GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI ĐỨC BÁC ÁI XÃ HỘI
“ Lòng yêu Thiên Chúa và anh em đồng loại là điều răn thứ nhất và lớn lao hơn cả. Kinh Thánh nói cho chúng ta biết lòng yêu mến Thiên Chúa chỉ nên hiện thực khi lòng yêu mến đó đi liền với lòng yêu mến anh em đồng loại.” “Và nếu còn lệnh truyền nào khác thì cũng tóm lại trong điều này. Ngươi hãy yêu mến đồng loại như chính mình. Vậy yêu mến là chu toàn của lề luật.” ( Rm 13, 9-10, 1Rm 4,20 ). Và đó thật là quan trọng khi biết rằng càng ngày con người càng cần đến nhau, và một ngày kia thế giới sẽ được hiệp nhất.
Hơn thế nữa, khi Chúa GIêsu cầu xin Cha Ngài để cho tất cả nên một ( Ja 17, 21-22 ) thì Ngài đã mặc khải những viễn tượng mới vượt quá lý trí con người. Ngài cho thấy một sự giống nhau nào đó giữa sự hiệp nhất nơi Thiên Chúa Ba Ngôi và hiệp nhất của các con cái Thiên Chúa với nhau trong sự thật và trong tình yêu. Sự tương quan đó biểu lộ rằng con người, thụ tạo độc nhất ở trần gian được Thiên Chúa ban cho một cùng đích nơi chính mình, con người chỉ có thể tìm lại chính bản thân mình cách trọn vẹn, trong sự hiến thân chính mình cho người khác.” ( Lược đồ XIII, số 24 )
QUAN NIỆM TIỀN ĐỀ
1/ Công bình và bác ái là 2 nhân đức có tính cách đặc biệt xã hội, vì 2 nhân đức này làm cho ta sẵn sàng thực hành những bổn phận đối với xã hội. Do đó, sau khi đã học hỏi về những huấn điều của đạo công giáo về đức công bình, chúng ta phải nghiên cứu về đức bác ái, một nhân đức đã được mệnh danh là nữ hoàng của mọi nhân đức.
Bác ái là một thần đức ( vertu théologale ) làm cho con người mến yêu Thiên Chúa và yêu thương đồng loại vì Thiên Chúa. Bác ái không những phải có tính cách cảm tình ( affectif ), nhưng còn phải có đặc tính hiệu lực ( effectif ), vì bằng chứng của tình yêu phải là việc làm.
Nhưng muốn điều lành cho tha nhân chưa đủ, đức bác ái còn đòi buộc ta phải làm điều lành cho mọi người nữa, nghĩa là đã yêu người thì phải giúp đỡ, làm ơn cho người, tùy trường hợp.
Chính Chúa Cứu thế đã dạy chúng ta điều đó trong ẩn dụ về người Samari từ tâm (Lc 10, 15-37). Người này “thấy người bị thương, liền động lòng trắc ẩn (bác ái theo tình cảm ), và tức khắc “đến gần người bị nạn để băng bó vết thương” (bác ái theo hiệu lực). Chúa đã kết thúc truyện ngụ ngôn bằng lời kêu gọi mọi người nên bắt chước người Samari: Làm ơn giúp đỡ cho người đồng loại” ( Lc 10, 25-37 ).
2/ Tâm tình đại lượng nhân ái là kết quả dĩ nhiên của đức yêu người, chính tâm tình đó thúc đẩy chúng ta cứu giúp người đồng loại trong mọi thứ nhu cầu, về phương diện vật chất cũng như trên lãnh vực tinh thần. Con người, vì gồm có linh hồn và thể xác, nên phải có những nhu cầu thể chất và thiêng liêng. Đức bác ái công giáo cũng truyền buộc 2 thứ loại thương người: thương người về thể xác và thương người về linh hồn.
