GIÁO LÝ CÔNG GIÁO VỚI ĐỚI SỐNG GIA ĐÌNH



“Thật ra phẩm giá gia đình không được sáng tỏ khắp nơi trên thế giới: phẩm giá đó bị phủ mờ do chế độ đa thê, ly dị, tình yêu tự do hay những hình thức méo mó khác. Thường lắm lúc tình yêu vợ chồng bị mất giá trị do ích kỷ hưởng lạc và những phương pháp phá thai bất chính.

Đàng khác, những điều kiện kinh tế, xã hội, tôn giáo và công dân của đời sống hiện tại đã đem vào trong đời sống gia đình một xáo trộn hiển nhiên không ai có thể phủ nhận được. Sau cùng, ở một vài miền trên thế giới, nhiều vấn đề quan trọng được đặt ra do sự kiện gia tăng dân số. Lương tâm rất khắc khoải về vấn đề đó.

Tuy nhiên phẩm giá bền vững của hôn nhân và gia đình cũng được biểu lộ ra trong sự kiện này: tuy có những khó khăn trong đới sống gia đình và hôn nhân, nhưng tính chất hiện thực của qui chế gia đình vẫn còn nguyên vẹn.

Cho nên Công đồng Vatican II muốn làm sáng tỏ nhiều khía cạnh của đạo lý Hội thánh để chiếu sáng và củng cố các tín hữu và tất cả những ai thiết tha bảo tồn và thăng tiến phẩm giá tự nhiên và siêu nhiên của gia đình” (Lược đồ XIII, số 47)

Quan niệm tiền đề.

1. Người công giáo nào cũng là phần tử của 3 xã hội khác nhau là: xã hội gia đình, xã hội quốc gia và xã hội tôn giáo.

Cả 3 thứ loại xã hội đều không có tính cách tương phản, nhưng là hoà hợp với nhau, vì mỗi xã hội đều có mục đích làm thoả mãn những nhu cầu riêng biệt của con người. Muốn phục vụ lợi ích toàn diện của con người thì mọi cấp bậc xã hội đều phải hoà nhịp với nhau trong một tinh thần liên kết và tương trợ duy nhất.

Xét theo phương diện thời gian thì gia đình là một xã hội có trước các thứ xã hội khác. Chính Thiên Chúa đã thiết lập nên gia đình khi Ngài tuyên bố: “Con người sẽ bỏ cha bỏ mẹ để phối hiệp với vợ mình và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt” (St II, 24).

Gia đình, do đó, là một xã hội tự nhiên vì đã do chính Đấng Tạo hóa sáng lập nên, gia đình lại là một tổ chức cần yếu vì nhằm mục đích duy trì sự sản sinh và giáo dục con người.

2. Bí tích Hôn phối là nguồn gốc và là nền tảng của gia đình. Chính Bí tích này đã cấu tạo nên tổ chức gia đình, bảo vệ và bồi dưỡng nó như linh hồn chuyển thông sức sống cho thể xác.

Bí tích Hôn phối đã đem lại cho xã hội gia đình những mục đích chính yếu này là sự bảo tồn nòi giống (mục đích chính), việc tương trợ giữa 2 vợ chồng, việc làm thoả mãn tính dục (mục đích phụ).

Ngoài ra, Bí tích Hôn phối còn chứa đựng 3 đặc điểm sau đây:

a. Duy nhất tính. Vì Hôn phối đích thực chỉ gồm có một người nam và một người nữ (chế độ nhất phu nhất phụ). Do đó, phải bài trừ chế độ đa phu (nhiều đàn ông với một đàn bà ) và chế độ đa thê (nhiều đàn bà với một đàn ông).

b. Bất phân ly tính làm cho Hôn phối trở thành một khế ước vĩnh viễn và mất tính cách tạm thời. Đặc tính này đã phủ nhận chế độ ly hôn, không cho phép vợ chồng được bỏ nhau.

c. Thánh thiện tính vì chính Bí tích Hôn phối đã nâng cao địa vị của vợ chồng đồng thời đã chỉ định cho Hôn phối một mục đích cao cả. Vợ chồng đã trở thành những cộng tác viên của Đấng Tạo hoá trong việc thi hành sứ mệnh truyền sinh.

