Cần phải vượt quá “chữ viết”
Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống” (125). Ở đây, ta nhận ra lý do tại sao diễn trình giải thích chân chính không bao giờ đơn thuần chỉ là một diễn trình tri thức mà còn là một diễn trình sống nữa, một diễn trình đòi ta phải dấn thân vào đời sống của Giáo Hội, tức đời sống sống “theo Thần Khí” (Gl 5:16). Như thế, tiêu chuẩn đưa ra tại số 12 của Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” trở nên rõ ràng hơn: việc vượt quá (chữ viết) kia không thể xẩy ra nếu chỉ nhìn từng mảnh văn cá thể, trái lại phải nhìn chúng trong tương quan với toàn bộ Thánh Kinh. Thực vậy, mục tiêu mà ta nhất thiết phải tiến tới là Lời duy nhất. Trong diễn trình này, ta thấy một diễn biến bên trong, vì cuộc quá độ diễn ra trong quyền lực của Chúa Thánh Thần này nhất thiết can dự tới tự do của mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô từng sống cuộc quá độ này một cách trọn vẹn trong cuộc sống của ngài. Trong câu của chính ngài: “Chữ viết sát hại, còn Thần Khí thì ban sự sống” (2 Cor 3:6), Thánh Phaolô đã diễn tả bằng những ngôn từ triệt để ý nghĩa của diễn trình vượt quá chữ viết ấy và việc ngài đạt tới chỗ chỉ hiểu nó theo cái toàn bộ. Ngài thấy rằng “Thần Khí tự do có tên riêng, và do đó, tự do ấy có một tiêu chuẩn nội tại: ‘Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí Chúa, ở đấy có tự do’ (2 Cor 3:17). Thần Khí tự do không phải đơn thuần chỉ là ý niệm riêng của nhà chú giải, không phải là cách nhìn riêng của họ. Thần Khí ấy là Chúa Kitô, và Chúa Kitô là Chúa chỉ đường cho ta” (126). Ta biết rằng với cả Thánh Augustinô nữa, câu đó vừa gây ấn tượng vừa có tính giải thoát; ngài tin rằng Thánh Kinh, mà thoạt nhìn ngài cho là lỏng lẻo và có chỗ thô thiển hết sức, nhưng nhờ diễn trình vượt quá chữ viết mà ngài học được nơi Thánh Ambrôsiô trong việc giải thích loại hình (typological interpretation), nên toàn bộ Cựu Ước đã trở thành đường dẫn tới Chúa Giêsu Kitô. Đối với Thánh Augustinô, việc vượt quá nghĩa chiểu tự khiến chữ viết trở thành khả tín, và giúp ngài sau cùng tìm được câu trả lời cho nỗi khắc khoải nội tâm sâu thẳm và lòng thèm khát chân lý của ngài (127).
Tính thống nhất nội tại của Thánh Kinh
Trong cuộc quá độ từ chữ viết qua tinh thần và trong truyền thống vĩ đại của Giáo Hội, ta cũng học được cách nhìn ra tính thống nhất của mọi Sách Thánh, một sự thống nhất đặt cơ sở trên sự thống nhất của lời Chúa, vốn thách thức cuộc sống ta và không ngừng mời gọi ta hồi tâm (128). Ở đây, lời của Hugh thuộc (đan viện) Thánh Victor vẫn là một hướng dẫn chắc chắn: “Tất cả các Sách Thánh đều chỉ là một Cuốn Sách. Cuốn Sách duy nhất đó là chính Chúa Kitô, nói về Chúa Kitô và được nên trọn trong Chúa Kitô” (129). Dĩ nhiên, nếu chỉ đơn thuần nhìn theo phương diện lịch sử hay văn chương, thì Thánh Kinh không thể nào là một cuốn sách duy nhất được, mà là một hợp tuyển các bản văn đa dạng được soạn tác trong một ngàn năm hay hơn, và ngay những cuốn cá thể cũng không dễ gì cho thấy một sự thống nhất bên trong; trái lại, ta thấy nhiều chỗ bất nhất rõ ràng giữa chúng với nhau. Đây đương nhiên là trường hợp của Sách Thánh Do Thái mà Kitô hữu chúng ta quen gọi là Cựu Ước. Nhưng còn hơn thế nữa, khi Kitô hữu chúng ta coi Tân Ước và các sách của nó như một thứ chìa khóa giải thích Sách Thánh Do Thái, coi nó như đường dẫn tới Chúa Kitô. Xét chung, Tân Ước không sử dụng hạn từ “sách thánh” (Xem Rm 4:3; 1 Pr 2:6) mà là “các sách thánh” (xem Mt 21:43; Ga 5:39; Rm 1:2, 2 Pr 3:16), ấy thế nhưng chúng vẫn được nhìn trong cái toàn bộ của chúng như lời duy nhất Thiên Chúa dùng nói với chúng ta (130). Điều ấy chứng tỏ: chính ngôi vị Chúa Kitô đã đem lại sự thống nhất cho mọi “Sách Thánh”, làm chúng nên một “Lời”. Với cách đó, ta hiểu được lời lẽ của Số 12 trong Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” nhắc đến tính thống nhất bên trong của toàn bộ Thánh Kinh như tiêu chuẩn quyết định của việc giải thích chính xác bằng đức tin.
Mối tương quan giữa Tân Ước và Cựu Ước
Trước tấm phông thống nhất mọi Sách Thánh trong Chúa Kitô, các nhà thần học và cả mục tử nữa đều cần phải ý thức được mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trước nhất, Tân Ước hiển nhiên nhìn nhận Cựu Ước là lời Chúa và do đó chấp nhận thẩm quyền của Sách Thánh Do Thái (131). Tân Ước mặc nhiên nhìn nhận Cựu Ước bằng cách sử dụng cùng một ngôn ngữ như nhau và thường hay trích dẫn các đoạn trong Sách Thánh ấy. Nó minh nhiên thừa nhận Sách Thánh Do Thái ở chỗ đã trưng dẫn nhiều phần trong đó làm căn bản cho luận chứng của mình. Trong Tân Ước, một luận chứng đặt căn bản trên Cựu Ước như thế có một giá trị dứt khoát, cao hơn giá trị các luận chứng chỉ có tính nhân bản. Trong Tin Mừng thứ bốn, Chúa Giêsu nói rằng “Không thể bác bỏ Thánh Kinh” (Ga 10:35). Thánh Phaolô thì đặc thù tuyên bố rõ: mạc khải của Cựu Ước vẫn có giá trị đối với Kitô hữu chúng ta (xem Rm 15:4; 1 Cor 10:11) (132). Ta cũng quả quyết rằng “Chúa Giêsu Nadarét là một người Do Thái và Đất Thánh là quê mẹ của Giáo Hội” (133): gốc rễ Kitô Giáo là ở nơi Cựu Ước, và Kitô Giáo liên tục rút tỉa được của nuôi dưỡng từ các gốc rễ này. Do đó, học lý lành mạnh của Kitô Giáo luôn luôn chống lại mọi hình thức của chủ nghĩa Marcion (nhị nguyên luận) vốn chủ trương đặt Cựu Ước đối nghịch với Tân Ước trong nhiều phương diện (134).
Hơn nữa, chính Tân Ước cũng cho là mình nhất quán với Cựu Ước và tuyên xưng rằng trong mầu nhiệm sống, chết và phục sinh của Chúa Kitô, Sách Thánh của Dân Do Thái đã tìm được sự nên trọn hoàn toàn của chúng. Tuy nhiên, cần nhận xét điều này ý niệm nên trọn của Sách Thánh là một ý niệm phức tạp, vì nó có tới ba chiều kích: chiều kích liên tục về căn bản với mạc khải Cựu Ước, chiều kích gián đọan và chiều kích nên trọn và vượt quá. Mầu nhiệm Chúa Kitô luôn liên tục về ý hướng với tín ngưỡng hy lễ của Cựu Ước, nhưng lại diễn ra một cách khác hẳn, phù hợp với một số lời tuyên bố tiên tri và do đó đạt tới sự toàn hảo chưa bao giờ có. Cựu Ước thì đầy những căng thẳng giữa hai khía cạnh định chế và tiên tri. Mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô hoàn toàn phù hợp với các lời tiên tri và tiên đoán của Sách Thánh Do Thái, dù bằng một cách ít ai dự ứng được; ấy thế nhưng nó lại cho thấy những khía cạnh rõ ràng của một gián đoạn đối với các định chế của Cựu Ước.
