Người con đi hoang trở về
Chúa nhựt Thường niên 24 năm C
“Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất, mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32)
1. Ra đi phạm tội
Người cha kia có hai đứa con trai: đứa anh tử tế, đứa em ngang tàng.
Vợ ông chết đã lâu, nên ông rất thương hai đứa con, nhất là đứa con út.
Một tối kia, ông ngồi bóp trán suy nghĩ. Ông lo sợ cho tương lai đứa con út giờ đây đang đi chơi khuya chưa về. Bỗng ông nghe những tiếng chân đang bước về phía mình. Đó là tiếng chân của đứa con út. Nó ngang tàng đi thẳng tới ông và xẵng xái nói:
- “Con không thích ở nhà nữa. Con muốn đi ra khỏi chỗ nầy. Xin cha hãy chia gia tài cho con”.
Người cha buồn rầu nói:
- “Mẹ con đã chết, bỏ cha một mình. Giờ đây con lại nhẩn tâm để cha sống cô độc sao?”
Đứa con út mĩm cười:
“Mặc kệ cha! Cha phải cho con phần gia tài để con đi. Ngày mai con đi”.
Người cha khóc. Ông biết đứa con của mình đã hư hỏng. Tối hôm đó, ông không ngủ được.
Sáng mai, người cha phân chia gia tài cho đứa con ngỗ nghịch. Đứa con lạnh lùng lãnh phần gia tài. Nó sung sướng nghĩ đến những thú vui nó được hưởng với bạn bè. Nó không thèm chào từ giã cha nó. Cha nó ứa nước mắt nhìn theo nó và nói: “Con ơi, khi nào con muốn, con hãy về với cha. Cha luôn sẵn sàng đợi chờ con”. Nhưng đứa con ngỗ nghịch đã biến khuất ở cuối đường.
2. Quyết trở về lại.
Đứa con út trẩy đi phương xa.
Với tiền bạc sẵn có, nó tự do ăn chơi, tiêu xài phung phí không tiếc tay. Những ngày đầu là những ngày đầy thơ mộng. Nhưng rồi túi tiền cạn sạch. Ở nơi chốn lạ quê người, nó bị bỏ rơi. Áo rách, không tiền vá; đói bụng, không bánh ăn.
Ác thay, nạn đói ác liệt lại nổi lên trong miền đó. Nó phải đi chăn heo ngoài đồng. Đói quá, nó định múc lấy đồ của heo để ăn, nhưng ông chủ đập nó, vì sợ hết của heo ăn. Nó quá buồn tủi! Và trong cơn sầu buồn da diết đó, một hình ảnh đáng yêu nổi lên trong đầu nó: người cha đáng yêu mà mình đã bỏ để ra đi. Nó nghĩ đến cha nó: “Ôi, nhà cha ta có biết bao nhiêu người làm thuê có đủ cơm bánh dư dật, thế mà ta phải chết đói ở đây sao? Không, ta không ở đây nữa. Ta sẽ trở về nhà cha ta”.
Sau khi suy nghĩ như vậy, đứa con hoang đàng cảm động quỳ xuống, chắp hai tay lại, ngước mắt nhìn lên trời, cầu nguyện: “Lạy cha, con đã phạm tội đến trời, con đã có lỗi với cha, con không đáng được gọi là con của cha nữa”. Và anh ta gục đầu xuống, khóc thảm thiết.
Đứng dậy, anh ta ra đi, bỏ nơi xa lạ, trở về nhà cha.
Trên đường về quê, anh ta phải đi ngang qua những khu rừng hẻo lánh. Trong cảnh âm u tịch mịch, dưới những cây to lớn, thỉnh thoảng anh ta dừng lại, cố nhớ rõ trong trí những tội lỗi đã làm tan nát trái tim cha mình. Anh ta nhất định khi trở về gặp cha, sẽ thú tất cả tội lỗi với người cha thân ái. Và anh ta đau đớn lặp đi lặp lại: “Cha ôi! Cha tốt lành quá! Con thật xấu xa độc ác. Giờ đây, tâm hồn con quá đau đớn. Xin cha tha tội cho con”.
