SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÔN NHÂN CÔNG GIÁO

Lịch sử hôn nhân Kitô giáo vừa phức tạp vừa quan trọng. Hôn nhân ấy chịu ảnh hưởng bởi các thay đổi trong xã hội, trong triết học, trong thần học và cả trong tổ chức của Giáo Hội nữa. Cuộc khảo sát chi tiết của Joseph Martos về lịch sử ấy đáng cho ta nghiên cứu cẩn trọng bởi nó sẽ mang lại nhiều soi sáng cho những vấn đề tôn giáo mà ngày nay người ta vẫn còn đặt ra đối với hôn nhân.

I. NHỮNG HIỂU BIẾT KHỞI THỦY CỦA LA MÃ, CỦA DO THÁI VÀ CỦA KITÔ GIÁO VỀ HÔN NHÂN

Hôn nhân được coi là một bí tích theo nghĩa rộng một cách khá sớm trong lịch sử Kitô giáo, nhưng chỉ đến thế kỷ 12, nó mới được coi là một bí tích theo cùng một ý nghĩa như phép Rửa và các Bí tích chính thức khác. Thực thế, trước thế kỷ 11, không hề có vấn đề nghi lễ hôn phối Kitô giáo, và suốt thời Trung Cổ, không hề có một nghi thức đơn độc nào của Giáo Hội dùng để cử hành cách long trọng các hôn lễ giữa các Kitô hữu với nhau. Chỉ mãi sau Công Đồng Trent, vì nhu cầu phải loại bỏ những lạm dụng trong việc cưới xin tư riêng, nên mới phát sinh ra một thứ nghi thức tiêu chuẩn của Công Giáo.

Trong các thế kỉ đầu của Kitô giáo, song song với việc thiếu một nghi lễ Giáo Hội để kết hiệp các Kitô hữu trong hôn nhân, ta cũng thấy không có các qui định đồng nhất của Giáo Hội liên quan đến hôn nhân. Bao lâu đế quốc La Mã còn đó – và nó tồn tại tại Phương Đông lâu hơn tại Phương Tây – thì các nhà lãnh đạo Giáo Hội vẫn còn chủ yếu dựa vào nhà cầm quyền dân sự để điều hòa việc cưới xin và li dị giữa các Kitô hữu cũng như không Kitô hữu với nhau. Chỉ khi đế quốc La Mã không còn khả năng áp đặt các luật lệ của mình nữa, thì các giám mục Kitô giáo mới bắt đầu lãnh trách nhiệm kiểm sóat việc cưới xin về phương diện luật lệ và biến nó thành chức năng chính thức của Giáo Hội. Bên Tây, các nhà lãnh đạo Giáo Hội cuối cùng đã chấp nhận quan điểm cho rằng hôn nhân giữa các Kitô hữu chỉ có thể tiêu hủy bằng cái chết mà thôi; bên Đông, họ vẫn còn theo các tập tục dân sự nên còn cho phép tiêu hủy hôn nhân trong một số trường hợp. Để bảo vệ tính cách vĩnh viễn của hôn nhân, Giáo Hội Công Giáo La Mã dần dần đã phát triển ra một hệ thống phức tạp gồm các khoản giáo luật và các tòa án Giáo Hội, mà các nhà cải cách Thệ phản cho là không hợp với Thánh Kinh và không cần thiết. Ngày nay, một số thần học gia và giáo luật gia Công Giáo đang tự hỏi phải chăng tốt hơn nên trả lại cho thẩm quyền dân sự việc kiểm soát hôn nhân về phương diện luật pháp, tuy không chối cãi là nghi lễ hôn phối trong Giáo Hội là những cử hành quan trọng có tính cách cộng đoàn hoặc hôn nhân Kitô giáo có tính cách bí tích.

NHỮNG CÁI SONG HÀNH VÀ NHỮNG ĐIỀU TIỀN LỆ

Nguồn gốc của hôn nhân cũng tối tăm như nguồn gốc của loài người vậy. Chắc chắn cả hai đã bắt đầu vào một lúc nào đó và ở một nơi nào đó vì cả hai đang có mặt ở đây lúc này. Nhưng vấn đề loài người là do một cặp nguyên thủy sinh ra hay là một tập hợp nhiều sắc dân rải rác khắp nơi thì chưa ai biết rõ và chắc chắn sẽ không ai biết chắc được. Và vấn đề hôn nhân khởi đầu bằng lang chạ (promiscuity) hay bằng chung thủy, đơn hôn hay đa hôn, mẫu hệ hay phụ hệ cũng là một vấn đề lịch sử có lẽ chẳng bao giờ có câu trả lời chính xác.

Tuy nhiên, trong các nền văn hóa tiền lịch sử và cổ xưa, dưới hình thức này hay hình thức khác, hôn nhân đã được thiết định đàng hoàng như là một hệ thống các mối liên hệ dùng để nối kết con người ta lại với nhau trong tình thân bằng quyến thuộc, theo nghề nghiệp và địa vị xã hội. Như một phong tục đã được chấp nhận, hôn nhân mang nhiều hình thức khác nhau tùy theo nơi và tùy theo thời gian, và các tập tục trong hôn nhân qua các thời đại xem ra cũng đa dạng như chính các nền văn hóa trong đó chúng có mặt. Song bất kể có tính cách vĩnh viễn hay tạm bợ, do nam giới hay nữ giới, dòng tộc hay cá nhân cầm đầu, hôn nhân luôn luôn là phương thức được xã hội định chế hóa để xác định các mối liên hệ giữa các phái tính, để thiết lập ra các quyền lợi và trách nhiệm cho cha mẹ và con cái, để đem lại sự gắn bó và liên tục tính cho xã hội.

Những điều này rất quan trọng trong bất cứ nền văn hóa nào dù là du mục hay định sở trong lối sống, săn bắn hay trồng trọt để sinh tồn, bộ lạc hay đô thị trong tổ chức. Và vì các liên hệ xã hội quan trọng như vậy, nên các phong tục về hôn nhân bao quanh chúng và hỗ trợ chúng thường được tôn kính và coi như thánh thiêng, và theo nghĩa rộng cũng có tính tôn giáo nữa.