Những xem sét đó cho thấy tầm quan trọng độc đáo của Cựu Ước đối với Kitô hữu, dù cùng một lúc chúng cho ta thấy sự mới lạ trong lối giải thích có tính Kitô học. Từ thời các Tông Đồ và trong Truyền Thống sống động của mình, Giáo Hội vốn nhấn mạnh tới tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa trong hai Giao Ước, qua việc sử dụng hình loại học (typology); thủ tục này không hề có tính võ đoán, nhưng nó nội tại ngay trong các biến cố được các bản văn thánh thuật lại và do đó bao gồm toàn bộ Thánh Kinh. Hình loại học “trong công trình của Thiên Chúa thời Giao Ước cũ, biện phân được những hình ảnh báo trước điều Người sẽ hoàn thành vào thời viên mãn trong con người của Con nhập thể của Người” (135). Nhờ thế, các Kitô hữu đã đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại. Dù việc giải thích theo hình loại học cho ta thấy nội dung khôn dò của Cựu Ước theo quan điểm Tân Ước, ta đừng quên rằng Cựu Ước vẫn duy trì được giá trị tự tại của nó trong tư cách mạc khải, như chính Chúa chúng ta đã tái khẳng định (xem Mc 12:29-31). Thành thử, “Phải đọc Tân Ước dưới ánh sáng Cựu Ước. Nền giáo lý Kitô Giáo ban sơ luôn luôn sử dụng Cựu Ước (xem 1 Cor 5:6-8; 1 Cor 10:1-11)” (136). Vì lý do đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khẳng định rằng: “Cái hiểu Thánh Kinh của người Do Thái Giáo tỏ ra hữu ích đối với Kitô hữu để họ hiểu và nghiên cứu Sách Thánh” (137).
Thánh Augustinô từng nói một cách thông sáng rằng “Tân Ước dấu ẩn trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ lộ trong Tân Ước” (138), Cho nên, điều quan trọng là trong cả hai khung cảnh mục vụ và học thuật, mối tương quan gần gũi giữa hai Giao Ước phải được chỉ ra cách rõ ràng, hợp với câu nói của Thánh Grêgôriô Cả: “Điều Cựu Ước hứa, Tân Ước phải biến thành hữu hình; điều Cựu Ước công bố một cách bí nhiệm, Tân Ước phải công bố công khai như đang xẩy ra. Cho nên, Cựu Ước là tiên tri của Tân Ước; và bản chú giải tốt nhất về Cựu Ước chính là Tân Ước” (139).
Những đoạn “tối” của Thánh Kinh
Khi thảo luận mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước, Thượng Hội Đồng cũng xem sét các đoạn trong Thánh Kinh mà vì tính bạo lực và vô luân thỉnh thoảng có trong chúng, cho nên tỏ ra tối nghĩa và khó hiểu. Ở đây, trước hết và trên hết, ta cần nhớ rằng mạc khải Thánh Kinh bắt rễ sâu trong lịch sử. Chương trình của Thiên Chúa được tỏ lộ một cách tiệm tiến và được hoàn thành một cách chậm chạp, qua nhiều giai đoạn tiếp nối nhau và bất kể các chống đối của con người. Thiên Chúa chọn một dân tộc và kiên nhẫn hướng dẫn và giáo dục họ. Mạc khải vừa với trình độ văn hóa và luân lý của thời xa xưa và do đó diễn tả các sự kiện và phong tục, như gian lận và đánh lừa, và các hành vi bạo lực và tàn sát, mà không minh nhiên lên án tính vô luân của những điều ấy. Điều ấy có thể giải thích bằng ngữ cảnh lịch sử, ấy thế nhưng nó có thể khiến độc giả hiện đại sửng sốt, nhất là nếu họ không chịu tính đến nhiều việc “tối tăm” đã diễn ra trong nhiều thế kỷ trước và cả ngày nay nữa. Nhưng cũng trong Cựu Ước, lời rao giảng của các tiên tri luôn mạnh mẽ thách thức bất cứ thứ bất công và bạo lực nào, bất kể là của tập thể hay của cá nhân, và do đó, trở thành cách Thiên Chúa dùng để huấn luyện dân Người chuẩn bị đón nhận Tin Mừng. Bởi thế, sẽ là một lầm lẫn khi bỏ qua những đoạn Thánh Kinh đối với chúng ta có vấn đề. Đúng hơn, ta nên biết rằng giải thích đúng đắn các đoạn văn đó đòi phải có một trình độ chuyên môn, chỉ có được nhờ một cuộc huấn luyện để giải thích bản văn theo ngữ cảnh văn chương lịch sử và trong viễn tượng Kitô Giáo, một viễn tượng vốn lấy “Tin Mừng và giới răn mới mà Chúa Giêsu Kitô đã đưa ra trong mầu nhiệm vượt qua” làm chìa khóa giải thích (140). Tôi khuyến khích các học giả và mục tử giúp mọi tín hữu tiếp cận các đoạn văn đó bằng một sự giải thích sao cho ý nghĩa của chúng xuất hiện dưới ánh sáng mầu nhiệm Chúa Kitô.
Kitô hữu, người Do Thái Giáo và Sách Thánh
Sau khi đã xem sét mối tương quan gần gũi giữa Tân Ước và Cựu Ước, dĩ nhiên bây giờ ta sẽ nhìn tới sợi dây nối kết đặc biệt mà mối tương quan kia phát sinh ra giữa Kitô hữu và tín hữu Do Thái Giáo, một sự nối kết không bao giờ được bỏ qua. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi nói tới người Do Thái Giáo, đã gọi họ là “ người ‘anh em thân yêu’ của chúng ta trong đức tin Ápraham, tổ phụ của chúng ta” (141). Nhìn nhận sự kiện này không hề coi thường các điển hình gián đoạn liên quan tới các định chế của Cựu Ước từng được Tân Ước quả quyết, càng không coi thường sự nên trọn của Sách Thánh trong mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, vốn được nhìn nhận là đấng Mêxia và là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự khác biệt sâu xa và căn để này không hề hàm nghĩa một sự thù địch hỗ tương. Trái lại, thí dụ của Thánh Phaolô (xem Rm 9-11) cho ta thấy “thái độ tôn trọng, quí mến và yêu thương đối với dân tộc Do Thái là thái độ duy nhất có tính Kitô Giáo thực sự trong tình thế hiện nay, một tình thế vốn là một phần đầy mầu nhiệm trong kế hoạch hoàn toàn tích cực của Thiên Chúa” (142). Thực vậy, Thánh Phaolô nói về người Do Thái như sau: “theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ, vì khi Thiên Chúa đã ban ơn, thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29).
Thánh Phaolô cũng dùng hình ảnh đáng yêu của cây ôliu để diễn tả mối liên hệ gần gũi giữa Kitô hữu và người Do Thái: Giáo Hội của Dân Ngoại giống như nhành ôliu dại được tháp vào cây ôliu tốt là Dân của Giao Ước (xem Rm 11:17-24). Nói cách khác, ta hút được của nuôi dưỡng từ cùng một gốc rễ thiêng liêng. Ta gặp nhau như anh chị em mà trong một lúc nào đó của lịch sử đã có những mối liên hệ căng thẳng, nhưng hiện nay đang cam kết bắc các nhịp cầu thân ái bền vững (143). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng nói vào một dịp khác: “Chúng ta có nhiều điều chung với nhau. Cùng với nhau, chúng ta có thể đóng góp nhiều cho hòa bình, công lý và một thế giới huynh đệ và nhân đạo hơn” (144).
Tôi muốn một lần nữa tuyên bố rằng Giáo Hội hết sức trân qúi cuộc đối thoại của mình với người Do Thái. Bất cứ nơi nào thích hợp, ta nên tạo cơ hội để gặp gỡ và trao đổi, công khai cũng như tư riêng, và nhờ thế phát huy sự gia tăng hiểu biết lẫn nhau, quí mến và hợp tác hỗ tương, cũng như nghiên cứu Sách Thánh.
Giải thích Sách Thánh một cách cực đoan
Việc chúng ta lưu tâm tới các khía cạnh khác nhau trong đề tài giải thích Sách Thánh, giờ đây, giúp ta xem sét một chủ đề từng xuất hiện nhiều lần trong Thượng Hội Đồng: đó là chủ đề giải thích Sách Thánh theo quan điểm cực đoan (145).
Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, trong tài liệu “Giải Thích Thánh Kinh trong Giáo Hội, đã đưa ra một số hướng dẫn quan trọng. Ở đây, tôi muốn đặc biệt nhắc tới các cách tiếp cận không biết tôn trọng sự chân xác của bản văn Thánh Kinh, mà đi cổ vũ các lối giải thích chủ quan và võ đoán. Chủ nghĩa “duy chiểu tự” (literalism) do cách tiếp cận duy cực đoan cổ vũ thực ra đại biểu cho sự phản bội cả nghĩa chiểu tự lẫn nghĩa thiêng liêng và mở đường cho nhiều hình thức thao túng như phổ biến các lối giải thích Thánh Kinh chống lại Giáo Hội. “Vấn đề căn bản của lối giải thích duy cực đoan là: vì từ khước không chịu lưu tâm tới đặc điểm lịch sử của mạc khải Thánh Kinh, nên nó tự làm cho mình không có khả năng nhìn nhận trọn vẹn chân lý về chính sự nhập thể. Về mối tương quan với Thiên Chúa, chủ nghĩa cực đoan tìm cách xa lánh bất cứ sự gần gũi nào giữa thần thiêng và nhân bản… vì lý do này, họ thường coi bản văn thánh như đã được Chúa Thánh Thần đọc từng lời. Nó không chịu thừa nhận rằng lời Thiên Chúa đã được trình bày bằng ngôn ngữ và biểu thức do nhiều thời kỳ khuôn định” (146). Mặt khác, trong lời, Kitô Giáo nhận ra chính Lời Thiên Chúa, tức Ngôi Lời, Đấng đã tỏ lộ mầu nhiệm của mình qua sự phức tạp và thực tại của lịch sử con người (147). Câu trả lời đúng sự thực cho lối tiếp cận duy cực đoan chính là “lối giải thích Thánh Kinh đầy đức tin”. Lối giải thích, “từng được thực hành từ thời cổ xưa trong Truyền Thống Giáo Hội này, mưu tìm chân lý cứu rỗi cho cuộc sống các Kitô hữu cá thể và cho toàn thể Giáo Hội. Nó nhìn nhận giá trị lịch sử của truyền thống Thánh Kinh. Chính nhờ giá trị của Thánh Kinh như một nhân chứng lịch sử, lối đọc này tìm cách khám phá ra ý nghĩa sống động của Thánh Kinh đối với cuộc sống các tín hữu ngày nay” (148), tuy nhiên vẫn không quên sự trung gian nhân bản của bản văn linh hứng và các văn thể của nó.
Đối thoại giữa các mục tử, thần học gia và nhà chú giải
Lối giải thích chân chính bằng đức tin mang lại nhiều hệ quả quan trọng đối với sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội. Thí dụ, chính các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khuyến cáo phải có một mối tương quan làm việc gần gũi giữa các vị mục tử, các thần học gia và các nhà chú giải. Các Hội Đồng Giám Mục nên cổ vũ những cuộc gặp gỡ như thế với “mục tiêu phát huy sự hiệp thông lớn lao hơn để phục vụ lời Chúa” (149). Sự hợp tác loại này sẽ giúp mọi người chu toàn việc làm của mình một cách hữu hiệu hơn vì lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Đối với các học giả cũng thế, xu hướng mục vụ này bao gồm việc tiếp cận bản văn thánh với ý thức rằng đó là sứ điệp mà Chúa muốn ngỏ với ta để cứu rỗi ta. Theo lời của Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa”, thì “các nhà chú giải Công Giáo và những người khác đang làm việc trong lãnh vực thần học thánh nên chuyên chăm làm việc chung với nhau, dưới sự quan tâm của huấn quyền thánh. Nhờ sử dụng các kỹ thuật thích đáng, họ nên cùng nhau bắt tay xem sét và giải thích các bản văn thánh một cách nào đó để càng nhiều thừa tác viên lời Chúa càng hay biết phân phát một cách sung mãn chất nuôi dưỡng của Thánh Kinh cho dân Chúa. Chất nuôi dưỡng này soi sáng tâm trí, tăng cường ý chí và hun đốt trái tim mọi người bằng tình yêu của Thiên Chúa” (150).
Thánh Kinh và việc đại kết
Ý thức rằng Giáo Hội xây nền trên Chúa Kitô, Lời nhập thể của Thiên Chúa, nên Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh tính trung tâm của việc nghiên cứu Thánh Kinh bên trong cuộc đối thoại đại kết nhằm diễn đạt trọn vẹn sự hợp nhất của mọi tín hữu trong Chúa Kitô (151). Chính trong Thánh Kinh đã có lời cầu nguyện cảm động của Chúa Giêsu ngỏ cùng Chúa Cha xin cho các môn đệ nên một, để thế gian tin (xem Ga 17:21). Tất cả những điều này nhằm tăng cường xác tín của ta rằng chỉ nhờ cùng lắng nghe và suy niệm Thánh Kinh, ta mới cảm nghiệm được sự hiệp thông chân thực, dù vẫn chưa trọn vẹn (152); “cùng nhau lắng nghe Thánh Kinh như thế sẽ thúc đẩy ta hướng tới đối thoại trong bác ái và giúp cho cuộc đối thoại chân lý ấy tiến triển” (153). Cùng nhau lắng nghe lời Chúa, tham gia đọc lời Chúa (lectiona divina) trong Thánh Kinh, để lòng mình cảm kích trước sự tươi mát của lời Chúa, một lời không bao giờ già nua xưa cũ, thắng vượt câm điếc đối với những lời không hợp với ý kiến hay định kiến riêng của ta, lắng nghe và học hỏi bên trong việc hiệp thông với các tín hữu mọi thời: tất cả những việc ấy nói lên cách ta tiến tới hợp nhất trong đức tin như một đáp trả đối với việc nghe lời Chúa” (154). Lời của Công Đồng Vatican II khá rõ ràng về phương diện này: “trong chính cuộc đối thoại (đại kết), Sách Thánh là dụng cụ quí giá trong bàn tay quyền năng của Thiên Chúa để đạt được sự hợp nhất kia, một sự hợp nhất mà Đấng Cứu Thế muốn dành cho mọi người” (155). Thành thử, nên có sự gia tăng về nghiên cứu, thảo luận và cử hành đại kết lời của Thiên Chúa, trong khi vẫn tôn trọng một cách thích đáng các qui định hiện thời và sự đa dạng về truyền thống (156). Các cử hành này đẩy mạnh chính nghĩa của phong trào đại kết và khi được thi hành một cách thích đáng, chúng có thể nói lên những giờ phút cô đọng của cầu nguyện chân chính nhằm xin Chúa làm cho mau tới ngày ta có thể ngồi cùng bàn với nhau và uống chung một chén. Tuy nhiên, dù việc cổ vũ cho những buổi cầu nguyện như thế là điều đáng khen và đúng đắn, nhưng ta nên cẩn thận, đừng giới thiệu các cử hành đó như các hình thức thay thế cho việc cử hành Thánh Lễ vào Chúa Nhật hay lễ buộc.
Trong việc nghiên cứu và cầu nguyện này, ta thanh thản nhìn nhận các khía cạnh vẫn còn cần được thăm dò một cách sâu xa hơn và những khía cạnh ta vẫn còn khác nhau, như việc tìm hiểu chủ thể giải thích có thẩm quyền trong Giáo Hội và vai trò quyết định của huấn quyền (157).
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh tới lời tuyên bố của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng về tầm quan trọng đại kết của các bản dịch Thánh Kinh ra các ngôn ngữ khác nhau. Ta biết rằng phiên dịch một bản văn không hề là một trách vụ chỉ có tính kỹ thuật máy móc, nhưng, theo một nghĩa nào đó, nó thuộc công trình giải thích. Về phương diện này, Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II đã nhận định rằng “bất cứ ai nhớ lại việc các cuộc tranh luận về Thánh Kinh từng ảnh hưởng ra sao đối với việc phân rẽ, nhất là tại Tây Phương, hẳn có thể đánh giá được bước tiến có ý nghĩa mà các bản dịch chung này vốn đại biểu cho” (158). Cổ vũ các bản dịch Thánh Kinh chung là một phần trong công trình đại kết. Tôi xin cám ơn tất cả những người đã dấn thân vào công trình quan trọng này và xin khuyến khích họ kiên trì trong các cố gắng của mình.
Các hậu quả đối với việc nghiên cứu thần học
Một hậu quả khác nữa của việc giải thích thỏa đáng bằng đức tin liên quan tới các hệ luận tất yếu của nó đối với việc đào tạo giải thích và thần học, nhất là trong việc đào tạo các ứng viên làm linh mục. Cần phải thận trọng để bảo đảm rằng việc nghiên cứu Sách Thánh phải thực sự là linh hồn của thần học theo nghĩa nhìn nhận nó như là lời Thiên Chúa ngỏ với thế giới ngày nay, ngỏ với Giáo Hội và ngỏ với đích thân mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là các tiêu chuẩn ấn định trong Số 12 Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” phải được thực sự lưu ý và trở thành đối tượng cho một nghiên cứu sâu sắc hơn. Không nên khuyến khích ý niệm cho rằng việc tìm tòi có tính bác học phải tỏ ra trung lập đối với Thánh Kinh. Đồng thời với việc học các ngôn ngữ nguyên thủy mà trong đó Sách Thánh đã được viết ra, cũng như các phương pháp giải thích thoả đáng, các sinh viên còn cần phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc, ngõ hầu biết lượng giá điều này: chỉ có thể hiểu được Sách Thánh khi mang nó ra sống mà thôi.