3. Được cha đợi chờ và nồng nhiệt tiếp đón.
Chiều nào, khách bộ hành cũng thấy một ông lão đứng ngoài đường, trông về phía xa. Gặp ai đi xa về, ông cũng chận lại hỏi:
- “Ông đi xa về, bà đi xa về, có gặp thằng út của tôi ở đâu không? Nó ra đi biệt tăm đã lâu. Tôi nhớ nó quá! Ai gặp nó, cho tôi nhắn lời thăm chút”.
Khách đi xa về, lắc đầu.
Màn đêm buông xuống. Người cha lững thững quay gót trở về, lòng nhớ mãi đứa con yêu dấu giờ đây không biết ở phương nào.
Bỗng một chiều kia, khi che bàn tay lên đôi mắt để nhìn về phía xa, người cha run lên vì sung sướng:
- “Kìa, con tôi đang trở về. Ôi, con yêu dấu của cha ơi, cha chỉ mong được sống đến giây phút nầy”.
Rồi như được một sức mạnh phi thường thúc đẩy, ông chạy đến ôm chầm đứa con hồi lâu, quên tất cả những bội bạc của đứa con bất hiếu, và cũng quên rằng con mình đang mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, mặt mày hốc hác vì đói khát và đầy những bụi lấm.
Trước cử chỉ đó, người con hoang đàng khóc nức nở, khóc vì hổ thẹn, nhưng cũng khóc vì sung sướng. Nó muốn cúi xuống ôm hôn chân người cha để tỏ dấu ăn năn, nhưng không thể được vì cha nó ôm cứng nó trong lòng. Nó liền nhìn vào mặt người cha và ấp úng nói:
“Lạy cha, con đã phạm tội đến Trời, con đã phạm lỗi với cha. Con không còn đáng được gọi là con của cha nữa. Xin cha hãy xem con như một tên đầy tớ trong nhà mà thôi. Con muốn đền tội con”.
4. Người cha vui mừng
Người cha bịt miệng con lại, không cho con nói. Ông giục con mau về nhà. Lúc về tới nhà, những tên đầy tớ trong nhà cười nhạo đứa con rách nát, nhưng người cha nghiêm nghị nói:
- “Hãy mau lấy bộ áo đẹp nhất ra đây để con ta mặc. Hãy đưa nhẫn cho con ta đeo. Hãy mang giày đến cho con ta xỏ. Hãy bắt con bê béo làm tiệc ăn mừng, vì con ta đã trở về. Con ta, ta tưởng đã chết, nay sống lại. Con ta, ta tưởng đã lạc mất, nay được tìm thấy”.
5. Thiên Chúa là Cha.
Ngài rất yêu thương chúng ta là con cái của Ngài. Khi phạm tội, chúng ta là những đứa con hoang đàng, bỏ Chúa để chạy theo ma quỷ, xác thịt, thế gian. Nhưng than ôi, sau một thời gian tự do bay nhảy, phóng túng, chúng ta chán chường, buồn phiền và thất vọng.
Khi chúng ta lạm dụng sự tự do Chúa ban để sống tội lỗi, chúng ta ngây thơ nghĩ rằng mình được sung sướng hạnh phúc, nhưng chúng ta sẽ chóng thất vọng buồn phiền. Rồi cùng với thời gian, lương tâm chúng ta sẽ bị giày vò vì dằn vặt, ưu tư và tủi hận.
Không có Chúa là Cha yêu thương chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ trống rỗng, đen tối và buồn phiền. Không có Chúa, con người chúng ta không thể tạo nỗi cho mình một cuộc sống thăng bằng, phong phú và hạnh phúc được.
