho bớt tê cóng. Em không dám quay về bởi vì không bán được diêm mà về nhà thì bố sẽ đánh em tàn tệ; vả lại ở nhà thì trời cũng rét kém gì ở đây vì căn phòng của em trống trải quá.
Khao khát mãnh liệt nhất của em lúc nầy là được sưởi ấm bằng một que diêm, chỉ một que diêm thôi. Tuy vậy, em không dám phí phạm bất cứ que diêm nào. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít thức ăn, mất đi ít bánh. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Thế là em liều lĩnh bật lên một que diêm. Ôi ! giữa đêm đen rét buốt, ánh sáng que diêm quá đỗi tuyệt vời! Với óc tưởng tưởng của trẻ thơ, qua ánh lửa que diêm, em thấy hiện ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì que diêm lụi tàn, ngọn lửa tắt và lò sưởi cũng biến theo.
Thôi đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ồ thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có bát đĩa bằng pha lê và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Ước chi em được ngồi vào bàn ăn đó một lần trong đời. Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, bàn ăn sang trọng và con ngỗng biến mất, em lại trở về với vỉa hè và đêm đen rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ mãnh liệt bật thêm que diêm thứ ba. Qua ánh sáng que diêm, em thấy hình ảnh bà ngoại của em hiện về. Mừng quá, em gào lên: « Bà ơi, Bà chờ cháu với, hãy cho cháu đi theo bà! »
Em sợ diêm tắt và hình ảnh của Bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em không muốn Bà biến đi. Trong trí tưởng tượng của em, Bà rất đẹp, rất hiền hòa và đầy lòng yêu thương. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu bay bổng lên cõi thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương !!!
Qua sáng hôm sau, ngày đầu năm, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé nằm thu mình bên góc phố, má còn phớt hồng và nụ cười còn mỉm trên môi. .. nhưng đã chết tự bao giờ.
(phỏng theo truyện cổ của Hans Christian Andersen).
Thân phận đứa bé bán diêm cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhân loại hôm nay đang lâm cảnh đói rét tinh thần nghiêm trọng. Đói khát tình thương, đói khát hoà bình và hạnh phúc. Rét vì thiếu hơi ấm của tình người, rét vì thiếu lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi tình thương, nhưng tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người. Vì thế con người phải chết cóng vì ghẻ lạnh của bao người khác, vì chiến tranh, vì khủng bố kinh hoàng…
Nhân loại đang khát mong những ánh lửa yêu thương làm ấm lại bao cõi lòng băng giá, như em bé bán diêm cần ánh lửa của một que diêm để sưởi ấm đôi tay lạnh cóng của mình.
Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Không phải là ban một ánh lửa diêm hay một lò lửa để sưởi ấm, nhưng Thiên Chúa đã rộng ban cho loài người cả một Mặt Trời, một Vầng Đông, như lời kinh thánh:
« Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an. » (Lc 1, 78)
Chúa Giê-su là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương xuất hiện từ trời cao và dần dần xóa đi màn đêm tăm tối bao trùm nhân loại.
Vầng Đông Giê-su soi chiếu cho nhân loại biết rằng cả thế giới chỉ là một mái nhà chung và tất cả mọi người đều là anh em vì có chung một Cha trên trời, vì thế mọi người phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau và những gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Thiên Chúa.
Nếu nhân loại hôm nay tiếp nhận sứ điệp quan trọng nầy của Chúa Giê-su và đem ra thực hành thì tình yêu thương sẽ chan hòa khắp mặt đất làm ấm lòng mọi người cũng như đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Nhưng điều quan trọng là mỗi người hãy tự hỏi mình: Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã soi chiếu vào tâm trí và cuộc đời tôi chưa ? Hay là tôi đang còn chìm trong bóng tối?
Trước khi trả lời câu hỏi nầy, chúng ta theo dõi đối thoại sau đây:
Một vị hiền triết hỏi các thính giả bao quanh: « Lúc nào là lúc đêm chuyển sang ngày? »
Mới nghe qua, câu hỏi nầy dễ ợt. Một người làm nghề chăn nuôi trả lời: đó là lúc trời hừng đông. Bấy giờ, người chăn nuôi nhìn vào chuồng gia súc của mình và có thể phân biệt được con nào là cừu, con nào là dê.
Người làm vườn thì lại đáp: « Đó là lúc ta nhìn vào vườn cây của mình và có thể phân biệt được cây nào là xoài, cây nào là mít, đâu là nhà ngói, đâu là nhà tranh.»
Nhà hiền triết không bằng lòng với những câu đáp trên nên cuối cùng, ông nói: « Lúc đêm chuyển qua ngày là khi người ta nhìn vào người chung quanh và nhận ra đó chính là người anh em con cùng một Cha với mình.»
Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã giúp tôi nhận ra người chung quanh là anh em của mình chưa? Nếu tôi coi tha nhân là hoả ngục, là người xa lạ… (theo ngôn ngữ của các triết gia) hay bảo tha nhân là thù địch… thì chúng ta đang còn ở trong bóng tối, đang thuộc về thế giới tối tăm.
Nếu tôi nhìn vào người chung quanh và nhận ra họ đúng là anh em con cùng một Cha với mình, thì tôi đã được Ánh Sáng của Chúa Giê-su soi chiếu và đang được sống giữa Ban Ngày.
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm lại biến cố Chúa Giê-su là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi và sưởi ấm nhân loại, chúng ta cầu xin cho mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Vầng Đông Giê-su. Ánh sáng nầy sẽ giúp cho nhân loại nhận ra mọi người là anh em con cùng một Cha và như thế mọi người sẽ không còn phải sống trong tối tăm lạnh lẽo, nhưng được sưởi ấm bằng tình yêu thương huynh đệ ngàn đời.
Trời lạnh khủng khiếp. Tuyết rơi dày vào buổi tối cuối năm. Phố xá thưa người. Giữa cảnh trời băng giá tối tăm, một bé gái bán diêm, đầu trần, chân không, lạc lõng lê bước bán hàng cho khách qua lại trên đường phố.
Suốt ngày, em chẳng bán được hộp diêm nào, mà cũng chẳng ai thí cho em lấy một xu. Cơn đói cồn cào trong ruột, tuyết phủ đầy trên mái tóc.
Kiệt sức vì đói và lạnh, em ngồi thu mình vào một góc giữa hai căn phố, lấy áo khoác ủ lấy đôi chân cho bớt tê cóng. Em không dám quay về bởi vì không bán được diêm mà về nhà thì bố sẽ đánh em tàn tệ; vả lại ở nhà thì trời cũng rét kém gì ở đây vì căn phòng của em trống trải quá.
Khao khát mãnh liệt nhất của em lúc nầy là được sưởi ấm bằng một que diêm, chỉ một que diêm thôi. Tuy vậy, em không dám phí phạm bất cứ que diêm nào. Mất một que diêm có nghĩa là mất đi ít thức ăn, mất đi ít bánh. Em không được phí phạm. Nhưng rét quá. Hai bàn tay gần chết cóng rồi. Em chỉ ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm thôi.
Thế là em liều lĩnh bật lên một que diêm. Ôi ! giữa đêm đen rét buốt, ánh sáng que diêm quá đỗi tuyệt vời! Với óc tưởng tưởng của trẻ thơ, qua ánh lửa que diêm, em thấy hiện ra một lò sưởi ấm áp. Em định đưa chân ra để sưởi cho đôi chân bớt cóng thì que diêm lụi tàn, ngọn lửa tắt và lò sưởi cũng biến theo.
Thôi đánh bạo hy sinh thêm một que diêm nữa. Ánh sáng lại bùng lên. Ồ thích quá ! ấm áp quá ! Ánh lửa ấm áp gợi lên trong tâm trí em một phòng ăn ấm cúng, có bát đĩa bằng pha lê và tuyệt vời hơn hết là trên bàn có một con ngỗng quay đang tỏa hương thơm phức. Ước chi em được ngồi vào bàn ăn đó một lần trong đời. Thế nhưng ánh lửa diêm lại lụi tàn, bàn ăn sang trọng và con ngỗng biến mất, em lại trở về với vỉa hè và đêm đen rét buốt.
Thế rồi, em bị cám dỗ mãnh liệt bật thêm que diêm thứ ba. Qua ánh sáng que diêm, em thấy hình ảnh bà ngoại của em hiện về. Mừng quá, em gào lên: « Bà ơi, Bà chờ cháu với, hãy cho cháu đi theo bà! »
Em sợ diêm tắt và hình ảnh của Bà cũng tắt theo, nên em bật thêm que diêm thứ tư, thứ năm và rồi bật hết những que diêm còn lại, bởi vì em không muốn Bà biến đi. Trong trí tưởng tượng của em, Bà rất đẹp, rất hiền hòa và đầy lòng yêu thương. Bà ôm lấy em và cả hai bà cháu bay bổng lên cõi thiên đàng, đến nơi chẳng còn lạnh lẽo, chẳng còn đói khát, chẳng còn đau thương !!!
Qua sáng hôm sau, ngày đầu năm, khi trời hừng sáng, người qua lại phát hiện em bé nằm thu mình bên góc phố, má còn phớt hồng và nụ cười còn mỉm trên môi. .. nhưng đã chết tự bao giờ.
(phỏng theo truyện cổ của Hans Christian Andersen).