Theo chiều hướng trên, tôi khẩn khoản yêu cầu cho việc nghiên cứu lời Chúa, cả truyền khẩu lẫn bản viết, không ngừng được tiến hành trong tinh thần sâu xa của Giáo Hội, và việc đào tạo học thuật biết lưu tâm đến những can thiệp thích đáng của huấn quyền, là các can thiệp “không cao hơn lời Chúa, nhưng đúng hơn làm tôi tớ cho lời ấy. Huấn quyền chỉ dạy những điều đã được truyền lại. Theo lệnh truyền của Chúa và với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, huấn quyền lắng nghe điều ấy một cách sốt sắng, cung kính gìn giữ nó và trình bày nó một cách trung thành” (159). Do đó, cần thận trọng để những lời giáo huấn đưa ra biết nhìn nhận rằng “Thánh Truyền, Thánh Kinh và huấn quyền của Giáo Hội hết sức gắn bó và liên kết với nhau đến nỗi một trong ba không thể đứng vững nếu không có hai thứ kia” (160). Tôi hy vọng rằng luôn trung thành với giáo huấn của Công Đồng Vatican II, việc nghiên cứu Thánh Kinh, thực hiện bên trong sự hiệp thông của Giáo Hội hoàn vũ, sẽ thực sự là linh hồn của việc nghiên cứu thần học (161).
Các thánh và việc giải thích Thánh Kinh
Việc giải thích Thánh Kinh sẽ không đầy đủ nếu nó không gồm việc lắng nghe những người đã thực sự sống lời Chúa, tức các thánh (162). Thực vậy, "viva lectio est vita bonorum" (bài đọc sống động chính là cuộc sống của những người tốt lành) (163). Việc giải thích Thánh Kinh sâu sắc nhất phát sinh từ chính những người từng để mình được lời Chúa lên khuôn qua việc lắng nghe, đọc và chăm chỉ suy niệm.
Chắc chắn không phải tình cờ mà các phong trào tu đức vĩ đại trong lịch sử Giáo Hội đều phát sinh từ việc minh nhiên tham chiếu Sách Thánh. Tôi nghĩ tới trường hợp Thánh Antôn đan viện trưởng, đấng đã xúc động khi nghe Chúa Kitô phán: “Nếu muốn nên trọn lành, con hãy đi, bán hết mọi sự con có rồi cho người nghèo, con sẽ có một kho tàng trên trời; rồi tới theo Thày” (Mt 19:21) (164). Không kém lưu ý, là câu hỏi được Thánh Basiliô Cả đặt ra trong cuốn Moralia: "Đâu là đặc điểm rõ nét của đức tin? Hoàn toàn chắc chắn, không một chút do dự là lời Thiên Chúa linh hứng là lời chân thật… Đâu là đặc điểm rõ nét của tín hữu? Đời họ sống theo cùng một sự chắc chắn hoàn toàn đối với ý nghĩa lời Sách Thánh, không dám thêm hay bớt bất cứ điều gì” (165). Trong Qui Luật của mình, Thánh Bênêđíctô gọi Sách Thánh là “qui luật hoàn hảo nhất đối với cuộc sống con người” (166). Còn Thánh Phanxicô Assisi, theo lời Thomas thành Celano thuật lại, “khi nghe người ta bảo các môn đệ của Chúa Kitô không nên sở hữu vàng, bạc hay tiền, cũng như không nên mang theo bao bị, bánh ăn, cũng như gậy đi đường, cả giầy dép cũng như hai áo khoác… bèn sảng khoái trong Chúa Thánh Thần, lập tức kêu lớn: ‘đó chính là điều tôi muốn có, chính đó là điều tôi hằng cầu xin, hằng tha thiết muốn thực hiện với hết tâm hồn tôi!’” (167). Thánh Clara thành Assisi hoàn toàn cũng có chung một cảm nghiệm như thánh Phanxicô: Bà viết “Hình thức sống của Dòng Chị Em Hèn Mọn là đây: tuân giữ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (168). Thánh Đa Minh cũng thế “ở mọi nơi, luôn tỏ ra mình là người của Tin Mừng, trong lời nói cũng như trong việc làm” (169) và muốn các tu sĩ của mình cũng là “người của Tin Mừng” (170). Thánh Nữ Têrêxa thành Avila của Dòng Cát Minh, đấng luôn dùng các hình ảnh Thánh Kinh để giải thích các cảm nghiệm huyền nhiệm trong các trước tác của mình, vốn nói rằng chính Chúa Giêsu mạc khải cho Bà hay “mọi sự ác trên thế gian đều phát xuất từ việc không biết rõ ràng các chân lý của Sách Thánh” (171). Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu khám phá ra tình yêu như ơn gọi bản thân của mình là nhờ nghiền ngẫm Thánh Kinh nhất là các Chương 12 và 13 trong Thu thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (172); cũng vị thánh này đã mô tả sự lôi cuốn của Sách Thánh: “ngay khi thoáng đọc Tin Mừng, tôi đã lập tức hít được hương thơm đời sống Chúa Giêsu và tôi biết mình phải chạy tới đâu” (173). Mọi vị thánh đều như tia sáng phát ra từ lời Chúa: ta có thể nghĩ tới Thánh Inhaxiô thành Loyola trong cuộc đi tìm chân lý của ngài cũng như trong việc ngài biện phân các loại tinh thần; Thánh Gioan Bosco, trong việc say mê giáo dục thanh thiếu niên; Thánh Gioan Maria Vianey trong ý thức của ngài về sự cao cả của chức linh mục như một hồng ân và một trách nhiệm; Thánh Piô thành Pietrelcina trong việc ngài phục vụ làm khí cụ của lòng thương xót Chúa; Thánh Josemaria Escrivá trong việc giảng dạy về ơn gọi phổ quát phải nên thánh; Chân Phúc Têrêxa thành Calcutta, nhà truyền giáo của tình Chúa yêu thương những người nghèo nhất trong số người nghèo, rồi các vị tử đạo của chủ nghĩa Quốc Xã và chủ nghĩa Cộng Sản, đại biểu bởi Thánh Têrêxa Bênêđícta Thánh Giá (Edith Stein), một nữ tu Dòng Cát Minh, và Chân Phúc Aloysiô Stepinac, Hồng Y Tổng Giám Mục Zagreb.
Như thế, sự thánh thiện được lời Chúa linh hứng, theo một nghĩa nào đó, thuộc truyền thống tiên tri, trong đó, lời Thiên Chúa biến chính cuộc sống của vị tiên tri thành người phục vụ của nó. Theo nghĩa này, sự thánh thiện trong Giáo Hội cấu thành một việc giải thích Thánh Kinh mà ta không được xem thường. Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng các tác giả thánh, cũng cùng là Thần Khí từng thúc đẩy các thánh hiến đời mình cho Tin Mừng. Bằng cách ráng học theo gương các ngài, ta quả đang trên đường chắc chắn hướng tới một cuộc giải thích Thánh Kinh đầy sống động và có hiệu quả.