Khi trở về với Chúa, người tội lỗi quyết từ bỏ nếp sống hoang đàng xấu xa của mình. Họ quyết không để cho ma quỷ, xác thịt, thế gian lôi cuốn và gạt gẫm họ đến chỗ hư mất nữa. Họ quyết điều khiển linh hồn và thân xác của mình theo con đường các giới răn của Chúa dạy. Họ hy sinh hãm mình bên trong và bên ngoài. Họ sống đời cầu nguyện sốt sắng, vì họ biết ơn Chúa là hết sức cần thiết để giúp họ đứng vững và tiến bước trên con đường nhân đức thánh thiện. Họ luôn tìm cách treo cao gương tốt trước mặt mọi người để cuộc sống hiện tại của họ làm sáng danh Chúa và đền tội cho cuộc sống quá khứ của họ đã làm ố danh Chúa. Lúc đó, họ mới chính là người tội lỗi thành thực ăn năn hối cải và trở về với Chúa.
Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một quan án nghiêm khắc, không phải là một vị vua độc tài và độc ác, nhưng Thiên Chúa là đấng chăn chiên lành (ngài luôn luôn đi tìm con chiên lạc, và khi gặp nó trong bụi gai, ngài tìm cách vác nó trên vai, sung sướng đem về nhà); Thiên Chúa như người đàn bà kia đánh rơi mất đồng tiền (người đàn bà thắp đèn đi tìm mọi góc xó trong nhà, và khi tìm được thì báo tin vui cho mọi người biết); và nhất là Thiên Chúa như một người Cha nhân hậu (sau bao ngày buồn rầu vì đứa con ngỗ nghịch ra đi biệt tăm, nay lòng tràn trề vui sướng khi thấy bóng dáng người con ngỗ nghịch từ xa trở về).
Thiên Chúa luôn mở rộng cánh tay bao dung để chờ đón con người tội lỗi ăn năn trở về với ngài.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta là thế đó: là mong đợi, là tiếp đón, là vui mừng, là tha thứ khi con người tội lỗi trở về gặp lại Ngài là Chúa tình thương của họ, là Cha yêu thương của họ.
Chúa nhựt Thường niên 24 năm C
“Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết, mà nay sống lại, đã mất, mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,32)
1. Ra đi phạm tội
Người cha kia có hai đứa con trai: đứa anh tử tế, đứa em ngang tàng.
Vợ ông chết đã lâu, nên ông rất thương hai đứa con, nhất là đứa con út.
Một tối kia, ông ngồi bóp trán suy nghĩ. Ông lo sợ cho tương lai đứa con út giờ đây đang đi chơi khuya chưa về. Bỗng ông nghe những tiếng chân đang bước về phía mình. Đó là tiếng chân của đứa con út. Nó ngang tàng đi thẳng tới ông và xẵng xái nói:
- “Con không thích ở nhà nữa. Con muốn đi ra khỏi chỗ nầy. Xin cha hãy chia gia tài cho con”.
Người cha buồn rầu nói:
- “Mẹ con đã chết, bỏ cha một mình. Giờ đây con lại nhẩn tâm để cha sống cô độc sao?”
Đứa con út mĩm cười:
“Mặc kệ cha! Cha phải cho con phần gia tài để con đi. Ngày mai con đi”.
Người cha khóc. Ông biết đứa con của mình đã hư hỏng. Tối hôm đó, ông không ngủ được.
Sáng mai, người cha phân chia gia tài cho đứa con ngỗ nghịch. Đứa con lạnh lùng lãnh phần gia tài. Nó sung sướng nghĩ đến những thú vui nó được hưởng với bạn bè. Nó không thèm chào từ giã cha nó. Cha nó ứa nước mắt nhìn theo nó và nói: “Con ơi, khi nào con muốn, con hãy về với cha. Cha luôn sẵn sàng đợi chờ con”. Nhưng đứa con ngỗ nghịch đã biến khuất ở cuối đường.
2. Quyết trở về lại.
Đứa con út trẩy đi phương xa.
Với tiền bạc sẵn có, nó tự do ăn chơi, tiêu xài phung phí không tiếc tay. Những ngày đầu là những ngày đầy thơ mộng. Nhưng rồi túi tiền cạn sạch. Ở nơi chốn lạ quê người, nó bị bỏ rơi. Áo rách, không tiền vá; đói bụng, không bánh ăn.