Kinh nguyện công giáo đã chỉ dẫn 7 thể cách hành động về mỗi thứ loại của đức thương người ( xem kinh Thương xác 7 mối và thương linh hồn 7 mối ).
Nếu linh hồn cao trọng hơn thể xác thì những việc thương người về linh hồn cũng có giá trị hơn những việc trợ giúp về phần xác. Về điểm này, nhiều người công giáo đã lãng quên bổn phận đối với phần rỗi của anh em đồng loại.
3/ Trong chương trình, chúng tôi đã nói rằng: Đức công bình có tính cách khẩn thiết hơn đức bác ái: Ở đây chúng tôi phải nói thêm rằng đức bác ái lại đáng quý trọng hơn đức công bình. Vì sao? Vì đức bác ái thúc đẩy ta làm cho người khác những sự việc mà họ không có quyền đòi hỏi. Đức bác ái đã xuất phát từ trái tim trước khi đi qua lòng muốn, bác ái là hiệu quả nhãn tiền của tình yêu đối với Thiên Chúa và đối với loài người.
Đức bác ái, bởi vậy, có tính cách hồn nhiên và đại lượng hơn đức công bình, và cũng vì thế đáng được công phúc hơn.
4/ Tiếp đến, đức bác ái lại bổ túc cho đức công bình, vì do nhân đức này mà ta cứu trợ những người đồng loại khi ta thấy họ cần phải được giúp đỡ mà không cần phải xét xem họ có quyền đòi hỏi hay không.
Vì thế, Đức Lêô XIII, trong thông điệp “Tân sự”, sau khi đã đề xướng những biện pháp thuộc đức công bình để giải quyết vấn đề xã hội, đã lại qui định những phương thế của đức bác ái. Ngài viết: “Việc giải phóng xã hội mà mọi người mong muốn, trước tiên phải là hiệu quả của đức bác ái đã được phổ biến sâu rộng. Đức bác ái nói đây chính là nhân đức tổng hợp toàn thể phúc âm nhờ đó mà ta có thể luôn luôn sẵn sàng hy sinh cho đồng loại. Đây là một liều thuốc linh nghiệm để điều trị bệnh kiêu căng và tính vị kỷ của thời đại hiện nay.”
Và Đức Piô XII, trong thông điệp “Sertum Laetitioe”, đã viết những lời lẽ đanh thép này rằng: “Nguyên tắc căn bản của vấn đề xã hội là mọi của cải do Thiên Chúa thiết dựng nên cho mọi người, cũng phải được sinh ích cho mọi người một cách thỏa đáng thể theo những nguyên tắc của công bình và bác ái.
Những người cộng sản vẫn thường nói rằng: từ bi bác ái hiện nay còn cần thiết vì chúng ta đang còn sống trong một chế độ bất công và bóc lột, nhưng một khi chế độ hoàn toàn công bình mà chúng ta đang mong mỏi sẽ được thiết lập, lúc bấy giờ không còn cần phải nói tới bác ái và từ bi nữa, bởi vì sẽ không còn ai bị nghèo khổ và túng bấn.
Nói như thế là một ảo tưởng, bởi vì, trong chế độ xã hội tốt đẹp nhất, nơi mà những nguyên tắc công bình không những chỉ được đề xướng ra, nhưng còn được áp dụng cho mọi người, mặc dầu sự kiện đó có thể thực hành được, tuy nhiên bao giờ cũng còn có những người miễn cưỡng và vô tội bị thiếu thốn ( như những người bị bệnh tật ), do đó, đức bác ái, không phải hiện nay, nhưng mãi mãi còn cần thiết để bổ túc cho đức công bình. Ước chi cái công dụng bổ túc của đức bác ái dần dần sẽ được thu hẹp lại do sự bành trướng của tinh thần và hành động của đức công bình.
Dù sao, dưới bất cứ một gầm trời nào, và trong bất cứ thời đại nào chúng ta cũng vốn còn gặp thấy những người thiếu thốn còn cần đến lòng từ bi bác ái.