Ta đã được thấy các chứng nhân trực tiếp làm chứng cho mối liên kết giữa sự thánh thiện và lời Chúa này ngay trong lúc có Cuộc Họp Thượng Hội Đồng Lần Thứ Mười Hai, khi 4 vị hiển thánh mới được tôn phong vào ngày 12 tháng Mười tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Đó là các vị: Gaetano Errico, linh mục và người lập ra Tu Hội Truyền Giáo Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; Mẹ Maria Bernarda Bütler, quê Thụy Sĩ và là một nhà truyền giáo tại Ecuador và Colombia; Nữ Tu Alphonsa Vô Nhiễm Thai, vị thánh đầu tiên sinh tại Ấn Độ được tôn phong; và nữ tín hữu trẻ người Ecuador là Narcisa de Jesús Martillo Morán. Bằng cuộc sống của mình, các vị làm chứng, trước mặt thế giới và Giáo Hội, cho sự sung mãn vĩnh hằng của Tin Mừng Chúa Kitô. Nhờ lời cầu bầu của các vị thánh được tôn phong vào thời điểm cuộc họp của Thượng Hội Đồng về lời Chúa này, ta hãy xin Chúa để chính đời sống ta trở thành “thửa đất tốt” cho Đấng Gieo Hạt Thần Linh trồng lời của Người trên đó, ngõ hầu lời ấy trổ sinh nhiều hao trái thánh thiện trong ta, “gấp ba mươi, sáu mươi, một trăm lần” (Mt 4:20)
Như thế, muốn tái khám phá hành động qua lại giữa các nghĩa khác nhau của Sách Thánh, điều chủ yếu là phải nắm chắc việc bước từ chữ viết qua tinh thần. Đây không phải là một bước tự động, tự phát; đúng hơn, cần phải vượt quá (transcended) chữ viết: “lời Chúa không bao giờ đơn thuần là một với chữ viết trong bản văn. Muốn nắm được lời của Người, phải có một sự vượt quá (chữ viết) và một diễn trình tìm hiểu, được hướng dẫn bởi chuyển động bên trong của toàn bộ tác phẩm, và do đó, phải trở thành một diễn trình sống” (125). Ở đây, ta nhận ra lý do tại sao diễn trình giải thích chân chính không bao giờ đơn thuần chỉ là một diễn trình tri thức mà còn là một diễn trình sống nữa, một diễn trình đòi ta phải dấn thân vào đời sống của Giáo Hội, tức đời sống sống “theo Thần Khí” (Gl 5:16). Như thế, tiêu chuẩn đưa ra tại số 12 của Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” trở nên rõ ràng hơn: việc vượt quá (chữ viết) kia không thể xẩy ra nếu chỉ nhìn từng mảnh văn cá thể, trái lại phải nhìn chúng trong tương quan với toàn bộ Thánh Kinh. Thực vậy, mục tiêu mà ta nhất thiết phải tiến tới là Lời duy nhất. Trong diễn trình này, ta thấy một diễn biến bên trong, vì cuộc quá độ diễn ra trong quyền lực của Chúa Thánh Thần này nhất thiết can dự tới tự do của mỗi người chúng ta. Thánh Phaolô từng sống cuộc quá độ này một cách trọn vẹn trong cuộc sống của ngài. Trong câu của chính ngài: “Chữ viết sát hại, còn Thần Khí thì ban sự sống” (2 Cor 3:6), Thánh Phaolô đã diễn tả bằng những ngôn từ triệt để ý nghĩa của diễn trình vượt quá chữ viết ấy và việc ngài đạt tới chỗ chỉ hiểu nó theo cái toàn bộ. Ngài thấy rằng “Thần Khí tự do có tên riêng, và do đó, tự do ấy có một tiêu chuẩn nội tại: ‘Chúa là Thần Khí và ở đâu có Thần Khí Chúa, ở đấy có tự do’ (2 Cor 3:17). Thần Khí tự do không phải đơn thuần chỉ là ý niệm riêng của nhà chú giải, không phải là cách nhìn riêng của họ. Thần Khí ấy là Chúa Kitô, và Chúa Kitô là Chúa chỉ đường cho ta” (126). Ta biết rằng với cả Thánh Augustinô nữa, câu đó vừa gây ấn tượng vừa có tính giải thoát; ngài tin rằng Thánh Kinh, mà thoạt nhìn ngài cho là lỏng lẻo và có chỗ thô thiển hết sức, nhưng nhờ diễn trình vượt quá chữ viết mà ngài học được nơi Thánh Ambrôsiô trong việc giải thích loại hình (typological interpretation), nên toàn bộ Cựu Ước đã trở thành đường dẫn tới Chúa Giêsu Kitô. Đối với Thánh Augustinô, việc vượt quá nghĩa chiểu tự khiến chữ viết trở thành khả tín, và giúp ngài sau cùng tìm được câu trả lời cho nỗi khắc khoải nội tâm sâu thẳm và lòng thèm khát chân lý của ngài (127).
Tính thống nhất nội tại của Thánh Kinh
Trong cuộc quá độ từ chữ viết qua tinh thần và trong truyền thống vĩ đại của Giáo Hội, ta cũng học được cách nhìn ra tính thống nhất của mọi Sách Thánh, một sự thống nhất đặt cơ sở trên sự thống nhất của lời Chúa, vốn thách thức cuộc sống ta và không ngừng mời gọi ta hồi tâm (128). Ở đây, lời của Hugh thuộc (đan viện) Thánh Victor vẫn là một hướng dẫn chắc chắn: “Tất cả các Sách Thánh đều chỉ là một Cuốn Sách. Cuốn Sách duy nhất đó là chính Chúa Kitô, nói về Chúa Kitô và được nên trọn trong Chúa Kitô” (129). Dĩ nhiên, nếu chỉ đơn thuần nhìn theo phương diện lịch sử hay văn chương, thì Thánh Kinh không thể nào là một cuốn sách duy nhất được, mà là một hợp tuyển các bản văn đa dạng được soạn tác trong một ngàn năm hay hơn, và ngay những cuốn cá thể cũng không dễ gì cho thấy một sự thống nhất bên trong; trái lại, ta thấy nhiều chỗ bất nhất rõ ràng giữa chúng với nhau. Đây đương nhiên là trường hợp của Sách Thánh Do Thái mà Kitô hữu chúng ta quen gọi là Cựu Ước. Nhưng còn hơn thế nữa, khi Kitô hữu chúng ta coi Tân Ước và các sách của nó như một thứ chìa khóa giải thích Sách Thánh Do Thái, coi nó như đường dẫn tới Chúa Kitô. Xét chung, Tân Ước không sử dụng hạn từ “sách thánh” (Xem Rm 4:3; 1 Pr 2:6) mà là “các sách thánh” (xem Mt 21:43; Ga 5:39; Rm 1:2, 2 Pr 3:16), ấy thế nhưng chúng vẫn được nhìn trong cái toàn bộ của chúng như lời duy nhất Thiên Chúa dùng nói với chúng ta (130). Điều ấy chứng tỏ: chính ngôi vị Chúa Kitô đã đem lại sự thống nhất cho mọi “Sách Thánh”, làm chúng nên một “Lời”. Với cách đó, ta hiểu được lời lẽ của Số 12 trong Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” nhắc đến tính thống nhất bên trong của toàn bộ Thánh Kinh như tiêu chuẩn quyết định của việc giải thích chính xác bằng đức tin.
Mối tương quan giữa Tân Ước và Cựu Ước
Trước tấm phông thống nhất mọi Sách Thánh trong Chúa Kitô, các nhà thần học và cả mục tử nữa đều cần phải ý thức được mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước. Trước nhất, Tân Ước hiển nhiên nhìn nhận Cựu Ước là lời Chúa và do đó chấp nhận thẩm quyền của Sách Thánh Do Thái (131). Tân Ước mặc nhiên nhìn nhận Cựu Ước bằng cách sử dụng cùng một ngôn ngữ như nhau và thường hay trích dẫn các đoạn trong Sách Thánh ấy. Nó minh nhiên thừa nhận Sách Thánh Do Thái ở chỗ đã trưng dẫn nhiều phần trong đó làm căn bản cho luận chứng của mình. Trong Tân Ước, một luận chứng đặt căn bản trên Cựu Ước như thế có một giá trị dứt khoát, cao hơn giá trị các luận chứng chỉ có tính nhân bản. Trong Tin Mừng thứ bốn, Chúa Giêsu nói rằng “Không thể bác bỏ Thánh Kinh” (Ga 10:35). Thánh Phaolô thì đặc thù tuyên bố rõ: mạc khải của Cựu Ước vẫn có giá trị đối với Kitô hữu chúng ta (xem Rm 15:4; 1 Cor 10:11) (132). Ta cũng quả quyết rằng “Chúa Giêsu Nadarét là một người Do Thái và Đất Thánh là quê mẹ của Giáo Hội” (133): gốc rễ Kitô Giáo là ở nơi Cựu Ước, và Kitô Giáo liên tục rút tỉa được của nuôi dưỡng từ các gốc rễ này. Do đó, học lý lành mạnh của Kitô Giáo luôn luôn chống lại mọi hình thức của chủ nghĩa Marcion (nhị nguyên luận) vốn chủ trương đặt Cựu Ước đối nghịch với Tân Ước trong nhiều phương diện (134).
Hơn nữa, chính Tân Ước cũng cho là mình nhất quán với Cựu Ước và tuyên xưng rằng trong mầu nhiệm sống, chết và phục sinh của Chúa Kitô, Sách Thánh của Dân Do Thái đã tìm được sự nên trọn hoàn toàn của chúng. Tuy nhiên, cần nhận xét điều này ý niệm nên trọn của Sách Thánh là một ý niệm phức tạp, vì nó có tới ba chiều kích: chiều kích liên tục về căn bản với mạc khải Cựu Ước, chiều kích gián đọan và chiều kích nên trọn và vượt quá. Mầu nhiệm Chúa Kitô luôn liên tục về ý hướng với tín ngưỡng hy lễ của Cựu Ước, nhưng lại diễn ra một cách khác hẳn, phù hợp với một số lời tuyên bố tiên tri và do đó đạt tới sự toàn hảo chưa bao giờ có. Cựu Ước thì đầy những căng thẳng giữa hai khía cạnh định chế và tiên tri. Mầu nhiệm vượt qua của Chúa Kitô hoàn toàn phù hợp với các lời tiên tri và tiên đoán của Sách Thánh Do Thái, dù bằng một cách ít ai dự ứng được; ấy thế nhưng nó lại cho thấy những khía cạnh rõ ràng của một gián đoạn đối với các định chế của Cựu Ước.