HÔN NHÂN LA MÃ

Thí dụ như thời đầu của La Mã, hôn nhân được coi như việc tôn giáo, tuy là tôn giáo của gia đình; vì lúc ấy chưa có tôn giáo chính thức cho toàn thể quốc gia để hiệp nhất các dòng tộc đang sống rải rác tại miền trung Ý Đại Lợi. Người cha trong từng gia đình hành xử như vị tư tế và có trách nhiệm bảo tồn tôn giáo của gia đình, nghĩa là tôn kính các thần minh của gia đình mình và tôn kính hồn thiêng những tiền nhân đã qúa vãng. Ngoài việc hướng dẫn gia đình trong việc thờ phượng ra, một trong những nhiệm vụ chính của người cha gia đình là giúp các con (nhất là con trai) biết tiếp tục tôn giáo của gia đình. Thời sơ khai, các cô gái bị bắt từ các dòng họ lân cận để làm nhiệm vụ duy trì dòng dõi gia đình, nhưng sau đó tập tục ấy phải nhường bước cho tập tục ít bạo hành hơn qua hình thức hôn nhân sắp xếp: người cha gia đình kiếm vợ cho con trai bằng cách trả một khoản gọi là ‘giá cô dâu’ để đền bù cho gia đình nhà gái trong việc mất một thành viên có tay nghề và mắn con. Sau khi cô dâu được cha hộ tống đến gia đình mới, cô được chồng ‘bắt cóc theo nghi lễ’ và đem về ngưỡng cửa nhà mình, ở đấy, chàng cho cô dùng chiếc bánh ngọt thánh hiến để dẫn nhập cô vào tôn giáo mới giúp cô thông hiệp với các thần minh của gia đình nhà chồng.

Từ đầu, gia đình La Mã hoàn toàn có tính cách tổ phụ: người cha không những là đầu gia hộ nhưng còn nắm giữ mọi quyền lợi theo luật của gia đình; vợ con ông không có một chút quyền gì hết. Ông có quyền đánh đập và trừng phạt họ nếu ông muốn; ông có thể bán con làm nô lệ và cả quyền giết chết chúng nữa; tài sản riêng của vợ thành ra tài sản riêng của ông, và ông có quyền ly dị nàng nếu nàng không đúng như ông mong muốn, nhất là nếu nàng không sinh cho ông đứa con trai nối dõi tông đường. Và mặc dù việc thực thi cái quyền làm cha cực đoan ấy rất hoạ hiếm do áp lực của xã hội, chúng được luật pháp cho phép và thực tế đã được thi hành.

Chiến tranh là cái đã thay đổi thế đứng xã hội của phụ nữ và trẻ em cũng như chính định chế hôn nhân. Khi người La Mã bắt đầu mở rộng nền cộng hoà của họ ra khắp nước Ý và xây dựng đế quốc của họ trên khắp khu vực Địa Trung Hải, thì đàn ông thường phải xa nhà một thời gian lâu, đôi khi không trở về nữa. Phụ nữ vì thế phải học cách quản trị việc gia đình và con cái phải quyết định những việc mà xưa nay người ta thường quyết định cho chúng. Các giá trị gia đình xưa giờ đây được thay thế bởi các giá trị có tính ái quốc ái quần nhiều hơn, và tôn giáo cá biệt của gia đình nhường bước cho tôn giáo quốc gia nhấn mạnh đến vinh quang và thần minh. Một số lớn các tập quán hôn nhân cổ truyền vẫn được lưu giữ, như việc dẫn dâu và ăn bánh cưới, nhưng chúng không còn ý nghĩa tôn giáo như trước đây nữa. Việc cưới xin vẫn còn là việc riêng của gia đình, nhưng giờ đây chiếc nhẫn đính hôn đã thay thế cho ‘giá cô dâu’, và hôn nhân được đặt căn bản trên việc ưng thuận của chính hai người phối ngẫu chứ không phải trên sự thỏa thuận của đôi bên cha mẹ nữa. Trong nghi lễ hôn phối, cô dâu thường bận y phục mầu trắng với khăn choàng mầu đỏ và có thể có tràng hoa theo phong tục Hy Lạp, và khi hai vợ chồng tỏ lời ưng thuận với nhau, họ thường nắm tay phải của nhau, nhưng không hề có công thức theo luật họ bắt buộc phải đọc và những hành vi trên cũng không hề có một ý nghĩa tôn giáo nào hết. Nếu họ có mời một tư tế La Mã đến dự hôn lễ thì chỉ là để dâng lễ vật lên các thần minh hoặc để đoán giải tương lai hạnh phúc cho họ mà thôi, vả lại nếu họ lấy nhau mà không có nghi lễ gia đình như trên đây, thì luật La Mã cũng suy đoán họ là vợ là chồng nếu họ đã chung sống với nhau được một năm. Nhưng hôn nhân dựa trên ưng thuận cũng hàm nghĩa là sẽ có ly dị nếu hai bên ưng thuận, và đến thế kỉ thứ hai trước C.N., ly dị không phải là điều họa hiếm, ít nhất giữa các giai cấp thượng lưu. Và cũng như hôn nhân, ly dị là việc tư riêng có thể dẫn khởi và thi hành bởi một trong hai người phối ngẫu; không đòi phải có sự chấp thuận của bất cứ thẩm quyền dân sự nào hoặc phán quyết của một tòa án nào.

HÔN NHÂN DO THÁI

Nhưng trước pháp luật, phụ nữ trong thế giới La Mã không bao giờ hoàn toàn bình đẳng với đàn ông, cũng như tại Trung Đông, một xã hội cũng theo truyền thống tổ phụ, họ không bao giờ bình đẳng với nam giới về phương diện xã hội. Tại Do Thái cổ thời, hôn nhân cũng là việc gia đình do chính người cha sắp xếp cho con cái, thường khi chúng còn thiếu niên. Thánh Kinh Do Thái ít nói đến các phong tục hôn nhân và không đề cập chi đến chính các nghi lễ hôn phối, vì hôn nhân là việc thỏa thuận riêng và đám cưới không phải là nghi thức tôn giáo công cộng. Phần lớn đàn ông Do Thái chỉ có một vợ, nhưng những ai có khả năng trả được ‘giá cô dâu’ và cấp dưỡng được nhiều vợ thì thường có nhiều vợ. Phụ nữ có rất ít pháp quyền, và khi họ đi lấy chồng, thì thực tế họ được chuyển giao từ tư cách tài sản của cha qua tư cách tài sản của chồng. Thí dụ như Sách Torah ngăn cấm không được ngoại tình, thì điều ấy không phải vì ngoại tình là điều xấu về luân lý nhưng chỉ vì nó vi phạm quyền tư hữu của cha người đàn bà hay của chồng nàng mà thôi. Chính Mười Giới Răn cũng đặt việc thèm muốn vợ người trên cùng một căn bản như thèm muốn tài sản của anh ta (Xh 20:17).