Nói rút lại, đức bác ái có nhiệm vụ bổ túc cho tất cả những gì còn thiếu sót nơi đức công bình. Người có tinh thần bác ái sẽ có những cánh tay dài rộng có những cặp mắt tinh vi hơn để bao trùm tất cả những cảnh vực mà đức công bình không thể đi tới được. Vượt quá những giới hạn hẹp hòi của lòng chính trực thông thường, lòng từ bi quảng đại sẽ mang lại sự giúp đỡ cho những người có nhu cầu nhưng không có quyền lợi được trợ giúp.
NHIỆM VỤ CỦA ĐỨC BÁC ÁI.
1/ Bác ái là một nhân đức căn bản của đạo công giáo đồng thời là một nhân đức tổng hợp mọi nhân đức khác.
Chính Chúa Cứu thế đã truyền buộc những nghĩa vụ về đức bác ái bằng gương lành và bằng lời giáo huấn của Ngài.
a/ Bằng gương lành.
Tất cả đời sống của Chúa Cứu thế là một hiện thân của đức bác ái. Thực thế, phúc âm Thánh Luca đã tổng hợp hóa đời sống của Chúa bằng câu này: “Chúa Cứu thế đã đi qua cuộc đời bằng việc thi ân giáng phúc cho nhân loại.” ( Act. Apost 10, 38 )
Để chứng minh cho sứ mệnh Cứu thế của Ngài, Chúa Giêsu đã viện đến những công cuộc từ bi bác ái mà Ngài đã thực hiện. Ngài trả lời cho các môn đệ thánh Gioan Tiền hô đến hỏi Ngài có phải là Đấng Cứu thế không, bằng những lời rằng: “Hãy về kể lại cho Gioan những điều chúng con đã nghe thấy và trông thấy: Người mù được xem, người què được đi, người bị phong hủi được chữa lành mạnh, người điếc được nghe thấy.” (Mt 11, 4-5)
Hai lần trong khi làm phép lạ làm cho bánh trở nên nhiều, Chúa Cứu thế đã thốt ra những lời cảm động này rằng: “Ta thương xót đoàn dân này, đã 3 ngày họ ở cùng Ta mà bây giờ không có gì để ăn cả. Ta không muốn để họ nhịn đói mà về, sợ phải mệt xỉu giữa đàng chăng ?”
b/ Bằng lời giáo huấn.
Không biết là bao nhiêu lần, Chúa Giêsu đã giảng dạy về đức bác ái. Trong ngày thẩm phán, Chúa Cứu thế sẽ tuyên án phạt kẻ dữ bằng những lời rằng: “Hỡi những người bị chúc dữ, hãy lui ra khỏi Ta và đi xuống chịu lửa đời đời, bởi vì Ta đói, các người đã không cho Ta ăn, Ta khát, các người đã không cho uống.” Và xin được giải thích, Chúa liền trả lời: “Ta nói thật cùng các ngươi, mỗi lần các ngươi không làm việc đó cho một trong những người hèn kém này ( những người cơ bần bị bỏ rơi v.v… ), là các người đã không làm cho chính Ta.” ( Mt 25, 41-45 ). Còn lý lẽ nào hùng biện hơn để minh chứng những bổn phận của đức bác ái đối với những nhu cầu về thể xác, khi Chúa lên án đời đời cho những ai không thi hành bổn phận đó ?
2/ Các thánh tông đồ cũng đã giảng dạy tương tự như thế. Đây là mấy lời lẽ chứng minh.