Ác thay, nạn đói ác liệt lại nổi lên trong miền đó. Nó phải đi chăn heo ngoài đồng. Đói quá, nó định múc lấy đồ của heo để ăn, nhưng ông chủ đập nó, vì sợ hết của heo ăn. Nó quá buồn tủi! Và trong cơn sầu buồn da diết đó, một hình ảnh đáng yêu nổi lên trong đầu nó: người cha đáng yêu mà mình đã bỏ để ra đi. Nó nghĩ đến cha nó: “Ôi, nhà cha ta có biết bao nhiêu người làm thuê có đủ cơm bánh dư dật, thế mà ta phải chết đói ở đây sao? Không, ta không ở đây nữa. Ta sẽ trở về nhà cha ta”.
Sau khi suy nghĩ như vậy, đứa con hoang đàng cảm động quỳ xuống, chắp hai tay lại, ngước mắt nhìn lên trời, cầu nguyện: “Lạy cha, con đã phạm tội đến trời, con đã có lỗi với cha, con không đáng được gọi là con của cha nữa”. Và anh ta gục đầu xuống, khóc thảm thiết.
Đứng dậy, anh ta ra đi, bỏ nơi xa lạ, trở về nhà cha.
Trên đường về quê, anh ta phải đi ngang qua những khu rừng hẻo lánh. Trong cảnh âm u tịch mịch, dưới những cây to lớn, thỉnh thoảng anh ta dừng lại, cố nhớ rõ trong trí những tội lỗi đã làm tan nát trái tim cha mình. Anh ta nhất định khi trở về gặp cha, sẽ thú tất cả tội lỗi với người cha thân ái. Và anh ta đau đớn lặp đi lặp lại: “Cha ôi! Cha tốt lành quá! Con thật xấu xa độc ác. Giờ đây, tâm hồn con quá đau đớn. Xin cha tha tội cho con”.
3. Được cha đợi chờ và nồng nhiệt tiếp đón.
Chiều nào, khách bộ hành cũng thấy một ông lão đứng ngoài đường, trông về phía xa. Gặp ai đi xa về, ông cũng chận lại hỏi:
- “Ông đi xa về, bà đi xa về, có gặp thằng út của tôi ở đâu không? Nó ra đi biệt tăm đã lâu. Tôi nhớ nó quá! Ai gặp nó, cho tôi nhắn lời thăm chút”.
Khách đi xa về, lắc đầu.
Màn đêm buông xuống. Người cha lững thững quay gót trở về, lòng nhớ mãi đứa con yêu dấu giờ đây không biết ở phương nào.
Bỗng một chiều kia, khi che bàn tay lên đôi mắt để nhìn về phía xa, người cha run lên vì sung sướng:
- “Kìa, con tôi đang trở về. Ôi, con yêu dấu của cha ơi, cha chỉ mong được sống đến giây phút nầy”.
Rồi như được một sức mạnh phi thường thúc đẩy, ông chạy đến ôm chầm đứa con hồi lâu, quên tất cả những bội bạc của đứa con bất hiếu, và cũng quên rằng con mình đang mặc quần áo rách rưới, tóc tai bù xù, mặt mày hốc hác vì đói khát và đầy những bụi lấm.
Trước cử chỉ đó, người con hoang đàng khóc nức nở, khóc vì hổ thẹn, nhưng cũng khóc vì sung sướng. Nó muốn cúi xuống ôm hôn chân người cha để tỏ dấu ăn năn, nhưng không thể được vì cha nó ôm cứng nó trong lòng. Nó liền nhìn vào mặt người cha và ấp úng nói:
“Lạy cha, con đã phạm tội đến Trời, con đã phạm lỗi với cha. Con không còn đáng được gọi là con của cha nữa. Xin cha hãy xem con như một tên đầy tớ trong nhà mà thôi. Con muốn đền tội con”.