Nhưng các hình ảnh cao đẹp và liêm khiết của tổ chức gia đình nguyên thuỷ mà chính Thiên Chúa đã qui định kia, tiếc thay đã bị lu mờ và biến thể trong thời kỳ mà Chúa Cứu thế sinh xuống trần gian. Đó đây, không những tại các dân tộc ngoại giáo mà thôi, nhưng cả nơi dân tộc Do thái, những thuần phong mỹ tục về chế độ gia đình đã bị thời gian làm đảo lộn tất cả.

Trước thảm trạng đó, Chúa Cứu thế đã ra tay cải tạo và kiến thiết lại chế độ gia đình bằng cách chấn hưng chế độ hôn nhân, giải phóng giai cấp phụ nữ và đề cao đơn vị của thiếu nhi.

Việc chấn hưng chế độ hôn nhân.

1. Trong thời đại Chúa Cứu thế, hầu hết mọi dân tộc đã đánh giá chế độ hôn nhân một cách qúa thấp hèn, do đó gia đình đã bị mất đi những đặc điểm chủ yếu và nguyên thuỷ của nó là tính cách duy nhất, bất phân ly và thánh thiện.

Hôn nhân không còn đặc tính duy nhất nữa, vì thời đó, người chồng có thể lấy bao nhiêu vợ cũng được, đặc tính bất phân ly cũng không được tôn trọng, vì người ta đã chấp nhận việc ly hôn với những lý do cực kỳ tầm thường và vụn vặt, nói gì đến đặc tính thánh thiện hữa vì Hôn nhân chỉ được người đời coi như một phương tiện để làm thỏa mãn nhục dục.

Tại La mã, việc ly hôn đã trở nên thông thường qúa đến độ triết gia Seneco đã qủa quyết rằng: “Nhiều phụ nữ để có thể tính tuổi mình, không phải theo lượng số các lãnh sự viện nhưng là lượng số của các đức ông chồng” (các lãnh sự viên, theo tục La Mã xưa, mỗi năm đổi một lần). Và thánh Giêrônimô, trong một văn thư còn để lại, có nói đến một phụ nữ đã qua đời với đời chồng thứ 23. Đa thê và ly dị chính là những nguyên nhân đã phá đổ nền tảng gia đình trong thời thượng cổ.

Tại dân tộc Do thái, những công dân được sử dụng giấy phép “rẫy vợ” (libellum repudii). Với giấy đó, người chồng có thể từ rẫy người vợ với bất cứ một lý do nào.

2. Trong việc cải tạo chế độ Hôn nhân, Chúa Cứu thế đã bắt đầu bằng việc phục hồi lại những đặc tính nguyên thủy của đới sống phu phụ là luật một vợ một chồng, điều kiện bất khả ly hôn và thánh thiện của chế độ đồng cư.

Một ngày kia, những người Biệt phái có hỏi Chúa Cứu thế rằng: “Thưa Thầy, người chồng có được phép từ rẫy vợ mình vì một lý do nào không? Chúa liền trả lời: “Chớ thì các ông không đọc trong Thánh kinh rằng, chính Đấng từ nguyên thuỷ, trong khi tạo dựng nên con người, đã tạo dựng nên người nam và người nữ?” Thánh kinh còn thêm rằng: “Bởi thế người nam sẽ bỏ cha mẹ và phối hiệp với vợ mình và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt. Do đó không phải là hai, nhưng là một xương một thịt. Vậy thì người ta không được phân ly điều mà Thiên Chúa đã kết hiệp” (Mt XIX, 3-6)

Bằng những lời tuyên bố trên, Chúa Cứu thế đã thiết lập lại đặc tính nhất phu nhất phụ. Ngài đã phán rằng: “Người nam sẽ phối hiệp với vợ mình” (danh từ vợ, Chúa dùng trong số ít”, chớ không với hai hay nhiều vợ; “và cả hai sẽ trở nên một xương một thịt”, chứ không phải là ba, bốn hoặc nhiều xương nhiều thịt.