Ở thời cực thịnh của vương quốc Do Thái vào thế kỉ thứ 10 trước C.N., đa số các truyện ký nhân gian buổi đầu đã được thu thập thành sách, gồm cả truyện ký Sáng Thế nói về người đàn ông và người đàn bà đầu tiên. Tuy nhiên lúc ấy, câu truyện này không được người ta coi như là lệnh truyền của Chúa về đơn hôn vì Salomon và các vua khác đã cưới nhiều vợ và nàng hầu. Nhưng sau khi vương quốc bị rơi vào tay Assyria và Babylonia, những tiên tri Do Thái sau đó mới suy nghĩ về bài học mà thảm cảnh nô lệ đã mang đến và họ cho rằng Gia Vê Thiên Chúa đã trừng phạt họ vì họ đã không sống đúng với ơn gọi làm dân riêng Ngài. Họ giả thiết phải là một dân tộc thánh thiện với những tiêu chuẩn cao về luân lý, công bình và nhân hậu với mọi người, không chạy theo các thần giả tạo của giầu có và quyền lực. Và như một phần trong nền luân lý mới do họ rao giảng, các tiên tri này bắt đầu đề nghị rằng cái lý tưởng luân lý trong hôn nhân là tình yêu thủy chung giữa người chồng và một người vợ. Ezekiel 16 ví liên hệ giữa Gia Vê và Israel như cuộc hôn nhân của một người đàn ông đã cho vợ mọi sự, nhưng đã bị vợ phản bội, còn Hôsêa 1-3 thì miêu tả Israel như một con điếm bất trung đã kết hôn với Gia Vê, là Đấng luôn chung thủy với nàng và những mong tiếp nhận nàng trở về. Diễm ca ca ngợi sự ngây ngất của tình yêu giữa cô dâu và người nàng yêu dấu, còn Tôbit 6-8 đưa ra mẫu hôn nhân hoàn hảo là mẫu hôn nhân xây dựng trên tình yêu của một người đàn ông dành cho một người đàn bà. Văn chương khôn ngoan của Huấn Ca 25-26 miêu tả những nguy hiểm và phần thưởng trong cuộc sống gia đình, còn sách Cách Ngôn 5-7, 31 thì ca ngợi những đức tính của người vợ hoàn hảo và khuyên các ông chồng không nên ngoại tình.

Tiên tri Malachi (2:16) tố cáo những người đàn ông ly dị vợ Do Thái để cưới con gái những người chiếm đóng nhưng ngoài hình thức ly dị đó ra, người ta vẫn chấp nhận, dù là miễn cưỡng, cho một hôn nhân bất hạnh được phép chấm dứt. Đó là trường hợp người vợ ngoại tình với một người đàn ông khác, chồng bà ta có thể ly dị bà ta được, còn nếu ông ta bắt bà ta đang quả tang ngoại tình, ông ta có thể xin ném đá bà ta cho đến chết (Đnl 20:22-24). Luật Do Thái khá công bằng ở chỗ cũng lên án tử hình người đàn ông đồng lõa trong tội ngọai tình, tuy nhiên trong trường hợp ly dị, chỉ người chồng mới có quyền chiếu luật để đòi hỏi điều ấy mà thôi. Người đàn bà muốn thoát ly khỏi chồng phải xin ông ta chấp thuận cho mình được ly dị, còn nếu ông ta từ chối, bà bắt buộc phải tiếp tục ở lại với ông ta. Trong thế giới cổ xưa, ly dị bao giờ cũng bao hàm khả năng tái kết hôn, nhưng trong luật Do Thái, có trường hợp trừ, đó là khi người đàn bà ly dị lần thứ hai thì không được phép tái kết hôn với người chồng đầu tiên nữa (Đnl 24:1-4).

Sách Torah cho người đàn ông được phép cấp cho người vợ tờ ly hôn nếu nàng phạm điều gọi là ‘bất xứng’. Thời khởi thủy của Kitô giáo, có hai trường phái tư tưởng về mức độ trầm trọng trong tư cách bất xứng khiến người chồng có thể ly dị vợ một cách công chính. Những người theo Shammai chỉ cho phép ly dị nếu người vợ có những tác phong rõ ràng bất xứng như ngoại tình chẳng hạn; trái lại những người theo Hillel cho phép người ta ly dị hầu như vì bất cứ hành vi nào khiến chồng cảm thấy mất vui.

HÔN NHÂN THỜI KỲ ĐẦU KITÔ GIÁO

A. Phúc Âm Nhất Lãm

Chúa Giêsu nói rất ít về hôn nhân và ly dị, nhưng điều Ngài nói ra hoàn toàn trái ngược hẳn hai trường phái trên. Trong Phúc âm Luca, lời kết án ly dị và tái kết hôn của Chúa Giêsu hết sức dứt khóat: “Ai ly dị vợ mình và cưới người khác là phạm tội ngoại tình, và người đàn ông nào lấy người đàn bà đã bị chồng ly dị cũng phạm tội ngoại tình” (16:18). Phúc âm Máccô cũng có câu tuyên bố ngắn ngủi tương tự của Chúa Giêsu, tuy đặt nó trong bối cảnh một cuộc tranh luận giữa Chúa Giêsu và các nhà lãnh đạo tôn giáo Do Thái chung quanh việc ly dị (10:1-12). Chống lại việc họ nhấn mạnh đến luật Torah cho phép ly dị, Chúa Giêsu đáp lại rằng Môsen cho phép ly dị chỉ vì người Do Thái vào thời ông quá cứng lòng mà thôi. Dùng sách Sáng Thế làm căn bản cho giáo huấn của mình, Chúa Giêsu nói tiếp: “Nhưng từ buổi đầu sáng thế, Chúa đã dựng nên họ có nam có nữ. Đó là lý do tại sao người đàn ông đã rời bỏ cha mẹ và cả hai trở nên một thân thể. Họ không còn là hai mà là một thân xác. Cho nên điều Thiên Chúa đã liên kết, con người không được phân rẽ”. Theo ý kiến hầu hết các học giả Thánh Kinh, điều Chúa Giêsu dạy về tính cách bền vững của hôn nhân đã đi ra ngoài truyền thống Do Thái một cách căn để trong việc không chấp nhận ly dị.

