CHÚA NHẬT XV (TN B)
Dẫn nhập đầu lễ : Kính thưa cộng đoàn,
Sứ điệp Phụng vụ hôm nay là một lời mời gọi “lên đường”. Lên đường thực thi sứ vụ “Tông Đồ”; lên đường loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa; lên đường chữa lành cá bệnh tật hồn xác, thoa dịu những khổ đau, mang lại niềm hy vọng; lên đường xua tan bóng tối của sự dữ và ma quỷ; lên đường để xây dựng Vương quốc Nước Trời…
Là Kitô hữu, với hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy, được trang bị những vũ khí và hành trang của Tin Mừng Tám Mối Phúc thật, theo định hướng và phương pháp của chính Chúa Kitô, chúng ta hân hoan cất bước lên đường trong tin yêu và phó thác, trong khiêm hạ và tín trung.
Giờ đây….
Giảng Lời Chúa:
Đối với người kitô hữu, “ơn gọi tông đồ”, “sứ mệnh ngôn sứ” chính là “căn tính” gắn liền với phẩm giá và đi theo suốt cả cuộc đời trần gian, một đời sống vốn thuộc về Chúa Kitô, Đấng chính là Vị Tông Đồ, là Ngôn sứ của Chúa Cha như chính Ngài đã khẳng quyết: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Ơn gọi nầy, sứ vụ nầy, chẳng phải chỉ có vào thời Tân ước, vào lúc Chúa Giêsu chọn gọi và sai các môn sinh, mà ngay từ xa xôi trong lịch sử cựu ước, đã biết bao lần chúng ta nghe vang lên nhiều “chuyện kể” hay ho về ơn gọi ngôn sứ, một ơn gọi gần như “độc quyền” thuộc về phía Thiên Chúa. Như hôm nay, trong bài đọc 1, Amos được gọi làm ngôn sứ như chuyện trong mơ: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”.
Quả thật, một khi Chúa đã “bắt lấy”, thì con người chỉ còn có một con đường duy nhất theo cách của sứ ngôn I-sa-ia đó là: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Vì nếu cưởng chống kiểu Gio-na, thì cuối cùng Chúa cũng cho cá mập đớp vào bụng rồi quăng đến nơi phải đến (Gn 2,1-11), hay như cái kiểu “coup de foudre” trên đường Damas dành cho Saolô đã khiến anh chàng Pharisiêu ghét cay ghét đắng Kitô giáo nầy đã “quay hẳn 180 độ” để trở nên Tông Đồ và là “Tông đồ thứ thiệt” của Tin Mừng Phục Sinh, Tông Đồ Dân ngoại ! Và như thế, ai trong chúng ta đều cũng có thể hát lên “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người…”, để rồi khiêm tốn như Đức Trinh Nữ Maria cuối đầu trước dự định tình yêu của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38), hay cầu xin cho được một chút mạnh mẽ can đảm như chính Con Thiên Chúa khi cất bước vào đời: “Lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7).
Thế nhưng có người lại thắc mắc: làm ngôn sứ là làm những gì ? và đi làm Tông đồ là đi tới đâu, tới địa chỉ nào ? Cách đây hơn 2000 năm, Ngôi Lời Thiên Chúa “đi làm ngôn sứ”, đi làm Tông đồ đoc chính là nhập thể vào đời và đén với “địa chỉ” là “đến nhà mình”, ngôi nhà mà ở đó thánh Tông Đồ Gioan đã nhận xét: “người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11), có khi tỏ thái độ dè bĩu rẻ khinh, như tường thuật của Phúc âm Mác-cô trong Chúa Nhật tuần trước: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (Mc 6,1-6).