Rõ ràng hơn nữa, Chúa lại đã chấn hưng luật bất khả phân ly trong hôn nhân khi Ngài qủa quyết rằng “Người nam sẽ phối hiệp với vợ mình”, đồng thời Chúa lại tuyên bố rằng sự liên kết như thế là do Thiên Chúa qui định, nên loài người không thể phá huỷ được. “Con người không được phân ly điều mà Thiên Chúa đã kết hợp”. Bằng những lời lẽ tuyệt đối như thế, Chúa Cứu thế đã không chấp nhận bất cứ lý do nào của việc ly hôn.

Tiếp đến, Chúa lại phục hồi cho Hôn nhân đặc tính thánh thiện, bởi chính Ngài đã chuyển biến khế ước Hôn nhân lên một địa vị cao cả và thánh thiện bậc nhất là Bí tích Hôn phối, “một Bí tích trọng đại”, như thánh Phaolô đã viết- và Ngài còn so sánh sự liên kết giữa vợ chồng như sự liên kết giữa Chúa Cứu thế và bạn trăm năm của Ngài là Giáo hội. (Ep. Và, 22-23)/

Theo gương vị sáng lập chí thánh, luôn luôn bằng lời nói và việc làm để duy trì đặc tính quan trọng của Bí tích Hôn phối, đồng thời để bảo vệ những đặc tính siêu việt đó, Giáo Hội đã ban hành nhiều luật lệ và thể thức liên quan đến đời sống phu thê.

Bá tước Francois Pacelli- người đã có công lớn trong việc điều đình để ký kết hòa ước giữa Toà thánh và chính phủ Ý quốc- trong bài diễn văn đọc tại Tuần lễ xã hội La mã (tháng IX năm 1929), đã nói rằng: “Hôn nhân là một vấn đề tế nhị nhất. Trong khi còn đang thương thuyết để ký kết hòa ước, Đức Piô XI đã qủa quyết với tôi rằng: “với Ngài thì vấn đề Hôn phối được kể là một trong những vấn đề quan trọng bậc nhất của hòa ước, chính phủ phải công nhận những hiệu lực dân sự của Bí tích Hôn phối, vì nó chính là một khế ước làm theo luật lệ Giáo Hội”.

Sau khi vấn đề đó đã được chính phủ Ý công nhận, Đức Piô XI đã viết rằng: “Đó là một thành công đáng kể nhất mà chỉ nguyên về việc đó, ngài sẵn sàng ky sinh cả đời sống” (văn thư ngày 30/II/1929).

Và trải qua các thế kỷ, Giáo Hội đã phải cam chịu biết bao là thử thách, bách hại và thiệt thòi đủ thứ để bảo vệ những đặc tính do Chúa Cứu thế đã ấn định cho địa vị Hôn nhân.

Vua Henri VIII, hoàng đế nước Anh khi muốn từ rẫy bà Catherine d Argon vợ mình để tôn Anne Bolena lên làm hoàng hậu, có viết thơ cho Đức Giáo hoàng Clément VII và nói rằng: “Hoặc là Đức giáo hoàng phải cho phép vua ly hôn, hoặc là vua sẽ ly giáo (bỏ đạo)” nhưng để duy trì giá trị cho Hôn nhân, Đức thánh cha đành phải để cho vua và cả nước Anh ly giáo.

Đó cũng là thái độ của Giáo Hội trong những trường hợp tương tự trải qua mười chín thế kỷ nay, để bảo tồn địa vị Hôn nhân công giáo, được coi như là một bảo vật thần thánh và bất khả xâm phạm nền tảng của đời sống văn minh của toàn thể nhân loại.

Việc giải phóng giai cấp phụ nữ.

1. Chế độ đa thê và tập tục ly hôn là 2 tệ đoan ác hại đã huỷ hoại phẩm giá người phụ nữ trong thời kỳ Chúa Cứu thế giáng trần; tại hầu hết các dân tộc thời đó, phụ nữ chỉ là những nô lệ thuộc quyền sở hữu của nam giới, hoặc chỉ là những dụng cụ để người đàn ông sử dụng nhằm thỏa mãn dục tình.