Thế nhưng các học giả phải giải thích làm sao sự kiện Phúc Âm Mátthiêu tuy cũng tường thuật lại lời tuyên bố ngắn ngủi của Đức Giêsu (5:31-32) và những luận chứng của Ngài với các nhà lãnh đạo Do Thái (19:3-9) nhưng cả trong hai đoạn văn ấy, xem ra như Chúa Giêsu muốn cho phép ly dị và tái kết hôn (ít nhất là đối với người chồng) trong một số trường hợp? Trong bản văn của Mátthiêu về cuộc tranh luận, các nhà lãnh đạo tôn giáo hỏi Chúa Giêsu xem có căn bản nào cho phép ly dị chăng, rõ ràng là ráng làm Ngài phải đứng vào một trong hai trường phái hoặc Shammai hoặc Hillel. Câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu là: Thiên Chúa không bao giờ có ý định phân rẽ người đàn ông và người đàn bà, thế rồi Ngài thêm rằng việc tái kết hôn sau khi ly dị tương đương như ngoại tình, ngoại trừ trường hợp dâm bôn (immorality).

Bản văn của Mát-thiêu nêu lên một số vấn nạn. Hai bản của Luca và Maccô viết về việc này gần với lời Chúa Giêsu hơn hay là bản của Mátthiêu? Đâu là lý do của sự khác biệt giữa các bản văn? Và dâm bôn đây có ý nói gì?

Rất nhiều học giả, nếu không muốn nói là tất cả, kể cả Công Giáo lẫn Tin lành, đều đồng ý rằng giáo huấn nguyên khởi của đức Giêsu được tường thuật lại trong Luca và Maccô. Điều này có nghĩa là theo Ngài, ly dị là điều sai lầm, Thiên Chúa không muốn điều đó xẩy ra, và chính Ngài thấy điều đó như một thiếu sót lớn đối với sự trọn lành. Lý tưởng luân lý của Chúa Giêsu rất cao, lời mời gọi của Ngài tiến tới trọn lành rất cách mạng, và Ngài thường trình bầy giáo huấn của Ngài qua những lời tuyên bố căn để, tuyệt đối. Thí dụ trong ‘Bài Giảng Trên Núi’, Ngài tuyên bố rằng giận dữ là một tội nặng, rằng thèm muốn cũng tương đương với ngoại tình, rằng không được thề gian, và rằng phải yêu cả kẻ thù của mình nữa. Cũng không kém phần thẳng thừng, Ngài truyền cho các môn đệ chỉ nên làm điều thiện nơi kín đáo, từ bỏ giầu sang, tránh xét đoán người khác, và phải cắt bỏ bất cứ phần thân thể nào phạm tội (Mt 5-7). Như vậy, theo cách đó, Chúa Giêsu cũng đã giảng dạy người ta cái lý tưởng thủy chung bền bỉ trong hôn nhân, và Ngài lấy nó làm qui phạm cho bất cứ ai muốn đáp lại lời mời gọi sống trọn lành của Ngài.

Phúc âm Mátthiêu dưới hình thức ta có hiện nay đã được viết khỏang năm 80, và khi nó được soạn thảo, tác giả sau cùng của nó (không hẳn là Tông Đồ Mátthiêu) đã thay đổi lời nói nhiệm nhặt trước đó của Đức Giêsu bằng cách thêm những lời, “trừ trường hợp dâm bôn” vào lời kết tội ly dị dứt khóat của Đức Kitô. Nhiều học giả đưa ra lý thuyết cho rằng tác giả là một Kitô hữu gốc Do Thái viết cho những người Do Thái khác vừa trở lại, và ông chỉ viết lại giáo huấn của Đức Giêsu như đã được cộng đoàn Kitô hữu gốc Do Thái lúc ấy hiểu, cộng đoàn này cho phép ly dị trong một số trường hợp và tin rằng nó phù hợp với giáo huấn của Đức Kitô.

Nhưng những trường hợp đó là những trường hợp nào? Trong tiếng Hy Lạp, porneia có thể dịch là “vô luân” (immorality), hoặc “thiếu đứng đắn” (indecency) nhưng cũng có thể dịch là “ngoại tình” hoặc “dâm loàn” (fornication), và một số học giả tin rằng các Kitô hữu gốc Do Thái tiếp tục truyền thống Shammai chấp nhận cho người chồng được ly dị vợ mình khi nàng sống lăng nhăng về tính dục một cách nghiêm trọng. Các học giả khác cho rằng cộng đoàn tiên khởi tiếp tục tập tục Do Thái không cho người ngoại đạo trở lại Do Thái Giáo được phép giữ vợ nếu nàng có họ hàng với ông. Sách Torah coi hôn nhân giữa những người có họ hàng gần là tồi bại (Lv 18:6-18) và theo lối giải thích này, tác giả Phúc âm Matthiêu cho ta thấy ông không tin Chúa Giêsu lại ngăn cấm ly dị trong hoàn cảnh ấy, một hoàn cảnh rất có thể xẩy ra khi một người ngoại giáo muốn gia nhập cộng đoàn Kitô giáo nhưng vẫn theo luật Môsen. Tuy nhiên dù theo lối giải thích nào, dường như ít nhất cũng có một số Kitô hữu đồng ý cho phép ly dị vì một số lý do nào đó lúc các phúc âm được viết ra.

B. Thánh Phaolô

Thánh Phaolô tuy cũng nhấn mạnh đến lý tưởng của lòng thủy chung phu phụ, nhưng đã cho phép ly dị trong một số hoàn cảnh. Một đàng, ngài thừa nhận rằng theo Đức Kitô, “vợ không được bỏ chồng, mà nếu đã bỏ chồng thì phải ở độc thân hoặc phải làm hòa với chồng, và chồng cũng không được rẫy vợ” (1 Cor 7:10-11; Rm 7:2-3). Đàng khác, ngài quan niệm hôn nhân với người ngoài Kitô giáo là chuốc lấy nguy hiểm thiêng liêng, và ngài tự đưa ra ý kiến cho rằng nếu một tín hữu Kitô cưới một người không tin đạo và người này muốn ly dị, thì tín hữu Kitô có thể ly dị với họ và tự do kết hôn lần thứ hai (1 Cor 7: 12-16; 2 Cor 6:14-18). Theo lý tưởng, vợ chồng tín hữu Kitô nên trở thành nguồn cứu rỗi cho người phối ngẫu của mình; nhưng thánh Phaolô miễn cưỡng nhận rằng điều ấy không luôn luôn thực hiện được.

