Tấm lòng bác ái của Sơ Mai Thị Mậu

Hàng năm, cứ đến ngày 8 tháng 3 là ngày Quốc Tế Phụ Nữ, được thế giới dành để vinh danh cho chị em phụ nữ chúng ta. Trong chương trình đặc biệt nhân dịp ngày Quốc Tế Phụ Nữ 8-3 năm nay, Phương Anh xin dành để giới thiệu đến quí vị một nữ tu, vừa được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Anh Hùng Lao Động.

Có thể nói đây là lần đầu tiên, một vị tu hành được nhà nước phong tặng danh hiệu rất cao quí này. Người đó chính là sơ Mai Thị Mậu, thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ái Thánh Vinh Sơn.

Thưa quí vị và các bạn, vào năm 1941, ở xã Hải An, Hải Hậu, Nam Định, một bé gái ra đời…Lớn lên, trong sự giáo dục của cha mẹ và với lòng từ tâm vô bờ bến, cô quyết định nguyện suốt đời phục vụ cho người nghèo khổ bất hạnh và trở thành nữ tu Tu Hội Bác Ái Thánh Vinh Sơn. Năm 1968, người nữ tu trẻ tuổi này tình nguyện đến trại phong cùi Di Linh. Lúc bấy giờ, Sơ Mai Thị Mậu vừa tròn 27 tuổi.

Trại phong cùi Di Linh

Vào năm 1973, khi cha Cassaigne, người sáng lập làng phong cùi này qua đời vì bị lây bệnh, người nữ tu trẻ tuổi này quyết định xin ở lại trại cùi vĩnh viễn để được tiếp tục săn sóc cho các bệnh nhân. Nơi rừng thiêng nước độc và hẻo lánh, cả làng phong cùi chỉ có đôi ba nữ tu phục vụ, chẳng một ai ngó ngàng đến. Sơ kể lại:

“Lúc đó, đối với mọi người ai cũng sợ hết, những người phong họ cho ở riêng một chỗ, chứ không ở chung trong gia đình. Ví dụ như nhà của họ, cách mấy chục thước thì họ làm cho cái nhà để mà ở. Thời đó ai cũng sợ lắm, không có ai dám bước đến trại phong, không ai giúp đỡ…Chỉ ngoài những nữ tu phục vụ thì ở đó thôi. Cũng không có bệnh viện nào nhận hết, chỉ có một bệnh viện Chợ Quán, có hai chục giường là để riêng cho người bị bệnh phong, cần nằm thì cho nằm thôi…Còn ngoài ra, tất cả các bệnh viện khác, không có ai nhận người phong hết, vì họ quá sợ…Thành ra, trong trại, các nữ tu theo nghề nghiệp của mình phải lo cho họ, tất cả mọi thứ, ngoài bệnh phong ra, phải tìm mọi cách để mà lo cho họ... ”

Lúc đó, đối với mọi người ai cũng sợ hết, những người phong họ cho ở riêng một chỗ, chứ không ở chung trong gia đình. Ví dụ như nhà của họ, cách mấy chục thước thì họ làm cho cái nhà để mà ở. Thời đó ai cũng sợ lắm, không có ai dám bước đến trại phong, không ai giúp đỡ…

Sơ Mai Thị Mậu kể lại

Là một y tá, Sơ Mậu chịu trách nhiệm trực tiếp điều trị cho bệnh nhân. Bà nói: “Tay chân họ bị mất ngón, cụt, có thể nói là họ bị rụt, tức là nó nhỏ xíu lại, còn cong thì nó co lại, không kéo ra được..vi trùng này nó làm hại đến dây thần kinh trên mặt, trên tay…làm cho miệng méo, mắt không nhắm được, mũi thì sập cái sống mũi…bệnh này để lại tàn phế, bàn chân, bàn tay cứ bị co rụt cho nên bây giờ còn tồn tại là vì phải nuôi những người bị tàn phế, chân tay họ còn lở loét, mình còn phải chăm sóc họ.”

Nâng đỡ tinh thần của bệnh nhân

Không những chỉ chăm sóc về thể xác, mà Sơ còn tìm cách nâng đỡ tinh thần của họ. Đa số những bệnh nhân khi đến trại đều bị gia đình bỏ rơi, hàng xóm láng giềng ghẻ lạnh…Sơ cho hay:

“Ngày xưa, họ ở theo tập thể gia đình, cứ mỗi một cái nhà bằng gỗ, 12 thước, chia ra, những người độc thân thì chung với nhau, 2, 3 người chung một phòng, rất là thiếu tiện nghi. Lúc đó, cũng ít người có gia đình, vì những người vợ, hay chồng bị phong bị bỏ, thì vô trại, còn những vợ hay chồng không bị phong thì họ ở lại làng…đương nhiên là người ta sẽ lấy chồng khác, vợ khác. Khi họ vào đây thì họ lại lấy nhau làm thành một gia đình khác…Con cái theo mẹ, nếu sinh con ở đây thì con cái thuộc về đây luôn…”

Được hỏi làm thế nào để tránh cho con cái của bệnh nhân không bị nhiễm vi khuẩn phong? Sơ cho biết: lúc đầu, cách ly con ngay khi lọt lòng mẹ. Thế nhưng, vì điều kiện vật chất quá thiếu thốn nên khi tách con sớm như thế thì hay bị chết non.