Ngay cả đến các triết gia thời đó cũng có những thành kiến miệt thị nữ giới, gán cho nữ giới một địa vị hèn kém cách xa đàn ông. Quân tử Platon đã viết rằng: “Linh hồn những tội nhân sẽ bị trừng phạt bằng cách phải sinh lại làm kiếp đàn bà và sau đó còn phải sinh lại làm kiếp súc vật”.

Trong việc kết hôn, không bao giờ phụ nữ được hỏi ý kiến, người cha trong gia đình có toàn quyền gả con gái cho bất cứ ai mà họ muốn, cho bất cứ ai trả giá đắt hơn.

Luật pháp tại nhiều quốc gia cũng cho phép người chồng được đủ mọi quyền hành đối với người vợ, họ được phép đánh đập vợ bất cứ vì lý do nào, được phép bán vợ như bán một tôi đòi, nhiều khi pháp luật còn cho phép giết vợ nữa.

Để cứu thoát nữ giới khỏi những gông cùm nô lệ ngàn đời đó, Chúa Cứu thế đã cố gắng thiết lập lại phẩm giá nguyên thuỷ của phụ nữ là một người bạn đồng hành và bình đẳng với nam giới. Thiên Chúa, trong khi tạo dựng nên người nữ, đã truyền phán một cách minh bạch rằng: “Ta hãy làm nên một người giúp đỡ tương tự như người nam”. (Gen. II, 19). Dó đó, địa vị của nữ giới là tương đồng, bình đẳng với nam giới, không thể là hèn kém hơn nam giới.

2. Chúa Cứu thế đã thực hiện việc giải phóng phụ nữ bằng nhiều thể cách:

a. Trước hết, để nâng cao giá trị của nữ giới, chính Ngài đã tự ý sinh xuống trần gian bởi một người nữ. Thánh Phaolô đã viết: “Thiên Chúa đã sai phái Con Người sinh ra bởi một phụ nữ. (Gal. IV, 4). Một phụ nữ đã được nâng lên hàng làm mẹ Thiên Chúa, cao trọng biết bao địa vị của phái nữ. Nhà văn hào Dante đã ca ngợi Đức Nữ Trinh Maria rằng: “Ngài là một vị khiêm tốn và cao cả hơn mọi lòai tạo vật. Chính nhờ Ngài mà phẩm giá của nhân loại đã được đề cao, chính Đấng Tạo hóa lại trở nên loài thụ tạo nơi Ngài” (Dante, XXXIII, 2, 6).

Như thế, giá trị của loài người đã được khai quang nơi Trinh nữ Maria, nhưng nhất là giá trị của nữ giới, vì Đức Nữ Trinh đã được gọi là: “Người có phúc hơn mọi người nữ”.

Với vinh hạnh của Đức Bà Maria, ai còn có thể nói phẩm giá của phụ nữ là thấp kém hơn nam giới?

b. Tiếp đến, Chúa Cứu thế đã giải phóng phụ nữ bằng việc tái lập đặc tính nguyên thuỷ của chế độ Hôn nhân, căn cứ vào 3 yếu tố là nhất phu nhất phụ, bất khả phân ly và đời sống thánh thiện. Với 3 đặc tính này, phụ nữ đã trở thành hoàng hậu của gia đình và cộng thêm vào những khả năng thiên nhiên vốn có sẵn, địa vị của nữ giới sẽ là một bảo vật bất khả xâm phạm.

Mặc dầu thánh Phaolô đã viết rằng: “Người vợ phải tòng phục người chồng như tòng phục Thiên Chúa, bởi vì người nam là thủ lĩnh của người nữ, như Chúa Kitô là thủ lĩnh của Giáo Hội” (Ep Và, 22-23). Nhưng sự phục tòng như thế chỉ là do nhu cầu quản trị và trật tự gia đình đòi hỏi để thống nhất việc chỉ huy. Tuy phải tùng phục người chồng, nhưng người vợ vốn phải là người bạn của chồng, không phải là đầy tớ, vì thánh Tông đồ lại nói tiếp: “Những người chồng hãy yêu mến vợ mình như Chúa Kitô đã yêu mến Giáo Hội và hiến thân cho Giáo Hội… Mỗi người chúng con hãy yêu mến vợ mình như yêu mến chính mình”. (Ep V, 25).