Chính trong ý nghĩa đó mà chúng ta hiểu được rằng: mọi nơi và mọi thời vẫn có và vẫn còn nhưng địa chỉ “nhà mình” từ chối Đức Kitô, những “Na-da-rét” khép lòng trước sứ điệp phúc âm, những “Bê-lem” đóng chặt cánh cửa để khước từ những “đôi uyên ương đến từ Na-da-rét” đi tìm một chỗ dung thân cho ngày người vợ trẻ Maria “sinh hoa mãn nguyệt”. Địa chỉ mà những ngôn sứ, những tông đồ của thời đại hôm nay phải dấn thân tìm đến nào có xa lạ gì đâu khi vẫn còn biết bao gia đình mà nơi đó có những người cha rượu chè be bét, với những người mẹ bạc bài suốt sáng thâu đêm, con cái bị vất ra đầu đường xó chợ; có xa lạ gì đâu khi qunh chúng ta đây, trong ngay thành phố nầy, vẫn còn đầy dẫy những bệnh nhân trong các bệnh viện thoi thóp chống chọi từng phút giây với cơn đau và tử thần trong khổ sầu và thất vọng; vẫn còn bao nhiêu bạn trẻ thác loạn vì xì ke ma túy, trác táng buông thả với yêu cuồng sống vội; có xa lạ gì đâu khi còn biết bao thân phận của những người nghèo bị bóc lột tàn nhẫn trên những công lao của nước mắt và mồ hôi; có xa lạ gì đâu khi còn biết bao địa chỉ là những nhà tù đầy ắp những “tù nhân lương tâm” chỉ vì chấp nhận trả giá cho những đòi hỏi của tự do công bình và bác ái; và còn biết bao địa chỉ, nơi mà những tiếng thét gào của những em bé muốn được làm người nhưng đành vĩnh biệt cuộc sống khi chưa kịp nhìn thấy ánh sáng hay chưa nên hình nên dạng; nơi mà những bóng tối âm u của thủ đoạn lọc lừa, của tính toan gian ác, đang kết bầy kết nhóm để vinh thân phì gia, để ăn trên ngồi trước, để triệt tiêu kẻ lành, để đem về bạo lực, để gây nên khủng bố…
Vâng, bao lâu còn thế giới nầy là bấy lâu còn lầm than và tội ác, còn quỷ ma và tật bệnh…, và vì thế vẫn còn có biết bao nhiêu địa chỉ đang vẫy gọi bước chân người ngôn sứ, đang kêu cứu những Tông đồ; không phải chỉ đến để “giảng rao sự sám hối” hay thoa dịu ủi an… mà còn phải ra tay “khu trừ ma quỷ và xức dầu chữa lành các bệnh nhân”. Vì thế, điều quan trọng hơn ở đây, lúc nầy lại là hãy kiểm tra xem chúng ta đang lên đường với thứ vũ khí nào trong tay, với hành trang nào đang có ! Có phải là những chiếc “áo giáp và thanh gươm nặng nề của Go-li-át” tượng trưng cho sự cậy dựa vào thế lực trần gian (1 Sm 17,32-51), hay là “tấm áo da cừu, cây gậy với vài viên đá cuội và cái dây phóng đá của chàng thanh niên chăn chiên Đa-vít, tượng trưng cho niềm tin yêu phó thác nơi quyền năng Đấng Tối Cao ?
Câu giải đáp chính là “mệnh lệnh” của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe Tin Mừng Mác-cô công bố ! “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép nhưng không được mặc hai áo”.
Thế đó ! hành trang tông đồ, vũ khí của người ngôn sứ dùng để lên đường dấn thân chiến đấu với quỷ ma và tật bệnh, với tội lỗi và bóng tối lại chỉ là “sự khó nghèo” trong tin yêu phó thác, là niềm trông cậy trong sức mạnh và sự trợ giúp của chính Thiên Chúa, là những giá trị và cung cách ứng xử mang dáng đứng khiêm hạ, yêu thương…Và chúng ta cũng thừa biết, với những vũ khí và hành trang đơn sơ đó, Đa-vít đã chiến đấu và chiến thắng: “Ta đến với ngươi nhân danh Thiên Chúa các đạo binh”. Vâng, trong trangh bị và tư thế đó, “khi Đa-vít xuất chiêu” kẻ thù liền gục ngã. Và chính “Hậu Duệ” của Ngài, người thanh niên thợ mộc làng Na-da-rét, Đức Giêsu-Kitô cũng đã lại “xuất chiêu” theo “bí kiếp” của tổ tiên đã từng thực hiện như thế khi chấp nhận con đường khó nghèo và tự hạ thẳm sâu của khổ nạn thập giá để chỗi dậy vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Và lịch sử 2000 năm của “tảng Đá Phêrô” không bao giờ được bảo đảm tồn tại và phát triển vững vàng bởi “những sư đoàn thiện chiến”, bởi những kho tàng của vàng bạc hay vũ khí…mà cốt yếu đó là bởi hàng hàng lớp lớp những vị Thánh Nhân Tử đạo, những cô thiếu nữ đồng trinh, những chàng thanh niên quảng đại hoàn toàn khó nghèo, tay trắng, những tâm hồn thiếu nhi trong sáng, những giáo hoàng, giám mục, linh mục gương mẫu, vị tha, những người mẹ, người cha tảo tần chung thủy…
Sống sứ mệnh ngôn sứ hôm nay đó chính là từng ngày, từng ngày ra khỏi cái tôi dục vọng và ích kỷ, kiêu căng và hẹp hòi, để sẵn sàng “đập bể bình dầu cam tùng quí giá” là chính cuộc đời mình, để làm rực lên mùi thơm cho mái nhà Giáo Hội, là biết cho đi “đồng xu teng của bà góa”, những đóng góp và nỗ lực hy sinh phục vụ cộng đoàn trong những công tác mục vụ nhỏ nhoi, âm thầm của người chức việc, của các giáo lý viên…
Sống sứ mệnh ngôn sứ hôm nay cũng chính là những giọt mồ hôi liêm khiết và trách nhiệm của người Công chính Giuse nơi công trường làm việc, là sự can đảm bảo vệ đức khiết trinh đến cùng cho dù phải chết như cố bé 12 tuổi, Martia Goretti, là hân hoan chấp nhận thương đau để đáp trả tình yêu như chàng thanh niên Anrê Phú Yên, Người chứng thứ nhất...