Do đó, Sơ Mậu quyết định để hẳn trong trại phong nhưng cách ly sinh hoạt, cho ăn uống và ngủ riêng. Nhờ vậy, sự lây lan cũng đỡ dần. Với quyết tâm xây dựng tương lai cho các con của bệnh nhân được học hành đến nơi đến chốn, Sơ Mậu tìm mọi cách thuyết phục các trường học thu nhận các em này. Sơ kể lại: “Hồi đầu tiên họ nhất định không cho học, nhưng sau này, khi họ biết các cháu ở riêng, và phải có giấy xác nhận là chúng nó không có bệnh thì họ mới cho học…Các em đi học từ mẫu giáo đến cấp ba, em nào đi học đại học thì cho nó đi học ở thành phố HCM hay ngoài Huế, theo các ngành nghề khác nhau…

Những em học về ngành Y thì tụi nó trở về đây giúp, còn các ngành khác thì mình xin việc cho chúng nó làm như đi dậy học ở trường của tỉnh, còn kỹ sư thì chúng nó tự xin công việc ở thành phố hay các tỉnh…

Nhưng nếu mình cần, thì cũng kêu các em về và cũng trả lương cho các em, thí dụ như em nào là kỹ sư nông nghiệp, mình có đất sản xuất, chăn nuôi, thì phải nhờ nó, thì mình cũng trả lương để các em về làm cho mình…Còn các em y, bác sĩ, thì nhà nước họ trả tiền lương…”

Hồi đầu tiên họ nhất định không cho học, nhưng sau này, khi họ biết các cháu ở riêng, và phải có giấy xác nhận là chúng nó không có bệnh thì họ mới cho học…Các em đi học từ mẫu giáo đến cấp ba, em nào đi học đại học thì cho nó đi học ở thành phố HCM hay ngoài Huế, theo các ngành nghề khác nhau…

Làng phục hồi

Để giúp cho gia đình của các bệnh nhân tự lập và hoà nhập vào cộng đồng, Sơ Mậu nảy ra sáng kiến lập làng phục hồi. Cũng nhờ ngày xưa, trước năm 1975, với sự hỗ trợ của nhà Dòng và các ân nhân, Sơ mua được một miếng đất hoang vu, cách trại chừng 12 km, và đưa những người còn có khả năng làm việc về nơi ấy sinh sống và khai khẩn đất hoang, Sơ nói: “Những người đó đã sạch vi trùng, tuy họ tàn phế, nhưng họ đã hết vi khuẩn rồi, cùng với con em của họ về đấy để làm thành một làng luôn, để họ hoà đồng vào xã hội…Tất cả những ai còn sức lao động, hay tàn phế vừa vừa thì mình chuyển họ lên đó, vì họ ở quá lâu trong này, không còn đất đai, nhà cửa nữa…nên nhờ có miếng đất đó họ làm ăn…

Sau này, mình tập cho họ tự lo liệu lấy với hết khả năng của họ, rồi thiếu tới đâu, mình lo tới đó…mình tập cho họ không trở thành gánh nặng cho xã hội nữa…Thí dụ mình khoẻ mạnh thì mình làm được 90%, thì họ làm được 40%....”

Cũng theo lời Sơ Mậu, hầu hết kinh phí để lo cho đời sống của bệnh nhân và con cái của họ là do các nữ tu tự xoay sở lấy. Trước kia, trại có sự hỗ trợ của nhà dòng và các ân nhân cùng bạn bè của cha Cassaigne. Sau năm 1975, nhà nước bắt đầu quản lý, thì:

“Nhà nước quản lý thì được 5 ký gạo, và 5000 ngàn cho mỗi bệnh nhân….Sau đó, cứ lên dần, 20 ngàn, 50 ngàn…rồi 100 ngàn…bắt đầu năm nay thì được hai trăm ngàn một người…Bây giờ ở Việt Nam cũng nhờ có phong trào làm việc xã hội, nên họ cũng rủ nhau, qua những đoàn đi tham quan Đà Lạt, hoặc là thăm chuà, bên Công Giáo là các ngày lễ lớn, hay tết, thì người ta cũng rủ nhau đến tặng quà cho bệnh nhân…mỗi chỗ họ cho một ít.”