Như thế quyền hành của người chồng đã được trù liệu trong những giới hạn nhất định: người chồng được giữ địa vị thủ lĩnh là để bảo vệ và mưu lợi ích cho người vợ. Thánh kinh đã nêu lên một gương mẫu điển hình nhất: Chúa Cứu thế giữ địa vị thủ lĩnh để hy sinh thân thể cho bạn mình là Giáo Hội.

Về điểm này, trong thông điệp “Phụ nữ khiết tịnh” (Casti Connubii), Đức Piô XI đã viết rằng:

“Nguyên tắc vợ phải phục tòng chồng không có ý phủ nhận hoặc chiếm đọat quyền tự do mà người vợ vốn đã hoàn toàn thủ đắc hoặc do phẩm giá siêu việt của nhân vị, hoặc do địa vị cao qúi của tước hiệu làm vợ, làm mẹ, làm bạn trăm năm, nguyên tắc đó cũng không bắt buộc người vợ phải cam chịu tất cả những thị hiếu thất thường của chồng, khi chúng không phù hợp với lẽ phải, và với địa vị người vợ; sau hết nguyên tắc đó cũng không có ý ép buộc người vợ phải đứng ngang hàng với những vị thành niên là những người mà vì thiếu óc phán đoán, thiếu sự từng trải việc đời, pháp luật thường không cho sử dụng hoàn toàn quyền tự do; nguyên tắc này chỉ có ý ngăn ngừa tính tự do qúa khích thường làm sao nhãng bổn phận gia đình, cũng như thể nó ngăn ngừa trái tim đừng phân ly khỏi khối óc trong chi thể gia đình kẻo toàn thể thân xác phải bị hư hỏng và hiểm họa. Thật thế, nếu người chồng là khối óc thì người vợ phải là trái tim trong cơ thể gia đình, nếu bộ óc được quyền ưu tiên về chỉ huy, thì trái tim cũng phải được quyền độc hữu và ưu tiên để yêu thương.

c. Đàng khác, Chúa Cứu thế đã nâng cao địa vị phụ nữ bằng cách tái lập quyền bình đẳng bản thể giữa nam giới và nữ giới. Cả nam cả nữ đều được bình đẳng về mục đích đời người (thiên đàng), về pháp luật và những phương tiện thánh hóa. Thánh Phaolô đã viết rằng: “Không có sự khác biệt giữa người Do thái và người Hy lạp, giữa người nô lệ và tự do, giữa người nam và người nữ, vì tất cả đều trở nên một trong Chúa Chúa Giêsu Kitô (Gal. III, 28).

Theo gương Chúa, Giáo Hội không chấp nhận sự cách biệt giữa nam giới và nữ giới trong khi phân phát ân sủng do các Bí tích, trong lễ nghi tấn phong chân phước và hiển thánh, trong vấn đề tôn sùng các vị thánh nam nữ…..

Một nhận xét dưới đây đáng được mọi người lưu ý. Con người hiện đại có những quan niệm gì về nữ giới? Có thể nói là quan niệm thời nay không khác gì với quan niệm ở thời

Thượng cổ. Người nữ bị coi như là một sự vật mà mục đích duy nhất là để phụng sự tính dục cho nam giới.

Thật thế, trong văn chương, nghệ thụât, kịch trường, điện ảnh sách vở báo chí và những hình thức quảng cảo thời nay… phụ nữ chỉ được đánh giá bằng những đặc điểm bên ngoài, bằng những khả năng làm thỏa mãn những thú tính thấp hèn nhất của người nam. Địa vị cao cả của phụ nữ đã bị lãng quên để nhường chỗ cho những thể chất bên ngoài hào nhoáng và nông cạn.