Những xem sét đó cho thấy tầm quan trọng độc đáo của Cựu Ước đối với Kitô hữu, dù cùng một lúc chúng cho ta thấy sự mới lạ trong lối giải thích có tính Kitô học. Từ thời các Tông Đồ và trong Truyền Thống sống động của mình, Giáo Hội vốn nhấn mạnh tới tính thống nhất của kế hoạch của Thiên Chúa trong hai Giao Ước, qua việc sử dụng hình loại học (typology); thủ tục này không hề có tính võ đoán, nhưng nó nội tại ngay trong các biến cố được các bản văn thánh thuật lại và do đó bao gồm toàn bộ Thánh Kinh. Hình loại học “trong công trình của Thiên Chúa thời Giao Ước cũ, biện phân được những hình ảnh báo trước điều Người sẽ hoàn thành vào thời viên mãn trong con người của Con nhập thể của Người” (135). Nhờ thế, các Kitô hữu đã đọc Cựu Ước dưới ánh sáng Chúa Kitô chịu đóng đinh và sống lại. Dù việc giải thích theo hình loại học cho ta thấy nội dung khôn dò của Cựu Ước theo quan điểm Tân Ước, ta đừng quên rằng Cựu Ước vẫn duy trì được giá trị tự tại của nó trong tư cách mạc khải, như chính Chúa chúng ta đã tái khẳng định (xem Mc 12:29-31). Thành thử, “Phải đọc Tân Ước dưới ánh sáng Cựu Ước. Nền giáo lý Kitô Giáo ban sơ luôn luôn sử dụng Cựu Ước (xem 1 Cor 5:6-8; 1 Cor 10:1-11)” (136). Vì lý do đó, các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khẳng định rằng: “Cái hiểu Thánh Kinh của người Do Thái Giáo tỏ ra hữu ích đối với Kitô hữu để họ hiểu và nghiên cứu Sách Thánh” (137).
Thánh Augustinô từng nói một cách thông sáng rằng “Tân Ước dấu ẩn trong Cựu Ước và Cựu Ước được tỏ lộ trong Tân Ước” (138), Cho nên, điều quan trọng là trong cả hai khung cảnh mục vụ và học thuật, mối tương quan gần gũi giữa hai Giao Ước phải được chỉ ra cách rõ ràng, hợp với câu nói của Thánh Grêgôriô Cả: “Điều Cựu Ước hứa, Tân Ước phải biến thành hữu hình; điều Cựu Ước công bố một cách bí nhiệm, Tân Ước phải công bố công khai như đang xẩy ra. Cho nên, Cựu Ước là tiên tri của Tân Ước; và bản chú giải tốt nhất về Cựu Ước chính là Tân Ước” (139).
Những đoạn “tối” của Thánh Kinh
Khi thảo luận mối tương quan giữa Cựu Ước và Tân Ước, Thượng Hội Đồng cũng xem sét các đoạn trong Thánh Kinh mà vì tính bạo lực và vô luân thỉnh thoảng có trong chúng, cho nên tỏ ra tối nghĩa và khó hiểu. Ở đây, trước hết và trên hết, ta cần nhớ rằng mạc khải Thánh Kinh bắt rễ sâu trong lịch sử. Chương trình của Thiên Chúa được tỏ lộ một cách tiệm tiến và được hoàn thành một cách chậm chạp, qua nhiều giai đoạn tiếp nối nhau và bất kể các chống đối của con người. Thiên Chúa chọn một dân tộc và kiên nhẫn hướng dẫn và giáo dục họ. Mạc khải vừa với trình độ văn hóa và luân lý của thời xa xưa và do đó diễn tả các sự kiện và phong tục, như gian lận và đánh lừa, và các hành vi bạo lực và tàn sát, mà không minh nhiên lên án tính vô luân của những điều ấy. Điều ấy có thể giải thích bằng ngữ cảnh lịch sử, ấy thế nhưng nó có thể khiến độc giả hiện đại sửng sốt, nhất là nếu họ không chịu tính đến nhiều việc “tối tăm” đã diễn ra trong nhiều thế kỷ trước và cả ngày nay nữa. Nhưng cũng trong Cựu Ước, lời rao giảng của các tiên tri luôn mạnh mẽ thách thức bất cứ thứ bất công và bạo lực nào, bất kể là của tập thể hay của cá nhân, và do đó, trở thành cách Thiên Chúa dùng để huấn luyện dân Người chuẩn bị đón nhận Tin Mừng. Bởi thế, sẽ là một lầm lẫn khi bỏ qua những đoạn Thánh Kinh đối với chúng ta có vấn đề. Đúng hơn, ta nên biết rằng giải thích đúng đắn các đoạn văn đó đòi phải có một trình độ chuyên môn, chỉ có được nhờ một cuộc huấn luyện để giải thích bản văn theo ngữ cảnh văn chương lịch sử và trong viễn tượng Kitô Giáo, một viễn tượng vốn lấy “Tin Mừng và giới răn mới mà Chúa Giêsu Kitô đã đưa ra trong mầu nhiệm vượt qua” làm chìa khóa giải thích (140). Tôi khuyến khích các học giả và mục tử giúp mọi tín hữu tiếp cận các đoạn văn đó bằng một sự giải thích sao cho ý nghĩa của chúng xuất hiện dưới ánh sáng mầu nhiệm Chúa Kitô.
Kitô hữu, người Do Thái Giáo và Sách Thánh
Sau khi đã xem sét mối tương quan gần gũi giữa Tân Ước và Cựu Ước, dĩ nhiên bây giờ ta sẽ nhìn tới sợi dây nối kết đặc biệt mà mối tương quan kia phát sinh ra giữa Kitô hữu và tín hữu Do Thái Giáo, một sự nối kết không bao giờ được bỏ qua. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, khi nói tới người Do Thái Giáo, đã gọi họ là “ người ‘anh em thân yêu’ của chúng ta trong đức tin Ápraham, tổ phụ của chúng ta” (141). Nhìn nhận sự kiện này không hề coi thường các điển hình gián đoạn liên quan tới các định chế của Cựu Ước từng được Tân Ước quả quyết, càng không coi thường sự nên trọn của Sách Thánh trong mầu nhiệm Chúa Giêsu Kitô, vốn được nhìn nhận là đấng Mêxia và là Con Thiên Chúa. Tuy nhiên, sự khác biệt sâu xa và căn để này không hề hàm nghĩa một sự thù địch hỗ tương. Trái lại, thí dụ của Thánh Phaolô (xem Rm 9-11) cho ta thấy “thái độ tôn trọng, quí mến và yêu thương đối với dân tộc Do Thái là thái độ duy nhất có tính Kitô Giáo thực sự trong tình thế hiện nay, một tình thế vốn là một phần đầy mầu nhiệm trong kế hoạch hoàn toàn tích cực của Thiên Chúa” (142). Thực vậy, Thánh Phaolô nói về người Do Thái như sau: “theo ơn tuyển chọn, họ là những người được yêu thương, và đó là nhờ các tổ phụ, vì khi Thiên Chúa đã ban ơn, thì Người không hề đổi ý” (Rm 11:28-29).
Thánh Phaolô cũng dùng hình ảnh đáng yêu của cây ôliu để diễn tả mối liên hệ gần gũi giữa Kitô hữu và người Do Thái: Giáo Hội của Dân Ngoại giống như nhành ôliu dại được tháp vào cây ôliu tốt là Dân của Giao Ước (xem Rm 11:17-24). Nói cách khác, ta hút được của nuôi dưỡng từ cùng một gốc rễ thiêng liêng. Ta gặp nhau như anh chị em mà trong một lúc nào đó của lịch sử đã có những mối liên hệ căng thẳng, nhưng hiện nay đang cam kết bắc các nhịp cầu thân ái bền vững (143). Như Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II từng nói vào một dịp khác: “Chúng ta có nhiều điều chung với nhau. Cùng với nhau, chúng ta có thể đóng góp nhiều cho hòa bình, công lý và một thế giới huynh đệ và nhân đạo hơn” (144).
Tôi muốn một lần nữa tuyên bố rằng Giáo Hội hết sức trân qúi cuộc đối thoại của mình với người Do Thái. Bất cứ nơi nào thích hợp, ta nên tạo cơ hội để gặp gỡ và trao đổi, công khai cũng như tư riêng, và nhờ thế phát huy sự gia tăng hiểu biết lẫn nhau, quí mến và hợp tác hỗ tương, cũng như nghiên cứu Sách Thánh.
Giải thích Sách Thánh một cách cực đoan
Việc chúng ta lưu tâm tới các khía cạnh khác nhau trong đề tài giải thích Sách Thánh, giờ đây, giúp ta xem sét một chủ đề từng xuất hiện nhiều lần trong Thượng Hội Đồng: đó là chủ đề giải thích Sách Thánh theo quan điểm cực đoan (145).