Chúng ta xác tín rằng: Tật bệnh thể xác và tâm linh sẽ được chữa lành, quyền lực của bóng tối quỷ ma sẽ bị đẩy lùi, niềm tin yêu hy vọng sẽ tràn lan khắp chốn. Tuy nhiên, trong khi chờ giây phút hiện thực huy hoàng đó, chúng ta hãycầu nguyện cho nhau:
Lạy Chúa Giêsu,
Thế giới thật bao la
Mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm tay nhau
Mà tin tưởng lên đường
Nhẹ nhàng và thanh thoát… (Manna)
Giuse Trương Đình Hiền
Nắm tay lên đường nhẹ nhàng và thanh thoát
Dẫn nhập đầu lễ : Kính thưa cộng đoàn,
Sứ điệp Phụng vụ hôm nay là một lời mời gọi “lên đường”. Lên đường thực thi sứ vụ “Tông Đồ”; lên đường loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa; lên đường chữa lành cá bệnh tật hồn xác, thoa dịu những khổ đau, mang lại niềm hy vọng; lên đường xua tan bóng tối của sự dữ và ma quỷ; lên đường để xây dựng Vương quốc Nước Trời…
Là Kitô hữu, với hồng ân của nhiệm tích Thánh Tẩy, được trang bị những vũ khí và hành trang của Tin Mừng Tám Mối Phúc thật, theo định hướng và phương pháp của chính Chúa Kitô, chúng ta hân hoan cất bước lên đường trong tin yêu và phó thác, trong khiêm hạ và tín trung.
Giờ đây….
Giảng Lời Chúa:
Đối với người kitô hữu, “ơn gọi tông đồ”, “sứ mệnh ngôn sứ” chính là “căn tính” gắn liền với phẩm giá và đi theo suốt cả cuộc đời trần gian, một đời sống vốn thuộc về Chúa Kitô, Đấng chính là Vị Tông Đồ, là Ngôn sứ của Chúa Cha như chính Ngài đã khẳng quyết: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Ơn gọi nầy, sứ vụ nầy, chẳng phải chỉ có vào thời Tân ước, vào lúc Chúa Giêsu chọn gọi và sai các môn sinh, mà ngay từ xa xôi trong lịch sử cựu ước, đã biết bao lần chúng ta nghe vang lên nhiều “chuyện kể” hay ho về ơn gọi ngôn sứ, một ơn gọi gần như “độc quyền” thuộc về phía Thiên Chúa. Như hôm nay, trong bài đọc 1, Amos được gọi làm ngôn sứ như chuyện trong mơ: “Tôi không phải là ngôn sứ, cũng chẳng phải là người thuộc nhóm ngôn sứ. Tôi chỉ là người chăn nuôi súc vật và chăm sóc cây sung. Chính Đức Chúa đã bắt lấy tôi khi tôi đi theo sau đàn vật, và Đức Chúa đã truyền cho tôi: “Hãy đi tuyên sấm cho Ít-ra-en dân Ta”.