Căn cứ vào những lời huấn dụ của Thánh kinh và bằng vào sự chỉ dẫn của Giáo Hội, nam giới phải thi hành những nghĩa vụ đặc biệt đối với nữ giới.

a. Nam giới không được hành động gì vi phạm đến nhân đức là danh dự của nữ giới. Nghĩa là với bất cứ một người nữ nào, nam giới không được nói hay làm những điều mà mình không muốn ai nói hay làm đối với mẹ mình, vợ mình, hoặc em gái mình…

b. Phải có tinh thần kính trọng nữ giới, không được xem phụ nữ như một vật loài hèn kém, một đồ giải trí cho đàn ông, một hình ảnh khêu gợi dục tính.

c. Không những không được xúc phạm tới phụ nữ, nam giới còn có bổn phận phải bảo vệ đạo đức và danh dự cho nữ giới, nâng đỡ và hướng dẫn nữ giới khi cần thiết để họ khỏi lìa xa địa vị cao qúi của họ.

Chủ nghĩa Hiệp sĩ đời Trung cổ, ảnh hưởng do đạo Công giáo trong bản Nội qui, có lời dạy rằng: “Hiệp sĩ phải có lòng tôn trọng những sự vật yếu đuối và tự mình phải sẵn sàng bảo vệ những người yếu hèn”. Trong những người yếu đuối phải tôn kính và bảo vệ thì phụ nữ được kể vào hạng ưu tiên, chiếu theo tập tục của thời trung cổ.

Theo ý nghĩa đó, mỗi người Công giáo phải trở thành một hiệp sĩ hoàn hảo nhất, nghĩa là phải kính trọng và bảo vệ nữ giới trong lời nói và việc làm.

Việc bảo vệ thiếu nhi

1. Ngoài ánh sáng của đạo giáo thì mọi sự vật yếu đuối đều thường bị lãng quên, nếu không nói là bị khinh rẻ và chà đạp. Sự kiện đó đã được chứng minh không những nơi số phận của nữ giới nhưng cả với thân phận của nhi đồng.

Theo tập tục của gia đình thời xưa thì người chồng được có mọi quyền hành đối với người vợ, người gia trưởng được toàn quyền xử dụng đối với con cái, người cha có quyền trừng phạt con cái bằng đủ mọi thể cách, có quyền hành hạ, đợ bán con cái như những nô lệ, người cha còn được quyền sát hại con cái nữa.

Hồi thế kỷ thứ II, văn hào Tertullien, trong khi tranh luận với những người bách hại đạo Công giáo, đã viết những lời rằng: “Trong số những người khát máu người công giáo, biết bao kẻ đã không ngần ngại chém giết con cái mình, biết bao kẻ đã để con cái mình phải chết đói chết rét, biết bao kẻ đã vất xác con cái mình làm mồi ăn cho chó dữ?”.

Ngay tại La mã, trong những thời kỳ lừng danh nhất của nền văn minh cực thịnh thì những trẻ em sơ sinh phải đem đến dưới chân người cha, nếu được người cha bồng ẵm trên tay thì trẻ em đó được chấp nhận và được nuôi sống: nếu trái lại người cha cứ để trẻ sơ sinh nằm dưới đất thì dấu hiệu đó muốn nói rằng người cha đã từ bỏ con, bấy giờ đứa trẻ đó sẽ bị vứt bỏ ngoài đường phố và không một ai đoái hoài tới nữa. Bị vất bỏ như thế, những trẻ con bạc phúc này không còn số phận nào khác nếu không bị chết đói chết rét, hoặc là mồi ngôn cho chó. Nhiều khi người ta còn gặp những trường hợp đau thương khác, những người hành khất chuyên nghiệp đi nhặt những trẻ nhỏ đó, nhận làm con riêng, đánh đập cho nó khóc lên để những ai qua lại phải động lòng trắc ẩn mà bố thí (L. Garriguet: La valeur sociale de l Evangile).

Tệ tục khinh rẻ hài nhi, ngày nay, tại một vài nơi, vốn còn được lưu hành.