Phần lớn những điều Thánh Phaolô muốn nói về hôn nhân đều tìm thấy trong 1 Cor 7, nhưng đoạn ấy phải được đọc dưới ánh sáng niềm tin của ngài rằng “thế gian như hiện nay đang qua đi” (7:31) và rằng việc Chúa Giêsu tái lâm sắp sửa xẩy ra nay mai. Bởi đó, Thánh Phaolô khuyên các Kitô hữu thành Côrintô đừng thay đổi chi nhiều trong cuộc sống và nên dành hết thì giờ lo những việc của Chúa. Những ai đã lấy chồng lấy vợ thì hãy tiếp tục sống với vợ với chồng; và nếu họ có hãm mình không ân ái thì cũng chỉ trong một thời gian ngắn thôi, để chuyên chăm cầu nguyện, với điều kiện cả hai cùng phải đồng ý. Ai đang độc thân thì nên tiếp tục sống độc thân; lấy vợ lấy chồng không có tội, nhưng sống độc thân thì tốt hơn. Những lời khuyên ấy cũng áp dụng cả đối với các quả phụ nữa: tốt hơn họ nên sống độc thân, nhưng nếu họ chịu không được thì nên lấy chồng lần thứ hai.

Khoảng 5 năm sau, Thánh Phaolô viết cho các tín hữu Êphêsô, và lần này ngài dành cả một phần thư nói về cách hai vợ chồng phải cư xử với nhau (Eph 5:21-33). Ngài thừa nhận hệ thống hôn nhân theo lối tổ phụ của thời ngài, bao gồm ý niệm cho rằng liên hệ của vợ đối với chồng không giống hệt như liên hệ của chồng đối với vợ. Nhưng ngài không tìm được lý do tại sao những liên hệ ấy lại không thể không sống với nhau được “trong Chúa”, nghĩa là theo cách Chúa Kitô đã vì yêu mà hiến mình cho Giáo Hội và Giáo Hội vì yêu mà phục tùng Chúa Giêsu. Vợ nên coi chồng như đầu của mình, và vâng lời họ trong mọi sự; chồng nên coi vợ như chính thân xác mình, săn sóc và chăm nom họ. Như thế, trong mối liên hệ hôn nhân giữa chồng và vợ, Thánh Phaolô nhìn thấy hình ảnh mối liên hệ thiêng liêng giữa Đức Kitô và Giáo Hội. Ngài nói, đó quả là “một mầu nhiệm lớn”, vì nó phản ảnh một mầu nhiệm lớn hơn. Tiêu chuẩn của Thánh Phaolô về hôn nhân Kitô giáo có âm hưởng nơi Thư thứ nhất của Thánh Phêrô 3:1-7, và ngoài điều này ra, Tân Ước không còn nói gì nhiều hơn nữa về hôn nhân. Một trong những thư sau này của Thánh Phaolô có đề cập đến các quả phụ, nhưng lần này, ngài khuyên các quả phụ còn trẻ nên tái kết hôn (1Tim 3:1-13).

C. Hậu Tông Đồ

Người ta ít biết gì về hôn lễ cũng như phong tục tập quán liên quan đến hôn nhân Kitô giáo trong các thập niên liền ngay sau khi bộ Tân Ước được viết ra. Phần lớn các Kitô hữu là người đã trưởng thành mới trở lại từ Do Thái giáo cũng như các tôn giáo khác, và do đó người ta suy đoán nhiều người trong số họ đã kết hôn theo phong tục riêng trước khi chịu phép rửa. Tuy nhiên, một số người trong họ chưa lập gia đình, và vào khoảng năm 110, Thánh Ignaxiô Thành Antioch trong một thư đã viết như sau: “những ai đã lập gia đình thì nên được kết hiệp với sự đồng ý của đức giám mục, để chắc chắn được rằng họ được kết hôn theo luật Chúa chứ không để thỏa mãn lòng thèm muốn của mình” (Gửi Polycarp 5). Nhưng không có gì chứng tỏ đây là một tập tục phổ quát; có lẽ phần lớn người trẻ chỉ cần có sự thuận tình của cha mẹ mà thôi, và Luật La Mã cho phép những ai đã trưởng thành đủ có thể tự ý đưa ra sự thuận tình của chính mình. Dù thế, lý tưởng của thế hệ Kitô hữu đầu tiên rất cao, và hiển nhiên lời công bố của Chúa Giêsu về việc lên án ly dị tiếp tục được coi như qui phạm luân lý. TÁM THẾ KỶ ĐẦU Trong ba thế kỷ đầu của Kitô giáo, các giáo phụ ít nói về hôn nhân, và khi nói, các ngài nói về nó như một khía cạnh quan trọng của đời sống Kitô hữu, chứ không phải như một định chế của Giáo Hội. Khi Kitô hữu kết hôn, họ kết hôn theo luật đời của thời đại, trong một nghi lễ truyền thống của gia đình, và thường không có lời chúc lành đặc biệt nào của Giáo Hội dành cho việc kết hiệp ấy cả. Các tác giả Kitô giáo tiên khởi chấp nhận một cách mặc nhiên quyền của các chính phủ trong việc điều hòa hôn nhân và ly dị, và khi nói đến hôn nhân, họ thường hạn chế vào các khía cạnh mục vụ, nhấn mạnh đến những điều tốt lành của hôn nhân, khuyến giục các Kitô hữu nên kết hôn bên trong cộng đoàn của mình, và cảnh cáo họ họ đừng nên chè chén say sưa và có những hành vi không đẹp trong các tiệc cưới. Các giám mục không chấp thuận ly dị nhưng họ không tuyệt đối cấm chuyện đó, trái lại trong một số nơi còn cho phép tái kết hôn nữa.

Ngay cả sau khi Hoàng đế Constantine đã ra chiếu chỉ dễ dãi với Đạo vào năm 313, các tác giả giáo phụ tiếng tăm cũng nói rất ít về hôn nhân so với các trước tác các ngài viết về những vấn đề phụng vụ và giáo thuyết khác. Một phần vì thực ra chưa có một nghi lễ phụng vụ nào dành cho hôn phối như các nghi lễ phụng vụ dành cho Phép Rửa và Phép Thánh Thể, cho nên cũng không có gì phải nói để giải thích hoặc để bảo vệ cả. Đàng khác, giáo huấn về hôn nhân không có chi phức tạp, và ngoại trừ một vài lần phải đương đầu với phái ngộ đạo (gnostic), ta thấy không có những tranh luận lớn về hôn nhân để phát sinh ra nhiều văn bản về đề tài ấy. Tất cả các giám mục đều nhất trí rằng sự buông lỏng tình dục và dễ dãi ly dị là điều xấu, và đôi khi các ngài lên tiếng chống lại điều các ngài cho là vô luân của thế giới La Mã. Tất cả các giáo phụ đều cho rằng hôn nhân là một định chế thần linh do Đức Kitô đặt định, và đôi khi các ngài trích dẫn trình thuật sáng thế trong Thánh Kinh cũng như các phép lạ Chúa Giêsu đã làm tại tiệc cưới Cana để biện hộ cho quan điểm của các ngài. Nhưng nói chung, các ngài vẫn coi hôn nhân là chuyện thế tục trong đó người ta mong các Kitô hữu phải tuân theo các qui phạm của Phúc Âm và các Thư Tân Ước y như trong các vấn đề hàng ngày khác.