Ủy Ban Giáo Hoàng về Thánh Kinh, trong tài liệu “Giải Thích Thánh Kinh trong Giáo Hội, đã đưa ra một số hướng dẫn quan trọng. Ở đây, tôi muốn đặc biệt nhắc tới các cách tiếp cận không biết tôn trọng sự chân xác của bản văn Thánh Kinh, mà đi cổ vũ các lối giải thích chủ quan và võ đoán. Chủ nghĩa “duy chiểu tự” (literalism) do cách tiếp cận duy cực đoan cổ vũ thực ra đại biểu cho sự phản bội cả nghĩa chiểu tự lẫn nghĩa thiêng liêng và mở đường cho nhiều hình thức thao túng như phổ biến các lối giải thích Thánh Kinh chống lại Giáo Hội. “Vấn đề căn bản của lối giải thích duy cực đoan là: vì từ khước không chịu lưu tâm tới đặc điểm lịch sử của mạc khải Thánh Kinh, nên nó tự làm cho mình không có khả năng nhìn nhận trọn vẹn chân lý về chính sự nhập thể. Về mối tương quan với Thiên Chúa, chủ nghĩa cực đoan tìm cách xa lánh bất cứ sự gần gũi nào giữa thần thiêng và nhân bản… vì lý do này, họ thường coi bản văn thánh như đã được Chúa Thánh Thần đọc từng lời. Nó không chịu thừa nhận rằng lời Thiên Chúa đã được trình bày bằng ngôn ngữ và biểu thức do nhiều thời kỳ khuôn định” (146). Mặt khác, trong lời, Kitô Giáo nhận ra chính Lời Thiên Chúa, tức Ngôi Lời, Đấng đã tỏ lộ mầu nhiệm của mình qua sự phức tạp và thực tại của lịch sử con người (147). Câu trả lời đúng sự thực cho lối tiếp cận duy cực đoan chính là “lối giải thích Thánh Kinh đầy đức tin”. Lối giải thích, “từng được thực hành từ thời cổ xưa trong Truyền Thống Giáo Hội này, mưu tìm chân lý cứu rỗi cho cuộc sống các Kitô hữu cá thể và cho toàn thể Giáo Hội. Nó nhìn nhận giá trị lịch sử của truyền thống Thánh Kinh. Chính nhờ giá trị của Thánh Kinh như một nhân chứng lịch sử, lối đọc này tìm cách khám phá ra ý nghĩa sống động của Thánh Kinh đối với cuộc sống các tín hữu ngày nay” (148), tuy nhiên vẫn không quên sự trung gian nhân bản của bản văn linh hứng và các văn thể của nó.
Đối thoại giữa các mục tử, thần học gia và nhà chú giải
Lối giải thích chân chính bằng đức tin mang lại nhiều hệ quả quan trọng đối với sinh hoạt mục vụ của Giáo Hội. Thí dụ, chính các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng đã khuyến cáo phải có một mối tương quan làm việc gần gũi giữa các vị mục tử, các thần học gia và các nhà chú giải. Các Hội Đồng Giám Mục nên cổ vũ những cuộc gặp gỡ như thế với “mục tiêu phát huy sự hiệp thông lớn lao hơn để phục vụ lời Chúa” (149). Sự hợp tác loại này sẽ giúp mọi người chu toàn việc làm của mình một cách hữu hiệu hơn vì lợi ích của toàn thể Giáo Hội. Đối với các học giả cũng thế, xu hướng mục vụ này bao gồm việc tiếp cận bản văn thánh với ý thức rằng đó là sứ điệp mà Chúa muốn ngỏ với ta để cứu rỗi ta. Theo lời của Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa”, thì “các nhà chú giải Công Giáo và những người khác đang làm việc trong lãnh vực thần học thánh nên chuyên chăm làm việc chung với nhau, dưới sự quan tâm của huấn quyền thánh. Nhờ sử dụng các kỹ thuật thích đáng, họ nên cùng nhau bắt tay xem sét và giải thích các bản văn thánh một cách nào đó để càng nhiều thừa tác viên lời Chúa càng hay biết phân phát một cách sung mãn chất nuôi dưỡng của Thánh Kinh cho dân Chúa. Chất nuôi dưỡng này soi sáng tâm trí, tăng cường ý chí và hun đốt trái tim mọi người bằng tình yêu của Thiên Chúa” (150).
Thánh Kinh và việc đại kết
Ý thức rằng Giáo Hội xây nền trên Chúa Kitô, Lời nhập thể của Thiên Chúa, nên Thượng Hội Đồng muốn nhấn mạnh tính trung tâm của việc nghiên cứu Thánh Kinh bên trong cuộc đối thoại đại kết nhằm diễn đạt trọn vẹn sự hợp nhất của mọi tín hữu trong Chúa Kitô (151). Chính trong Thánh Kinh đã có lời cầu nguyện cảm động của Chúa Giêsu ngỏ cùng Chúa Cha xin cho các môn đệ nên một, để thế gian tin (xem Ga 17:21). Tất cả những điều này nhằm tăng cường xác tín của ta rằng chỉ nhờ cùng lắng nghe và suy niệm Thánh Kinh, ta mới cảm nghiệm được sự hiệp thông chân thực, dù vẫn chưa trọn vẹn (152); “cùng nhau lắng nghe Thánh Kinh như thế sẽ thúc đẩy ta hướng tới đối thoại trong bác ái và giúp cho cuộc đối thoại chân lý ấy tiến triển” (153). Cùng nhau lắng nghe lời Chúa, tham gia đọc lời Chúa (lectiona divina) trong Thánh Kinh, để lòng mình cảm kích trước sự tươi mát của lời Chúa, một lời không bao giờ già nua xưa cũ, thắng vượt câm điếc đối với những lời không hợp với ý kiến hay định kiến riêng của ta, lắng nghe và học hỏi bên trong việc hiệp thông với các tín hữu mọi thời: tất cả những việc ấy nói lên cách ta tiến tới hợp nhất trong đức tin như một đáp trả đối với việc nghe lời Chúa” (154). Lời của Công Đồng Vatican II khá rõ ràng về phương diện này: “trong chính cuộc đối thoại (đại kết), Sách Thánh là dụng cụ quí giá trong bàn tay quyền năng của Thiên Chúa để đạt được sự hợp nhất kia, một sự hợp nhất mà Đấng Cứu Thế muốn dành cho mọi người” (155). Thành thử, nên có sự gia tăng về nghiên cứu, thảo luận và cử hành đại kết lời của Thiên Chúa, trong khi vẫn tôn trọng một cách thích đáng các qui định hiện thời và sự đa dạng về truyền thống (156). Các cử hành này đẩy mạnh chính nghĩa của phong trào đại kết và khi được thi hành một cách thích đáng, chúng có thể nói lên những giờ phút cô đọng của cầu nguyện chân chính nhằm xin Chúa làm cho mau tới ngày ta có thể ngồi cùng bàn với nhau và uống chung một chén. Tuy nhiên, dù việc cổ vũ cho những buổi cầu nguyện như thế là điều đáng khen và đúng đắn, nhưng ta nên cẩn thận, đừng giới thiệu các cử hành đó như các hình thức thay thế cho việc cử hành Thánh Lễ vào Chúa Nhật hay lễ buộc.
Trong việc nghiên cứu và cầu nguyện này, ta thanh thản nhìn nhận các khía cạnh vẫn còn cần được thăm dò một cách sâu xa hơn và những khía cạnh ta vẫn còn khác nhau, như việc tìm hiểu chủ thể giải thích có thẩm quyền trong Giáo Hội và vai trò quyết định của huấn quyền (157).
Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh tới lời tuyên bố của các Nghị Phụ Thượng Hội Đồng về tầm quan trọng đại kết của các bản dịch Thánh Kinh ra các ngôn ngữ khác nhau. Ta biết rằng phiên dịch một bản văn không hề là một trách vụ chỉ có tính kỹ thuật máy móc, nhưng, theo một nghĩa nào đó, nó thuộc công trình giải thích. Về phương diện này, Đấng Đáng Kính Gioan Phaolô II đã nhận định rằng “bất cứ ai nhớ lại việc các cuộc tranh luận về Thánh Kinh từng ảnh hưởng ra sao đối với việc phân rẽ, nhất là tại Tây Phương, hẳn có thể đánh giá được bước tiến có ý nghĩa mà các bản dịch chung này vốn đại biểu cho” (158). Cổ vũ các bản dịch Thánh Kinh chung là một phần trong công trình đại kết. Tôi xin cám ơn tất cả những người đã dấn thân vào công trình quan trọng này và xin khuyến khích họ kiên trì trong các cố gắng của mình.
Các hậu quả đối với việc nghiên cứu thần học
Một hậu quả khác nữa của việc giải thích thỏa đáng bằng đức tin liên quan tới các hệ luận tất yếu của nó đối với việc đào tạo giải thích và thần học, nhất là trong việc đào tạo các ứng viên làm linh mục. Cần phải thận trọng để bảo đảm rằng việc nghiên cứu Sách Thánh phải thực sự là linh hồn của thần học theo nghĩa nhìn nhận nó như là lời Thiên Chúa ngỏ với thế giới ngày nay, ngỏ với Giáo Hội và ngỏ với đích thân mỗi người chúng ta. Điều quan trọng là các tiêu chuẩn ấn định trong Số 12 Hiến Chế Tín Lý “Lời Chúa” phải được thực sự lưu ý và trở thành đối tượng cho một nghiên cứu sâu sắc hơn. Không nên khuyến khích ý niệm cho rằng việc tìm tòi có tính bác học phải tỏ ra trung lập đối với Thánh Kinh. Đồng thời với việc học các ngôn ngữ nguyên thủy mà trong đó Sách Thánh đã được viết ra, cũng như các phương pháp giải thích thoả đáng, các sinh viên còn cần phải có một đời sống thiêng liêng sâu sắc, ngõ hầu biết lượng giá điều này: chỉ có thể hiểu được Sách Thánh khi mang nó ra sống mà thôi.