Quả thật, một khi Chúa đã “bắt lấy”, thì con người chỉ còn có một con đường duy nhất theo cách của sứ ngôn I-sa-ia đó là: “Dạ, con đây, xin sai con đi” (Is 6,8). Vì nếu cưởng chống kiểu Gio-na, thì cuối cùng Chúa cũng cho cá mập đớp vào bụng rồi quăng đến nơi phải đến (Gn 2,1-11), hay như cái kiểu “coup de foudre” trên đường Damas dành cho Saolô đã khiến anh chàng Pharisiêu ghét cay ghét đắng Kitô giáo nầy đã “quay hẳn 180 độ” để trở nên Tông Đồ và là “Tông đồ thứ thiệt” của Tin Mừng Phục Sinh, Tông Đồ Dân ngoại ! Và như thế, ai trong chúng ta đều cũng có thể hát lên “Từ ngàn xưa Cha đã yêu con, Cha gọi con giữa muôn người…”, để rồi khiêm tốn như Đức Trinh Nữ Maria cuối đầu trước dự định tình yêu của Thiên Chúa: “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa” (Lc 1,38), hay cầu xin cho được một chút mạnh mẽ can đảm như chính Con Thiên Chúa khi cất bước vào đời: “Lạy Thiên Chúa, nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7).
Thế nhưng có người lại thắc mắc: làm ngôn sứ là làm những gì ? và đi làm Tông đồ là đi tới đâu, tới địa chỉ nào ? Cách đây hơn 2000 năm, Ngôi Lời Thiên Chúa “đi làm ngôn sứ”, đi làm Tông đồ đoc chính là nhập thể vào đời và đén với “địa chỉ” là “đến nhà mình”, ngôi nhà mà ở đó thánh Tông Đồ Gioan đã nhận xét: “người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1, 11), có khi tỏ thái độ dè bĩu rẻ khinh, như tường thuật của Phúc âm Mác-cô trong Chúa Nhật tuần trước: “Ngôn sứ có bị rẻ rúng thì cũng chỉ là ở chính quê hương mình” (Mc 6,1-6).
Chính trong ý nghĩa đó mà chúng ta hiểu được rằng: mọi nơi và mọi thời vẫn có và vẫn còn nhưng địa chỉ “nhà mình” từ chối Đức Kitô, những “Na-da-rét” khép lòng trước sứ điệp phúc âm, những “Bê-lem” đóng chặt cánh cửa để khước từ những “đôi uyên ương đến từ Na-da-rét” đi tìm một chỗ dung thân cho ngày người vợ trẻ Maria “sinh hoa mãn nguyệt”. Địa chỉ mà những ngôn sứ, những tông đồ của thời đại hôm nay phải dấn thân tìm đến nào có xa lạ gì đâu khi vẫn còn biết bao gia đình mà nơi đó có những người cha rượu chè be bét, với những người mẹ bạc bài suốt sáng thâu đêm, con cái bị vất ra đầu đường xó chợ; có xa lạ gì đâu khi qunh chúng ta đây, trong ngay thành phố nầy, vẫn còn đầy dẫy những bệnh nhân trong các bệnh viện thoi thóp chống chọi từng phút giây với cơn đau và tử thần trong khổ sầu và thất vọng; vẫn còn bao nhiêu bạn trẻ thác loạn vì xì ke ma túy, trác táng buông thả với yêu cuồng sống vội; có xa lạ gì đâu khi còn biết bao thân phận của những người nghèo bị bóc lột tàn nhẫn trên những công lao của nước mắt và mồ hôi; có xa lạ gì đâu khi còn biết bao địa chỉ là những nhà tù đầy ắp những “tù nhân lương tâm” chỉ vì chấp nhận trả giá cho những đòi hỏi của tự do công bình và bác ái; và còn biết bao địa chỉ, nơi mà những tiếng thét gào của những em bé muốn được làm người nhưng đành vĩnh biệt cuộc sống khi chưa kịp nhìn thấy ánh sáng hay chưa nên hình nên dạng; nơi mà những bóng tối âm u của thủ đoạn lọc lừa, của tính toan gian ác, đang kết bầy kết nhóm để vinh thân phì gia, để ăn trên ngồi trước, để triệt tiêu kẻ lành, để đem về bạo lực, để gây nên khủng bố…
Vâng, bao lâu còn thế giới nầy là bấy lâu còn lầm than và tội ác, còn quỷ ma và tật bệnh…, và vì thế vẫn còn có biết bao nhiêu địa chỉ đang vẫy gọi bước chân người ngôn sứ, đang kêu cứu những Tông đồ; không phải chỉ đến để “giảng rao sự sám hối” hay thoa dịu ủi an… mà còn phải ra tay “khu trừ ma quỷ và xức dầu chữa lành các bệnh nhân”. Vì thế, điều quan trọng hơn ở đây, lúc nầy lại là hãy kiểm tra xem chúng ta đang lên đường với thứ vũ khí nào trong tay, với hành trang nào đang có ! Có phải là những chiếc “áo giáp và thanh gươm nặng nề của Go-li-át” tượng trưng cho sự cậy dựa vào thế lực trần gian (1 Sm 17,32-51), hay là “tấm áo da cừu, cây gậy với vài viên đá cuội và cái dây phóng đá của chàng thanh niên chăn chiên Đa-vít, tượng trưng cho niềm tin yêu phó thác nơi quyền năng Đấng Tối Cao ?