Thánh Phaolô đã truyền dạy các tín hữu thành Rôma phải dùng của mình có để trợ giúp những anh em khó nghèo. Ngài viết: “Chúng con phải thương yêu nhau bằng đức bác ái huynh đệ, bằng việc chu cấp những sự cần dùng cho anh em.” (Rm 12, 10-13 ). Và khi viết thư cho dân Do thái, ngài đã không quên nhắc lại cho họ những nghĩa vụ về đức quảng đại từ tâm: “Chúng con đừng quên những việc tương thân tương trợ và những mối thông cảm vì đức ái.” Ngài lại viết thêm rằng: “Những việc tế lễ như thế rất đẹp lòng Thiên Chúa và xứng đáng chịu ơn Ngài.” (Dt13,16 ).
Thánh Gioan đã nói những lời đanh thép này với những người có lòng dạ sắt đá đối với những người nghèo: “Ai có của cải mà khi thấy anh em bị túng thiếu liền đóng chặt lòng lại thì lòng mến Chúa ở trong họ thế nào được.” (Ga 1,3,17). Trước đó thánh tông đồ lại đã giảng dạy rằng: “Ai không có lòng thương yêu anh em thì người đó ở trong sự chết.” ( Ga 1,2,14 ) và sự chết ở đây phải hiểu là sự chết về phần linh hồn.
BỀ RỘNG VÀ BỀ SÂU CỦA ĐỨC BÁC ÁI.
1/ Đức bác ái do Chúa Cứu thế truyền buộc chứa đựng một cường độ sâu thẳm, nó đòi hỏi những hy sinh vô giới hạn hy sinh ngay cả đến đời sống.
Những giới điều bác ái công giáo lại đã được ghi chép bằng chính Máu đào của Chúa Cứu thế, đồng thời đã được thể hiện bằng sự hy sinh cao cả của bản thân Ngài. Không những Chúa đã tuyên bố mọi người là anh em, và đã giảng dạy tình huynh đệ đại đồng, người huynh trưởng của anh em thánh Phaolô đã gọi thế còn tận hiến cả đến đời sống cho mọi anh em nữa. Chính ngài đã phán: “Ta là Chúa Chiên lành, đã hy sinh sự sống cho đoàn chiên mình.” ( Ga 10,11 )
Như thế Chúa dạy chúng ta phải yêu thương đồng loại không những bằng tâm hồn, bằng sự vật, nhưng bằng tất cả bản thân chúng ta là tài năng, những nỗi nhọc nhằn khổ cực, và ngay cả đến tính mệnh nữa, một khi những nhu cầu tối cao nơi đời sống tự nhiên và siêu nhiên của tha nhân đòi buộc.
Thánh Gioan, vị tông đồ của đức bác ái đã viết những lời lẽ khúc chiết rằng: “Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống vì ta thì ta cũng phải hy sinh mạng sống cho anh em đồng loại” (Ga 1, 3, 16 ).
Hy sinh tính mệnh cho tha nhân là một phép lạ phát xuất do đạo công giáo, phép lạ đó tương phản với những luật điều của tính vị kỷ nơi con người, mà khẩu hiệu tối cao là Hy Sinh tất cả để phụng sự bản thân, hy sinh cả đến tính mệnh của người khác.
Đức vị tha cao cả của đạo công giáo đã được tuân giữ một cách anh hùng nơi nhiều tín hữu sùng đạo. Biết bao vị thừa sai, biết bao nam nữ tu sĩ đã phải hy sinh mạng sống vì những nghĩa vụ bác ái tại các trại cùi, các bệnh viện, sống những hoàn cảnh hoạt động đầy nhọc nhằn và nguy hiểm: họ chính là những vật hy sinh cho công cuộc cứu rỗi thiêng liêng và thể xác của người đồng loại.
2/ Đức bác ái do Chúa Kitô đề xướng bao hàm một phạm vi rộng lớn, bởi nó không loại trừ bất cứ một thứ hạng người nào.