Điều đó có nghĩa là các qui định luật lệ liên quan đến hôn nhân và ly dị là việc của chính quyền dân sự, và mặc dù Constantine cho các giám mục quyền được hành xử như các thẩm phán dân chính, nhưng ít có điều gì chứng tỏ là các giám mục đã được trao cho bất cứ trường hợp hôn phối nào để phán xử. Dưới luật pháp La Mã, hôn nhân vẫn là do thỏa thuận hỗ tương giữa các bên liên hệ (mà tại các vùng nông thôn thường có nghĩa làsự thỏa thuận của cha mẹ), và các vụ ly dị chỉ được đem ra tòa khi có tranh tụng hoặc liên hệ đến việc tranh chấp tài sản. Nhưng chính quyền La Mã quan tâm đến hôn nhân vì những lý do riêng của họ, và kể từ thời hoàng đế Augustus, chính quyền ấy đã thông qua nhiều đạo luật để cản trở những cuộc hôn nhân không có con cái, là những cuộc hôn nhân rất hay xẩy ra giữa hàng qúy tộc, và để khuyến khích các gia đình có nhiều con hơn bằng các phương tiện tài chánh và luật lệ. Giờ đây, hoàng đế Constantine cố gắng loại bỏ sự bất công của nhiều cuộc ly dị một chiều bằng cách coi là bất hợp pháp khi người ta ly dị nhau vì những lý do nhỏ nhặt. Năm 331, ông cho thông qua đạo luật chỉ cho phép ly dị vợ khi nàng ngoại tình, làm chủ nhà chứa, hoặc buôn bán thuốc men và thuốc độc, cũng như chỉ cho phép ly dị chồng vì tội giết người, buôn bán ma túy độc dược, hoặc phá hoại mồ mả. Những ai bỏ vợ hoặc chồng vì các lý do khác có thể mất tài sản vàquyền được kết hôn lần thứ hai, nhưng luật không nói gì và không đưa ra chế tài nào chống lại tập tục cổ truyền muốn ly dị bằng thoả thuận.

TÁI KẾT HÔN VÀ TIÊU CHUẨN NƯỚC ĐÔI

Mặt khác, các giám mục Kitô giáo chỉ nhìn nhận ngoại tình là căn bản duy nhất để ly dị. Công đồng địa phương họp tại Elvira, Tây Ban Nha, đầu thập niên 300, ngăn cấm phụ nữ không được tái kết hôn nếu họ lìa bỏ người chồng bất trung nhưng lại không nói gì để ngăn cấm đàn ông làm như thế. Một công đồng tương tự như thế họp tại Arles, bên Pháp, năm 314, tuyên bố rằng những người đàn ông trẻ, dù vợ quả tang ngoại tình, cũng được khuyên đừng nên tái kết hôn dù rằng không ai cấm họ làm như vậy. Cuối thế kỷ đó, một tác giả Kitô giáo vô danh tại Ý viết rằng Thánh kinh dạy rất rõ là người đàn bà bị chồng ly dị vì ngoại tình thì không được tái kết hôn, nhưng không có gì ngăn cấm người chồng làm như thế. Như vậy, bên Phương Tây, nhiều nhà lãnh đạo Giáo Hội nhìn nhận sự bất trung như căn bản để ly dị, và một số vị còn cho phép người chồng bị ‘cắm sừng’ được tái kết hôn.

Cái tiêu chuẩn nước đôi ấy cũng được áp dụng đối với Kitô hữu tại Phương Đông của Đế quốc La Mã. Vào khoảng năm 375, Thánh Basil thành Caesaria đã tóm lược những qui định của Giáo Hội lúc đó về hôn nhân và ly dị mà ngài biết được, đồng thời đưa ra một số gợi ý riêng cho một vị giám mục đồng nghiệp của mình. Theo Thánh Basil, “Lời tuyên bố của Đức Giêsu rằng vợ chồng không được bỏ nhau ngoại trừ vì lý do vô luân, theo luận lý, phải được áp dụng đồng đều cho cả đàn ông lẫn đàn bà. Tuy nhiên, phong tục mỗi nơi mỗi khác, nên đàn bà bị đối xử nghiêm khắc hơn” (Thư 188). Thí dụ, vợ của một người đàn ông bất trung buộc phải tiếp tục chung sống với ông ta, nhưng chồng của một người vợ bất trung có thể bỏ bà ấy. Đã đành người đàn ông phạm tội ngoại tình phải đăng ký vào nhà hối cải, nhưng người vợ không được bỏ anh ta và tái kết hôn dù anh ta ngược đãi nàng. Nếu nàng cứ làm thế, nàng sẽ bị liệt vào hạng ngoại tình và phải làm việc đền tội, còn người đàn ông bị nàng bỏ được phép tái kết hôn mà không phải chịu hình phạt nào khác của Giáo Hội nữa. Còn nữa, người đàn ông bỏ vợ để lấy người khác còn được tái gia nhập cộng đoàn tín hữu sau khi đã làm việc hối cải 7 năm. Đàng khác, người đàn bà dù bị chồng bỏ cách bất công cũng sẽ bị coi là ngoại tình nếu nàng đi tái giá, nhưng khi người đàn ông bị vợ bỏ cách bất công sẽ được tha thứ nếu anh ta đi lấy vợ khác. Thánh Basil nhận xét như sau: “Không dễ tìm ra lý do tại sao có những đối xử khác nhau như thế, nhưng đó là phong tục trổi vượt hiện nay” (Thư 199).