Câu giải đáp chính là “mệnh lệnh” của Chúa Giêsu mà chúng ta vừa nghe Tin Mừng Mác-cô công bố ! “Không được mang gì đi đường, chỉ trừ cây gậy; không được mang lương thực, bao bị, tiền giắt lưng; được đi dép nhưng không được mặc hai áo”.
Thế đó ! hành trang tông đồ, vũ khí của người ngôn sứ dùng để lên đường dấn thân chiến đấu với quỷ ma và tật bệnh, với tội lỗi và bóng tối lại chỉ là “sự khó nghèo” trong tin yêu phó thác, là niềm trông cậy trong sức mạnh và sự trợ giúp của chính Thiên Chúa, là những giá trị và cung cách ứng xử mang dáng đứng khiêm hạ, yêu thương…Và chúng ta cũng thừa biết, với những vũ khí và hành trang đơn sơ đó, Đa-vít đã chiến đấu và chiến thắng: “Ta đến với ngươi nhân danh Thiên Chúa các đạo binh”. Vâng, trong trangh bị và tư thế đó, “khi Đa-vít xuất chiêu” kẻ thù liền gục ngã. Và chính “Hậu Duệ” của Ngài, người thanh niên thợ mộc làng Na-da-rét, Đức Giêsu-Kitô cũng đã lại “xuất chiêu” theo “bí kiếp” của tổ tiên đã từng thực hiện như thế khi chấp nhận con đường khó nghèo và tự hạ thẳm sâu của khổ nạn thập giá để chỗi dậy vinh quang chiến thắng tội lỗi và sự chết.
Và lịch sử 2000 năm của “tảng Đá Phêrô” không bao giờ được bảo đảm tồn tại và phát triển vững vàng bởi “những sư đoàn thiện chiến”, bởi những kho tàng của vàng bạc hay vũ khí…mà cốt yếu đó là bởi hàng hàng lớp lớp những vị Thánh Nhân Tử đạo, những cô thiếu nữ đồng trinh, những chàng thanh niên quảng đại hoàn toàn khó nghèo, tay trắng, những tâm hồn thiếu nhi trong sáng, những giáo hoàng, giám mục, linh mục gương mẫu, vị tha, những người mẹ, người cha tảo tần chung thủy…
Sống sứ mệnh ngôn sứ hôm nay đó chính là từng ngày, từng ngày ra khỏi cái tôi dục vọng và ích kỷ, kiêu căng và hẹp hòi, để sẵn sàng “đập bể bình dầu cam tùng quí giá” là chính cuộc đời mình, để làm rực lên mùi thơm cho mái nhà Giáo Hội, là biết cho đi “đồng xu teng của bà góa”, những đóng góp và nỗ lực hy sinh phục vụ cộng đoàn trong những công tác mục vụ nhỏ nhoi, âm thầm của người chức việc, của các giáo lý viên…
Sống sứ mệnh ngôn sứ hôm nay cũng chính là những giọt mồ hôi liêm khiết và trách nhiệm của người Công chính Giuse nơi công trường làm việc, là sự can đảm bảo vệ đức khiết trinh đến cùng cho dù phải chết như cố bé 12 tuổi, Martia Goretti, là hân hoan chấp nhận thương đau để đáp trả tình yêu như chàng thanh niên Anrê Phú Yên, Người chứng thứ nhất...
Chúng ta xác tín rằng: Tật bệnh thể xác và tâm linh sẽ được chữa lành, quyền lực của bóng tối quỷ ma sẽ bị đẩy lùi, niềm tin yêu hy vọng sẽ tràn lan khắp chốn. Tuy nhiên, trong khi chờ giây phút hiện thực huy hoàng đó, chúng ta hãycầu nguyện cho nhau:
Lạy Chúa Giêsu,
Thế giới thật bao la
Mà vòng tay chúng con quá nhỏ.
Xin dạy chúng con biết nắm tay nhau
Mà tin tưởng lên đường
Nhẹ nhàng và thanh thoát… (Manna)
Giuse Trương Đình Hiền