Chúng ta hãy nghe mấy lời tuyên bố đầy ý nghĩa của Chúa Giêsu: “Hãy làm ơn lành cho những ai thù ghét chúng con, hãy cầu nguyện cho những ai bắt bớ và bỏ vạ cho chúng con, để chúng con được trở thành con cái của Cha trên trời là Đấng khiến mặt trời mọc lên soi cho người lành và người dữ, làm mưa cho người công chính và kẻ độc ác. Bởi vì, nếu chúng con chỉ yêu những người yêu chúng con mà thôi thì được công phúc gì ? Những người thâu thuế (Publicain) lại không làm như vậy sao ? ( Mt 5, 44-46 ).
Cũng như Thiên Chúa, con cái của Ngài phải yêu mến mọi người, phải làm ơn cho mọi người. Đức bác ái đại đồng là một đạo tính cần thiết của tình huynh đệ đại đồng.
Tính cách đại đồng không phân biệt giai cấp ở đây cũng là một điều răn mới lạ của phúc âm.
Một số người ở thời thượng cổ đã thấu hiểu nhân đức này nhưng lại hạn chế giới hạn hành động. Văn hào Cicéron muốn nói rằng: “Chúng ta không sinh ra cho nguyên một thân chúng ta (Non nobis solum nati sumus) (De officiis, I, 7). Nói lời đó, Cicéron muốn đả kích tính vị kỷ. Đã hẳn, mọi người đều phải nghĩ tới tha nhân. Nhưng tha nhân đó là ai ? Nhà hiền triết đã trả lời cho chúng ta rằng: “Một phần ta phải phụng sự quê hương, một phần phải phụng sự cha mẹ, một phần phụng sự bạn bè ( Ortus nostri partem patris sibi vindicat, partem parentes, partem amici), nhãn giới của nhà hiền triết chỉ nhìn thấy những đích điểm đó mà thôi.
Chúa Cứu thế đã phá vỡ những giới hạn chật hẹp và độc đoán như thế. Ngài dạy rằng đức bác ái phải bao hàm mọi người, thuộc mọi giai cấp và chủng tộc, vì mọi người là con một cha, đều như nhau trong một hình ảnh Thiên Chúa.
3/ Nhưng yêu thương những người thù nghịch, quý mến những người mà nơi họ ta không thấy gì là đáng mến quả là một điều trái ngược, làm ơn cho những người hại ta, đó chẳng phải là một luật điều mâu thuẫn, một yêu sách phi lý chăng ?
Một số người thường nghĩ và nói như trên, vì họ không hiểu biết và không chú trọng đến những lý do thúc đẩy đức bác ái công giáo đối với đồng loại. Như chúng tôi đã nói: Ta phải yêu mến Thiên Chúa như Chúa đáng mến, nhưng với người đồng loại, ta mến yêu họ, không phải vì họ, nhưng vì lòng mến yêu Chúa. nói cách khác, ta yêu mến đồng loại vì Thiên Chúa đã truyền buộc điều đó, vì nơi mỗi người, ta đều nhiền thấy hình ảnh Thiên Chúa, vì mọi người đều đã được cứu rỗi bởi Máu thánh Chúa Kitô, vì mỗi người đều là con Thiên Chúa, là anh em với ta. Tất cả những danh nghĩa của tình yêu thương đó, ta gặp thấy nơi mọi người ngay cả nơi những kẻ mà, xét nguyên vì họ, không có gì đáng ta yêu mến.
Đàng khác tình yêu và đức vị tha càng đáng được công phúc trước mặt Chúa khi cả hai đều ít được ta tán thưởng và nhìn nhận.
NHỮNG LỢI ÍCH CỦA ĐỨC BÁC ÁI VỊ THA
Đức bác ái vị tha đem lại cho chúng ta nhiều lợi ích ở đời này và đời sau. Dưới đây là mấy lợi ích chính yếu.
1/ Đức bác ái mở cửa thiên đàng cho chúng ta.