Ngay cả khi việc ly dị và tái kết hôn dựa trên ngoại tình không được truyền dạy một cách phổ quát trong thời đại giáo phụ, nhiều vị giám mục vẫn đã chấp nhận chúng, đặc biệt là tại các xứ miền Đông của Đế Quốc La Mã, mặc dù các ngài có bắt những người liên hệ phải qua một thời kỳ sám hối đền tội. Những ai lợi dụng quyền dân sự của mình để ly dị theo phương thức thoả thuận và sau đó tái kết hôn chẳng hạn thì thường bị coi là ngoại tình trong hệ thống xá giải (penitential), nhưng cuộc hôn nhân thứ hai của họ phần lớn được nhìn nhận là hợp lệ và trói buộc. Điều ấy không có nghĩa là các vụ ly dị giữa các Kitô hữu thường như cơm bữa, nhưng nó chỉ cho thấy rằng những vụ ly dị như thế là chuyện có thể có và vào thời đó chưa có lệnh cấm phổ quát nào chống ly dị cả. Dù thế nào đi chăng nữa, các nhà lãnh đạo Giáo Hội vào buổi ấy cũng không có quyền luật định nào trong các vấn đề hôn nhân, ly dị và tái kết hôn hết, cho nên các ngài chỉ xử lý các vấn đề ấy trên bình diện mục vụ chứ không trên bình diện luật pháp.

Nhiều vị giáo phụ chủ trương chống cuộc hôn nhân lần thứ hai dù thuộc loại nào, ngay cả trong trường hợp chồng chết hoặc vợ chết, không những vì Thánh Phaolô khuyên như thế nhưng còn vì phong trào ngộ đạo thuyết lúc đó muốn chiếm thế thượng phong bằng cách ngăn cấm chuyện đó nữa. Lang chạ, đĩ điếm và những cuộc giải trí công cộng tục tĩu trong các thành phố khiến ngay các triết gia La Mã vào thời đó cũng phải nhấn mạnh rằng mục đích hợp pháp duy nhất của việc làm tình là để tạo lập một gia đình, cho nên các tác giả Kitô giáo đôi khi cũng thấy khó mà bênh vực được chuyện tại sao lại nên kết hôn lần thứ hai khi người ta đã có con cái. Dần dà, việc tiết dục càng ngày càng được liên kết với sự toàn thiện về luân lý, nhưng phần lớn các giám mục vẫn có khuynh hướng đi theo sự hướng dẫn của Thánh Phaolô chỉ khuyên người ta đừng tái kết hôn chứ không lên án việc đó. Chỉ có một điểm trừ là việc ly dị và tái kết hôn của những người mới trở lại theo Kitô giáo. Thánh Phaolô khuyên nên cùng nhau đạt tới thỏa thuận chia tay nếu người chồng hoặc người vợ ngoại đạo chống đối tôn giáo mới của bạn mình, căn cứ vào đó, các giám mục cho phép các Kitô hữu ly dị trong trường hợp như thế được tái kết hôn.

Ngay cả sau khi Kitô giáo đã trở thành tôn giáo chính thức của Đế quốc La Mã vào năm 380, ta cũng thấy không có thay đổi nào lớn trong các luật lệ dân sự về hôn nhân, mặc dù một số tác giả Kitô giáo vẫn tiếp tục lên án những dễ dãi trong việc ly dị dù là dưới thời một hoàng đế có đạo. Phải đến năm 449, hoàng đế Theodosius II mới ban hành đạo luật ngăn cấm việc ly dị do thỏa thuận, nhưng đồng thời ông lại nới rộng danh sách các căn bản hợp pháp khiến người ta có thể bỏ người phối ngẫu như trộm cướp, bắt cóc, phản nghịch và những trọng tội khác, và lần đầu tiên phụ nữ có quyền ly dị chồng vì lý do ngoại tình. Sự thay đổi luật lệ này phản ảnh một khuynh hướng đang lớn mạnh trong hàng giám mục bên Đông trong việc giải thích chữ porneia của Phúc âm Matthiêu 19:9 như có nghĩa chỉ bất cứ hành vi vô luân trắng trợn nào, cũng như mối quan tâm của các ngài không muốn thấy những người vợ vô tội phải đau khổ vì tội lỗi của người chồng.

Tuy nhiên, việc đặt ly dị do hai bên cùng thoả thuận ra ngoài vòng pháp luật đã không kéo dài được lâu, vì sau đó các hoàng đế Kitô giáo đã lại cho phép việc đó. Thế rồi đến thế kỷ thứ sáu, Justinian ban hành một cải cách sâu rộng về luật lệ tại Phương Đông, gồm luôn các luật lệ về hôn nhân và ly dị. Theo bộ luật Justinian, căn bản của hôn nhân là tình yêu hỗ tương giữa hai phái, nhưng cũng như các khế ước nhân bản khác, hôn nhân phải được hình thành và phá bỏ theo luật. Bộ luật dự liệu cho cả chồng và vợ gần như có cùng một căn bản như nhau để xin ly dị, và lần đầu tiên trong Luật La Mã, con cái của cuộc hôn nhân bị hủy tiêu được đặc biệt quan tâm đến. Những căn bản truyền thống để đơn phương ly dị được tái xác nhận, và thêm vào đó là sự bất lực, vắng mặt vì bị bắt làm nô lệ, và “tự ý từ bỏ hôn nhân” để vào tu viện. hai vợ chồng có thể cùng nhau thỏa thuận ly dị nếu một trong hai muốn theo đuổi đường trọn lành của cuộc sống đơn tu. Tóm lại, hôn nhân vĩnh viễn vẫn được coi là lý tưởng, nhưng luật lệ dự liệu những qui phạm thực tiễn cho những ai không thể hoặc không sống tới cái lý tưởng ấy được.

Thái độ trên của La Mã một cách tổng quát được các Giáo Hội tại Hy Lạp, Tiểu Á, Syria, Palestine và Ai Cập chấp nhận, là các Giáo Hội đến lúc đó đã can dự nhiều vào các tập tục cưới xin trong vùng. Xét đại thể, hôn nhân chủ yếu vẫn là việc của gia đình và là chuyện thế tục với cha cô dâu giữ vai trò chính trong hôn lễ. Dù có những khác biệt địa phương, phong tục thường nhất vẫn là trong ngày cưới, người cha trao con gái mình cho chàng rể ngay tại nhà mình, sau đó, người ta đưa dâu về nhà chồng để kết thúc hôn lễ và dự tiệc cưới. Phần chính của nghi lễ là việc trao cô dâu; trong phần này, tay phải cô dâu được đặt trong tay chú rể, và người ta choàng vòng hoa qua vai hai vợ chồng để tượng trưng cho sự kết hiệp hạnh phúc của họ. Không có công thức chính thức nào để phải nói lên, cũng như không có lời chúc lành tôn giáo nào phải làm để biến cuộc hôn nhân thành hợp lệ và trói buộc.