Thân phận đứa bé bán diêm cũng là thân phận của nhân loại hôm nay. Nhân loại hôm nay đang lâm cảnh đói rét tinh thần nghiêm trọng. Đói khát tình thương, đói khát hoà bình và hạnh phúc. Rét vì thiếu hơi ấm của tình người, rét vì thiếu lòng thương xót.
Vì thế, nhân loại đang cần được sưởi ấm bởi tình thương, nhưng tình thương trên thế giới nầy chỉ lập lòe như một ngọn lửa diêm, bùng lên giây lát rồi tắt ngúm, không đủ sưởi ấm cõi lòng băng giá của bao người. Vì thế con người phải chết cóng vì ghẻ lạnh của bao người khác, vì chiến tranh, vì khủng bố kinh hoàng…
Nhân loại đang khát mong những ánh lửa yêu thương làm ấm lại bao cõi lòng băng giá, như em bé bán diêm cần ánh lửa của một que diêm để sưởi ấm đôi tay lạnh cóng của mình.
Khát vọng của nhân loại đã được Thiên Chúa đáp ứng. Không phải là ban một ánh lửa diêm hay một lò lửa để sưởi ấm, nhưng Thiên Chúa đã rộng ban cho loài người cả một Mặt Trời, một Vầng Đông, như lời kinh thánh:
« Thiên Chúa Ta đầy lòng trắc ẩn, cho Vầng Đông từ chốn cao vời viếng thăm ta, soi sáng những ai ngồi nơi tăm tối, và từ trong bóng tử thần, dẫn ta bước vào đường nẻo bình an. » (Lc 1, 78)
Chúa Giê-su là Vừng Đông rực rỡ, là Ánh Thái Dương xuất hiện từ trời cao và dần dần xóa đi màn đêm tăm tối bao trùm nhân loại.
Vầng Đông Giê-su soi chiếu cho nhân loại biết rằng cả thế giới chỉ là một mái nhà chung và tất cả mọi người đều là anh em vì có chung một Cha trên trời, vì thế mọi người phải thương yêu đùm bọc lẫn nhau và những gì chúng ta làm cho người chung quanh là làm cho chính Thiên Chúa.
Nếu nhân loại hôm nay tiếp nhận sứ điệp quan trọng nầy của Chúa Giê-su và đem ra thực hành thì tình yêu thương sẽ chan hòa khắp mặt đất làm ấm lòng mọi người cũng như đem lại hạnh phúc cho muôn dân.
Nhưng điều quan trọng là mỗi người hãy tự hỏi mình: Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã soi chiếu vào tâm trí và cuộc đời tôi chưa ? Hay là tôi đang còn chìm trong bóng tối?
Trước khi trả lời câu hỏi nầy, chúng ta theo dõi đối thoại sau đây:
Một vị hiền triết hỏi các thính giả bao quanh: « Lúc nào là lúc đêm chuyển sang ngày? »
Mới nghe qua, câu hỏi nầy dễ ợt. Một người làm nghề chăn nuôi trả lời: đó là lúc trời hừng đông. Bấy giờ, người chăn nuôi nhìn vào chuồng gia súc của mình và có thể phân biệt được con nào là cừu, con nào là dê.
Người làm vườn thì lại đáp: « Đó là lúc ta nhìn vào vườn cây của mình và có thể phân biệt được cây nào là xoài, cây nào là mít, đâu là nhà ngói, đâu là nhà tranh.»
Nhà hiền triết không bằng lòng với những câu đáp trên nên cuối cùng, ông nói: « Lúc đêm chuyển qua ngày là khi người ta nhìn vào người chung quanh và nhận ra đó chính là người anh em con cùng một Cha với mình.»
Ánh Sáng của Vầng Đông Giê-su đã giúp tôi nhận ra người chung quanh là anh em của mình chưa? Nếu tôi coi tha nhân là hoả ngục, là người xa lạ… (theo ngôn ngữ của các triết gia) hay bảo tha nhân là thù địch… thì chúng ta đang còn ở trong bóng tối, đang thuộc về thế giới tối tăm.
Nếu tôi nhìn vào người chung quanh và nhận ra họ đúng là anh em con cùng một Cha với mình, thì tôi đã được Ánh Sáng của Chúa Giê-su soi chiếu và đang được sống giữa Ban Ngày.
Trong đêm thánh nầy, đêm tưởng niệm lại biến cố Chúa Giê-su là Vầng Đông từ trời đến chiếu soi và sưởi ấm nhân loại, chúng ta cầu xin cho mọi người biết mở lòng đón nhận ánh sáng của Vầng Đông Giê-su. Ánh sáng nầy sẽ giúp cho nhân loại nhận ra mọi người là anh em con cùng một Cha và như thế mọi người sẽ không còn phải sống trong tối tăm lạnh lẽo, nhưng được sưởi ấm bằng tình yêu thương huynh đệ ngàn đời.