2. Chúa Cứu thế đã cứu vớt những tạo vật nhỏ bé, những hài nhi yếu hèn bằng nhiều thể cách:

a. Trước hết chính Ngài đã tự mình giáng trần dưới hình thức một hài nhi để phục tòng thánh Giuse và Đức bà Maria: “Chúa đã vâng phục những vị đó” (Luc. II, 51). Vậy thì ngày nay, sau khi chính Con Thiên Chúa đã tự hạ mặc lấy hình hài một trẻ thơ yếu đuối mà người công giáo lại không kính trọng và yêu mến thiếu nhi?

Cũng vì lý do đó mà trong mọi gia đình công giáo: “con cái không thể bị coi như những gánh nặng, nhưng là những bảo vật qúi giá” (Piô XII, Thông điệp Sertum Loetitioe).

b. Lúc còn sinh thời, Chúa Cứu thế đã yêu mến trẻ con một cách đặc biệt, ngài đã ẵm chúng vào lòng, làm phép lành và khen ngợi chúng. Hơn thế nữa, Chúa còn sánh ví Ngài với trẻ con khi Ngài nói: “Ai nhân danh Ta mà tiếp nhận một con trẻ, thì là tiếp nhận chính Ta”. (Mt XVIII, 5).

Một ngày kia, mấy bà mẹ “đem đến cho Ngài những trẻ con để Ngài vuốt ve chúng, nhưng các môn đệ lại phiền trách những người mang trẻ đến. Thấy vậy Chúa Chúa Giêsu liền nổi giận và phán cùng môn đệ rằng: “Hãy để các trẻ đến cùng Ta, đừng ngăn cấm chúng, vì nước Đức Chúa Trời là của những người trở nên giống như trẻ con. Quả thật Ta nói cho chúng con hay rằng: ai chẳng nhận lấy nước Thiên Chúa như một đứa trẻ thì chẳng được vào đó bao giờ. Ngài lại bồng ẵm những trẻ đó, đặt tay trên chúng và chúc phúc lành cho” (Mc X, 13-16). Do đó không ai còn lấy làm lạ khi thấy Giáo Hội thừa kế tinh thần của Chúa Kitô đã gieo rắc khắp nơi nhiều hình thức khác nhau trong công cuộc giáo dục và bảo vệ hài nhi.

c. Thánh Phaolô, sau khi đã khuyên bảo con cái phải vâng lời cha mẹ, có thêm rằng: “Hỡi những bậc làm cha mẹ, các người không nên thúc đẩy con cái các người đến sự giận dữ (nghĩa là đừng răn dậy con cái một cách qúa khắt khe, hoặc một cách vô lý), nhưng các người hãy giáo dục chúng trong kỷ thuật và trong lời giáo huấn của Chúa” (Ep. VI, 4).

Nếu trẻ em đã có phẩm giá cao trọng thì việc giáo dục chúng phải được kể là một trong những chức vụ cao qúi nhất, là một trong những việc làm đáng công hơn cả.

Một số người sẽ lấy làm bỡ ngỡ và tự hỏi rằng: Tại sao Chúa Cứu thế đã sống một đời ẩn dật trong 30 năm tại Nazareth? Tại sao Ngài không dùng những thời giờ đó vào những công việc khác ích lợi hơn?

Nhưng giờ đây chúng ta đã khám phá ra những lý do khôn ngoan trong quãng đời ẩn dật đó, Chúa Cứu thế đã sống một quãng đời mai danh ẩn tích lâu dài như thế ngoài nhiều mục đích cao cả khác, còn nhằm mục tiêu cải tạo gia đình, do việc đề cao giá trị của Hôn nhân, địa vị phụ nữ và nhi đồng.

Chúng ta phải tỏ lòng tri ân đối với Chúa Cứu thế vì bằng vào sự hy sinh của đời sống thầm lặng đó, Ngài đã ban xuống cho gia đình biết bao ân phúc, những ân phúc đó lại gián tiếp ảnh hưởng đến toàn thể xã hội loài người, vì gia đình là tế bào đầu tiên của xã hội.