Sau 38 năm làm việc tại trại phong Di Linh, giờ đây, nhìn lại những gì đã trải qua, Sơ tâm sự: “Trong một khu vực mà chẳng một ai dám đến, nên đỡ đẻ cũng mình, nhổ răng cũng mình, chăm sóc cũng mình, chôn cất cũng mình, rồi lo ăn uống cũng mình…rồi lo nhà cửa cho họ… như một người mẹ lo cho các con vậy. Thật ra thì mình cũng có lý tưởng của mình rồi, không có sợ gì cả, giống như những người họ dấn thân vào bệnh Sida, nếu người ta sợ, người ta đâu có dấn thân lo cho Sida.

Mình tận hiến để lo cho họ, những anh em nghèo khổ, đó là mục đích của mình…chăm sóc cho họ về thể xác và lo cho họ về tinh thần, dậy dỗ, giáo dục cho các em về nhân bản, sống thành một người công dân tốt trong xã hội và có thể đưa họ đến đời sống thánh thiện nữa. Mình phục vụ cho họ là vô vị lợi, chứ cũng chẳng cho gia đình mình…”


Tấm lòng của người mẹ

Nữ hộ sinh kiêm điều dưỡng Ka Siuh, năm nay 31 tuổi, hiện đang làm việc tại khu điều trị thì nói: “Em sinh ra và lớn lên trong trại cùi này luôn…Dì Mậu như là người mẹ của tụi em vậy, dì săn sóc tụi em từ khi mới sinh ra cho đến khi lớn lên, học hành và lo cho tụi em đến khi thành tài.”

Anh Krung, năm nay 42 tuổi cho biết: “Tôi là người dân tộc. Tôi sống ở được 6 năm rồi, vô đây được các dì giúp đỡ. Từ ngày tôi mắc bệnh, tôi bất mãn và chán chường lắm. Từ khi tôi vô trại, được sự giúp đỡ, tôi cũng bớt mặc cảm đi.

Tôi sống rất thoải mái và hạnh phúc. Trong một thời gian điều trị thì tôi hết bệnh…được sơ đào tạo cho một nghề sửa xe. Tôi thấy sơ Mậu như một người mẹ tốt, đã tận tình giúp tôi trong những ngày tôi đau ốm.”

Bác Đinh Văn Cung, người đã sống trong trại 40 năm qua, hiện có hai con đang theo học Đại Học Y Dược ở TPHCM, đã phát biểu:

“Trong gần 40 năm, dì đã yêu thương, tận tình chăm sóc chúng tôi và làm cho cuộc sống của chúng tôi được hạnh phúc và tràn đầy niềm vui, những điều mà tưởng rằng chúng tôi không bao giờ có được nữa khi chúng tôi phải chịu nỗi bất hạnh của bệnh phong cùi…

Dì đã cho con cái của chúng tôi một tương lai tươi sáng khi lo lắng, giúp đỡ, khích lệ từng đưá con của chúng tôi nỗ lực học tập để hoà nhập vào cộng đồng…”

Rất bản lĩnh

Còn với Sơ Tiến, người đã làm việc trong trại 22 năm qua bên cạnh Sơ Mậu. Chứng kiến bao sự thăng trầm và gian nan vất vả của Sơ Mậu, thì chia xẻ: “Sơ Mậu là một người rất có bản lĩnh trong vấn đề phục vụ…giống như những người kinh doanh để làm giầu, bà bạo gan, bà dám nói, dám làm, bà rất táo bạo trong những công việc để phục vụ cho các bệnh nhân chứ không phải cho cá nhân bà…Nhờ đó, mà cho đến ngày hôm nay, các bệnh nhân và con em của bệnh nhân mới có được như ngày hôm nay.”

Thưa quí vị, vừa rồi là câu chuyện về Sơ Mai thị Mậu, người đã hy sinh và tận hiến cả cuộc đời mình ở trại cùi Di Linh, Lâm Đồng. Với tâm nguyện phần nào chăm sóc và xoa dịu những nỗi bất hạnh của những người bệnh phong cùi, với quyết tâm đem lại cho đời sống và con cái của họ được có một tương lai tốt đẹp, Sơ đã kiên trì vượt qua bao gian khổ, cùng chia xẻ bao mồ hôi và nước mắt với bệnh nhân, để ngày nay họ được hưởng một cuộc sống tươi sáng hơn.

Cảm phục thay sự can đảm và hy sinh của bà ! Phương Anh xin dừng nơi đây. Hẹn gặp lại quí vị trong chương trình kỳ sau.