Trong ngày phán xét chung, Chúa Giêsu sẽ tuyên bố những lời này rằng: “ Hãy đến, hỡi những người đã được Cha ta chúc phúc lành, hãy nhận lấy phần thưởng… vì Ta đói các người đã cho Ta ăn.” ( Mt 15, 34-36 ).
2/ Đức bác ái đem đến cho ta những ơn phù trợ của Thiên Chúa.
Chúa Kitô đã phán: “Hãy cho rồi sẽ được người khác cho lại” (LC 6, 30). Ta sẽ được Thiên Chúa thưởng công không những trên thiên đàng, nhưng ngay ở trên trần thế, bởi thường Ngài không để cho những người có lòng quảng đại từ tâm phải thiếu thốn những sự cần thiết. Việc làm ơn không bao giờ làm cho con người trở thành nghèo khó. Chúa Thánh Thần đã phán rằng: “Ai trợ giúp người nghèo là cho Chúa mắc nợ.” (Prov 19, 17 ). Và ai cho Chúa vay mượn, sẽ được Ngài trả lại gấp bội, cũng như người đó đã để tiền trong một ngân hàng không bao giờ bị thua thiệt.
3/ Đức bác ái đáng được Chúa tha thứ mọi tội lỗi.
Trong Thánh kinh, nơi sách Tobia, chúng ta đọc thấy lời rằng: “Việc làm phúc bố thí cứu thoát khỏi tội lỗi và sự chết, và không để cho linh hồn bị sa ngã vào nơi tối tăm” (Tobia 4,12 ). Việc làm phúc nói đây phải hiểu là mọi hình thức làm ơn và trợ giúp.
Chúa Cứu thế lại đã dạy rằng: “Phúc cho những người có lòng từ tâm, vì họ sẽ gặp thấy sự thương xót của Chúa.” ( Mt 5,7 )
Đức bác ái vị tha đối với thể xác cũng như với linh hồn phải được chiếm một địa vị cao cả trong đời sống của mỗi người công giáo.
Công giáo tiến hành là một hình thức để thi hành bác ái vị tha đối với mọi tha nhân, đó chính là một công cuộc cần thiết và đầy ơn ích.
Tâm hồn quảng đại vị tha, tự nó, đã là một phương thế hiệu nghiệm nhất để hành động tông đồ. Vì rằng, như Đức Piô XII đã nói: “Thế giới hiện đại, một thế giới đang bị xao xuyến và rối ren, không còn muốn tin tưởng ở chân lý nữa, không còn dám tin tưởng ở đức công bình nữa, thế giới này chỉ có thể được giải quyết bằng đức bác ái.” (Diễn văn ngày 13-3-1940).
Cũng trong bài diễn văn trên, đức Piô XII lại đã xác định rằng: “Những người nghèo khó đến lượt họ, lại là những ân nhân của ta bằng nhiều thể cách, bởi vì việc làm ơn bao giờ cũng trả lại lợi ích cho người làm ơn. Thật thế, làm ơn cho người khác là phương thế tối hảo để làm ơn cho chính mình. An nhân là người trước tiên được hưởng lợi.
Để đạt tới mục tiêu đó, cần thiết là chúng ta phải xa tránh mọi hình thức phô trương, đồng thời luôn luôn ghi nhớ lời khuyên răn của Chúa: “Khi con làm phúc bố thí thì đừng thổi kèn trước mặt con… đừng cho tay trái biết tay phải làm gì, vì Cha con là Đấng trông thấy trong chỗ kín nhiệm, sẽ thưởng công cho con.” ( Mt 6, 2-4 ). Sau hết phải liệu sao để đức bác ái của ta phải được kiên tâm và từ tốn như thánh Phaolô dạy. Trong khi làm ơn phải tránh những thái độ tự tôn mặc cảm và những cử chỉ hách dịch làm hạ giá người chịu ơn.
Luôn luôn chúng ta phải ghi nhớ câu khẩu hiệu này: “Hành động bác ái phải làm với cử chỉ bác ái”.