Theo chiều hướng trên, tôi khẩn khoản yêu cầu cho việc nghiên cứu lời Chúa, cả truyền khẩu lẫn bản viết, không ngừng được tiến hành trong tinh thần sâu xa của Giáo Hội, và việc đào tạo học thuật biết lưu tâm đến những can thiệp thích đáng của huấn quyền, là các can thiệp “không cao hơn lời Chúa, nhưng đúng hơn làm tôi tớ cho lời ấy. Huấn quyền chỉ dạy những điều đã được truyền lại. Theo lệnh truyền của Chúa và với ơn trợ giúp của Chúa Thánh Thần, huấn quyền lắng nghe điều ấy một cách sốt sắng, cung kính gìn giữ nó và trình bày nó một cách trung thành” (159). Do đó, cần thận trọng để những lời giáo huấn đưa ra biết nhìn nhận rằng “Thánh Truyền, Thánh Kinh và huấn quyền của Giáo Hội hết sức gắn bó và liên kết với nhau đến nỗi một trong ba không thể đứng vững nếu không có hai thứ kia” (160). Tôi hy vọng rằng luôn trung thành với giáo huấn của Công Đồng Vatican II, việc nghiên cứu Thánh Kinh, thực hiện bên trong sự hiệp thông của Giáo Hội hoàn vũ, sẽ thực sự là linh hồn của việc nghiên cứu thần học (161).
Các thánh và việc giải thích Thánh Kinh
Việc giải thích Thánh Kinh sẽ không đầy đủ nếu nó không gồm việc lắng nghe những người đã thực sự sống lời Chúa, tức các thánh (162). Thực vậy, "viva lectio est vita bonorum" (bài đọc sống động chính là cuộc sống của những người tốt lành) (163). Việc giải thích Thánh Kinh sâu sắc nhất phát sinh từ chính những người từng để mình được lời Chúa lên khuôn qua việc lắng nghe, đọc và chăm chỉ suy niệm.
Chắc chắn không phải tình cờ mà các phong trào tu đức vĩ đại trong lịch sử Giáo Hội đều phát sinh từ việc minh nhiên tham chiếu Sách Thánh. Tôi nghĩ tới trường hợp Thánh Antôn đan viện trưởng, đấng đã xúc động khi nghe Chúa Kitô phán: “Nếu muốn nên trọn lành, con hãy đi, bán hết mọi sự con có rồi cho người nghèo, con sẽ có một kho tàng trên trời; rồi tới theo Thày” (Mt 19:21) (164). Không kém lưu ý, là câu hỏi được Thánh Basiliô Cả đặt ra trong cuốn Moralia: "Đâu là đặc điểm rõ nét của đức tin? Hoàn toàn chắc chắn, không một chút do dự là lời Thiên Chúa linh hứng là lời chân thật… Đâu là đặc điểm rõ nét của tín hữu? Đời họ sống theo cùng một sự chắc chắn hoàn toàn đối với ý nghĩa lời Sách Thánh, không dám thêm hay bớt bất cứ điều gì” (165). Trong Qui Luật của mình, Thánh Bênêđíctô gọi Sách Thánh là “qui luật hoàn hảo nhất đối với cuộc sống con người” (166). Còn Thánh Phanxicô Assisi, theo lời Thomas thành Celano thuật lại, “khi nghe người ta bảo các môn đệ của Chúa Kitô không nên sở hữu vàng, bạc hay tiền, cũng như không nên mang theo bao bị, bánh ăn, cũng như gậy đi đường, cả giầy dép cũng như hai áo khoác… bèn sảng khoái trong Chúa Thánh Thần, lập tức kêu lớn: ‘đó chính là điều tôi muốn có, chính đó là điều tôi hằng cầu xin, hằng tha thiết muốn thực hiện với hết tâm hồn tôi!’” (167). Thánh Clara thành Assisi hoàn toàn cũng có chung một cảm nghiệm như thánh Phanxicô: Bà viết “Hình thức sống của Dòng Chị Em Hèn Mọn là đây: tuân giữ Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (168). Thánh Đa Minh cũng thế “ở mọi nơi, luôn tỏ ra mình là người của Tin Mừng, trong lời nói cũng như trong việc làm” (169) và muốn các tu sĩ của mình cũng là “người của Tin Mừng” (170). Thánh Nữ Têrêxa thành Avila của Dòng Cát Minh, đấng luôn dùng các hình ảnh Thánh Kinh để giải thích các cảm nghiệm huyền nhiệm trong các trước tác của mình, vốn nói rằng chính Chúa Giêsu mạc khải cho Bà hay “mọi sự ác trên thế gian đều phát xuất từ việc không biết rõ ràng các chân lý của Sách Thánh” (171). Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu khám phá ra tình yêu như ơn gọi bản thân của mình là nhờ nghiền ngẫm Thánh Kinh nhất là các Chương 12 và 13 trong Thu thứ nhất gửi tín hữu Côrintô (172); cũng vị thánh này đã mô tả sự lôi cuốn của Sách Thánh: “ngay khi thoáng đọc Tin Mừng, tôi đã lập tức hít được hương thơm đời sống Chúa Giêsu và tôi biết mình phải chạy tới đâu” (173). Mọi vị thánh đều như tia sáng phát ra từ lời Chúa: ta có thể nghĩ tới Thánh Inhaxiô thành Loyola trong cuộc đi tìm chân lý của ngài cũng như trong việc ngài biện phân các loại tinh thần; Thánh Gioan Bosco, trong việc say mê giáo dục thanh thiếu niên; Thánh Gioan Maria Vianey trong ý thức của ngài về sự cao cả của chức linh mục như một hồng ân và một trách nhiệm; Thánh Piô thành Pietrelcina trong việc ngài phục vụ làm khí cụ của lòng thương xót Chúa; Thánh Josemaria Escrivá trong việc giảng dạy về ơn gọi phổ quát phải nên thánh; Chân Phúc Têrêxa thành Calcutta, nhà truyền giáo của tình Chúa yêu thương những người nghèo nhất trong số người nghèo, rồi các vị tử đạo của chủ nghĩa Quốc Xã và chủ nghĩa Cộng Sản, đại biểu bởi Thánh Têrêxa Bênêđícta Thánh Giá (Edith Stein), một nữ tu Dòng Cát Minh, và Chân Phúc Aloysiô Stepinac, Hồng Y Tổng Giám Mục Zagreb.
Như thế, sự thánh thiện được lời Chúa linh hứng, theo một nghĩa nào đó, thuộc truyền thống tiên tri, trong đó, lời Thiên Chúa biến chính cuộc sống của vị tiên tri thành người phục vụ của nó. Theo nghĩa này, sự thánh thiện trong Giáo Hội cấu thành một việc giải thích Thánh Kinh mà ta không được xem thường. Chúa Thánh Thần, Đấng linh hứng các tác giả thánh, cũng cùng là Thần Khí từng thúc đẩy các thánh hiến đời mình cho Tin Mừng. Bằng cách ráng học theo gương các ngài, ta quả đang trên đường chắc chắn hướng tới một cuộc giải thích Thánh Kinh đầy sống động và có hiệu quả.
Ta đã được thấy các chứng nhân trực tiếp làm chứng cho mối liên kết giữa sự thánh thiện và lời Chúa này ngay trong lúc có Cuộc Họp Thượng Hội Đồng Lần Thứ Mười Hai, khi 4 vị hiển thánh mới được tôn phong vào ngày 12 tháng Mười tại Quảng Trường Thánh Phêrô. Đó là các vị: Gaetano Errico, linh mục và người lập ra Tu Hội Truyền Giáo Thánh Tâm Chúa Giêsu và Mẹ Maria; Mẹ Maria Bernarda Bütler, quê Thụy Sĩ và là một nhà truyền giáo tại Ecuador và Colombia; Nữ Tu Alphonsa Vô Nhiễm Thai, vị thánh đầu tiên sinh tại Ấn Độ được tôn phong; và nữ tín hữu trẻ người Ecuador là Narcisa de Jesús Martillo Morán. Bằng cuộc sống của mình, các vị làm chứng, trước mặt thế giới và Giáo Hội, cho sự sung mãn vĩnh hằng của Tin Mừng Chúa Kitô. Nhờ lời cầu bầu của các vị thánh được tôn phong vào thời điểm cuộc họp của Thượng Hội Đồng về lời Chúa này, ta hãy xin Chúa để chính đời sống ta trở thành “thửa đất tốt” cho Đấng Gieo Hạt Thần Linh trồng lời của Người trên đó, ngõ hầu lời ấy trổ sinh nhiều hao trái thánh thiện trong ta, “gấp ba mươi, sáu mươi, một trăm lần” (Mt 4:20)