Tuy nhiên, cuối thế kỷ thứ tư, tại một vài nơi ở Phương Đông, có thói quen để một linh mục hay một giám mục ban phép lành cho cặp vợ chồng mới cưới hoặc ngay trong tiệc cưới hoặc một ngày trước đó. Việc ban phép lành này được coi như một hình thức danh dự, cho thấy Giáo Hội nhìn nhận cuộc hôn nhân, nhưng nếu cô dâu chú rể đã một lần kết hôn trước đây rồi thì không có chuyện ban phép lành nữa. Thế rồi đến thế kỷ thứ năm, đặc biệt ở Hy Lạp và Tiểu Á, các giáo sĩ bắt đầu đảm nhiệm vai trò tích cực hơn trong chính nghi lễ chính yếu, bằng cách có nơi thì nối tay hai vợ chồng lại với nhau, có nơi thì khóac vòng hoa lên hai vợ chồng, hoặc có nơi làm cả hai việc ấy. Dần dà, nghi lễ hôn phối mới phát triển thành hành động phụng vụ trong đó, linh mục nối tay hai vợ chồng và chúc lành cho cuộc phối ngẫu của họ, tuy nhiên nghi lễ ấy không bắt buộc và suốt trong thế kỷ thứ bẩy, các Kitô hữu vẫn kết hôn theo nghi lễ hoàn toàn thế tục.

PHỤNG VỤ HÔN PHỐI

Đến thế kỷ thứ tám, các lễ cưới theo phụng vụ mới trở thành quen thuộc, và được cử hành tại nhà thờ chứ không còn tại gia đình như trước nữa. Nhiều qui định dân sự được ban hành để công nhận hợp pháp tính của hình thức hôn lễ mới, và trong các thế kỷ sau, các luật khác được công bố đòi chính các linh mục phải chủ tọa các đám cưới. Hôn nhân trong Giáo Hội Hy Lạp (vì cho đến lúc này các xứ khác thuộc Đế quốc La Mã đã bị Hồi Giáo thống trị cả), vì vậy đã trở thành lễ nghi tôn giáo, và theo quan điểm các thần học gia Phương Đông, việc chúc lành của linh mục là chủ yếu để kết hiệp hai người trong hôn nhân Kitô giáo, một hôn nhân có tính bí tích.

Ngày nay, quan điểm trên vẫn còn tồn tại trong các Giáo Hội Chính Thống, vì đối với các Giáo Hội này, hôn nhân là một bí tích để biến cải người Kitô hữu, một nghi thức chuyển dịch từ bậc sống này qua bậc sống khác, nghi thức này vừa tác động trên chính việc chuyển dịch đó vừa biểu tượng cho mục đích thiêng liêng của nó. Cũng như Phép Rửa vừa dẫn đưa một người vào Nước Chúa vừa tượng trưng cho con đường sạch tội mà đời sống Nước Chúa đòi hỏi phải sống, hôn nhân cũng thế, nó kết hiệp và thánh hiến hai con người trong lòng thủy chung đối với nhau và đồng thời cũng tượng trưng cho tình yêu và lòng kính trọng mà hai vợ chồng luôn luôn phải có với nhau. Như thánh Phaolô đã nói, mối liên hệ ấy giống như mối liên hệ giữa Chúa Kitô và Giáo Hội. Thế cho nên cũng như nhờ Phép Rửa mà Kitô hữu bước và tham dự vào mầu nhiệm cứu chuộc thế nào, thì qua hôn nhân, họ cũng bước và tham dự vào mầu nhiệm kết hiệp với Đức Kitô như thế ấy. Nó là sự kết hiệp chân thực ở trần gian giữa một người đàn ông và một người đàn bà, sự kết hiệp này vừa tượng trưng vừa xẩy ra bên trong sự kết hiệp linh thiêng giữa một Chúa và một Giáo Hội.

Tuy nhiên đôi khi xẩy ra việc các Kitô hữu không sống đúng theo ơn gọi thiêng liêng của họ, không sống đúng theo điều được tượng trưng và được dẫn khởi trong phép rửa và phép hôn phối của họ, và có khi còn xẩy ra một cách quyết liệt và công khai như trong trường hợp bỏ đạo hoặc ly dị. Khi xẩy ra điều đó, Giáo Hội không chấp thuận nhưng coi nó như một sự kiện. Kitô hữu không nên từ bỏ đức tin, và không nên ly dị, nhưng khi những việc đó xẩy ra, chúng phải được nhìn nhận như những thực tế, và do đó phải tìm cách cư xử với những người liên hệ một cách công chính và nhân từ.

Trong trường hợp người Kitô hữu bỏ đạo, cách cư xử là để cửa mở chào đón họ giao hòa lại với Giáo Hội, và trong trường hợp ly dị, cách cư xử là để cửa mở để họ giao hòa lại với nhau hoặc điều ấy không thể xẩy ra nữa, thì tái kết hôn.

Cho nên các Giáo Hội Chính Thống không ban phép ly dị nhưng cho phép người Kitô hữu có thể nhận ly dị phần đời và sau đó có thể tái kết hôn. Như thế thay vì loại bỏ người vô tội và hối nhân ra khỏi hiệp thông trong Giáo Hội, các Giáo Hội này cho phép các Kitô hữu đã ly dị được tái kết hôn trong Giáo Hội như một nhượng bộ cho sự yếu hèn và bất toàn của con người mặc dù cuộc hôn nhân thứ hai này, không như cuộc hôn nhân đầu, không còn tượng trưng cho sự kết hiệp giữa một đầu và một thân xác của Giáo Hội nữa. Như thế, cuộc hôn nhân lần thứ hai tuy được nhìn nhận là cuộc hôn nhân thực sự nhưng không được coi là cuộc hôn nhân theo bí tích, vì không phải là dấu chỉ đầy đủ của sự tín thác duy nhất và vĩnh viễn mà cuộc hôn nhân đầu đã đoan hứa. Đây là phương thức tiếp cận hôn nhân chú trọng đến khía cạnh phụng vụ của bí tích hơn là khía cạnh luật lệ của nó, vì phương thức này được triển khai từ truyền thống sơ khởi của chính Giáo Hội.

(... còn tiếp)

(Vũ Văn An viết theo Joseph Martos, Doors to the Sacred do Nhà Doubleday xuất bản năm 1981)