4. Người cha vui mừng
Người cha bịt miệng con lại, không cho con nói. Ông giục con mau về nhà. Lúc về tới nhà, những tên đầy tớ trong nhà cười nhạo đứa con rách nát, nhưng người cha nghiêm nghị nói:
- “Hãy mau lấy bộ áo đẹp nhất ra đây để con ta mặc. Hãy đưa nhẫn cho con ta đeo. Hãy mang giày đến cho con ta xỏ. Hãy bắt con bê béo làm tiệc ăn mừng, vì con ta đã trở về. Con ta, ta tưởng đã chết, nay sống lại. Con ta, ta tưởng đã lạc mất, nay được tìm thấy”.
5. Thiên Chúa là Cha.
Ngài rất yêu thương chúng ta là con cái của Ngài. Khi phạm tội, chúng ta là những đứa con hoang đàng, bỏ Chúa để chạy theo ma quỷ, xác thịt, thế gian. Nhưng than ôi, sau một thời gian tự do bay nhảy, phóng túng, chúng ta chán chường, buồn phiền và thất vọng.
Khi chúng ta lạm dụng sự tự do Chúa ban để sống tội lỗi, chúng ta ngây thơ nghĩ rằng mình được sung sướng hạnh phúc, nhưng chúng ta sẽ chóng thất vọng buồn phiền. Rồi cùng với thời gian, lương tâm chúng ta sẽ bị giày vò vì dằn vặt, ưu tư và tủi hận.
Không có Chúa là Cha yêu thương chúng ta, cuộc đời chúng ta sẽ trống rỗng, đen tối và buồn phiền. Không có Chúa, con người chúng ta không thể tạo nỗi cho mình một cuộc sống thăng bằng, phong phú và hạnh phúc được.
Khi trở về với Chúa, người tội lỗi quyết từ bỏ nếp sống hoang đàng xấu xa của mình. Họ quyết không để cho ma quỷ, xác thịt, thế gian lôi cuốn và gạt gẫm họ đến chỗ hư mất nữa. Họ quyết điều khiển linh hồn và thân xác của mình theo con đường các giới răn của Chúa dạy. Họ hy sinh hãm mình bên trong và bên ngoài. Họ sống đời cầu nguyện sốt sắng, vì họ biết ơn Chúa là hết sức cần thiết để giúp họ đứng vững và tiến bước trên con đường nhân đức thánh thiện. Họ luôn tìm cách treo cao gương tốt trước mặt mọi người để cuộc sống hiện tại của họ làm sáng danh Chúa và đền tội cho cuộc sống quá khứ của họ đã làm ố danh Chúa. Lúc đó, họ mới chính là người tội lỗi thành thực ăn năn hối cải và trở về với Chúa.
Mỗi người chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chúa không phải là một quan án nghiêm khắc, không phải là một vị vua độc tài và độc ác, nhưng Thiên Chúa là đấng chăn chiên lành (ngài luôn luôn đi tìm con chiên lạc, và khi gặp nó trong bụi gai, ngài tìm cách vác nó trên vai, sung sướng đem về nhà); Thiên Chúa như người đàn bà kia đánh rơi mất đồng tiền (người đàn bà thắp đèn đi tìm mọi góc xó trong nhà, và khi tìm được thì báo tin vui cho mọi người biết); và nhất là Thiên Chúa như một người Cha nhân hậu (sau bao ngày buồn rầu vì đứa con ngỗ nghịch ra đi biệt tăm, nay lòng tràn trề vui sướng khi thấy bóng dáng người con ngỗ nghịch từ xa trở về).
Thiên Chúa luôn mở rộng cánh tay bao dung để chờ đón con người tội lỗi ăn năn trở về với ngài.
Tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người tội lỗi chúng ta là thế đó: là mong đợi, là tiếp đón, là vui mừng, là tha thứ khi con người tội lỗi trở về gặp lại Ngài là Chúa tình thương của họ, là Cha yêu thương của họ.