Ông Đức là sỹ quan dưới chế độ cộng hòa ở VN. Ông có một bà vợ thật đẹp và năm đứa con tuyệt vời. Ông làm chủ hai căn nhà ở Sài gòn. Ông hưởng thụ địa vị cao trong xã hội, có uy tín trong quân đội và tương đối giàu có.Ông là người chồng và người cha vui vẻ. Ông đã thành công trong cuộc sống và không còn mơ ước gì khác hơn nữa là tiến thân trong binh nghiệp.
Và ngày 30-4-1975 đã đến. Cuộc sống ông Đức hoàn toàn thay đổi. Ba tháng sau khi cộng sản chiếm Sài gòn, ông Đức bị bắt và phải đi học tập cải tạo. Ông phải chịu những công việc vất vả, học cải tạo, bị đói và cô đơn. Gia đình không được phép đi thăm. Ông bị đưa ra miền Bắc xa xôi, gần biên giới Tàu và bị giam giữ ở đó 13 năm.
Hai năm sau ông bị bắt, bà vợ ông đi lấy người khác. Các con ông tản mác khắp nơi. Cha mẹ và anh em ông đã ở hải ngoại. Công an đã tịch thu hai căn nhà của ông.
Ông Đức đã mất tất cả ! Khi ra khỏi tù, ông biết đi về đâu. Ông nói với chính mình : ‘‘Tôi đã trơ trụi như khi sinh ra’’. Điều làm ông đau khổ nhất là ông không còn ai chờ đón và vui mừng ngày trở về của ông. Ông thật cô đơn và cô độc. Ông mang một nỗi khổ sâu đậm trong tâm hồn.
Một ngày kia trên phố Sài gòn, ông gặp một trong những người bạn cũ của ông.
-Ồ, ngạc nhiên biết bao khi gặp lại anh. Mời anh đến nhà chơi. Họ đã về nhà bằng lối khác nhau. Và người bạn nói cho ông biết, người con gái út của ông hiện cũng đang ở Sài gòn, nhưng đã làm đám cưới với một cán bộ cộng sản.
- Cô ấy bây giờ là cộng sản rồi, đó là lý do tại sao cô không đi thăm anh lúc anh ở tù.
Ông Đức đến thăm con gái. Cô đón tiếp ông lễ phép nhưng không vui. Cuộc gặp gỡ đầy bão tố. Sau một lúc, cô đứng dậy và nói với ông :
- Mười ba năm cải tạo không thay đổi được tư tưởng sai lầm của ba sao ? Tôi không còn một điểm nào chung với ba được nữa. Cô ta bỏ ra đi !
Ông Đức dường như một xác chết. Chính lúc này, ông hiểu sâu xa thảm cảnh và sự cô đơn của ông tận đáy lòng. Ông đã thất bại không những như người chiến sỹ, như người chồng, nhưng còn là người cha nữa. Sự cô độc của ông còn bi đát hơn ông nghĩ :
- Tôi không còn gia đình nữa : cả con tôi cũng từ bỏ tôi. Chẳng những tôi không còn gì nữa mà ngay cả chính tôi, tôi cũng không có. Vậy tôi sống làm gì nữa ? Cuộc đời của tôi vô nghĩa ! Ông đã nghĩ đến việc tự tử.
Nhưng một người bà con xa cho tiền ông vượt biên với điều kiện ông đem theo Linh, một người con trai 15 tuổicủa họ. Ông Đức do dự. Đi ra nước ngoài có lợi ích gì ? Tôi có tìm lại được tinh thần và sức mạnh để bắt đầu một cuộc sống mới không ?
Cuối cùng ông chấp nhận vì muốn nói cho thế giới thế nào là sự tồi tệ của người công sản. Ông đã lên tàu với Linh và 20 người khác. Nhưng thảm kịch lại đến với ông nữa. Hải tặc tấn công chiếc tàu của ông. Cướp tất cả mọi sự, hãm hiếp phụ nữ, và sau đó đánh chìm chiếc tàu và Linh chết đuối. Chỉ còn ông Đức và vài người khác nữa còn sống sót, và đến Thái Lan. Hiện giờ ông Đức đang ở trong một trại Thái Lan.
Tinh thần ông Đức sa sút. Ông cảm thấy có tội về cái chết của Linh. Ông tức giận Trời Phật. Tại sao lại tàn bạo với ông như thế ? Tại sao cho những thảm kịch đau khổ liên tục xảy ra với ông ? Tại sao tước đoạt tôi khỏi mọi sự và mọi người ? Có rất nhiều người giàu và hạnh phúc. Tại sao tôi mất gia đình rồi lại cắt giảm những thứ khác nữa ? Đây là sự bất công khủng khiếp ! Con người không thể sống cô độc trơ trọi một mình.
Từ khi ra tù, ông Đức chưa bao giờ đặt chân đến chùa. Rồi đêm vọng Giáng Sinh ông Đức đến nhà thờ như bao người khác. Ông nghe một đoạn trong bài đọc, tác động lòng ông : ‘‘Ngài đã đến từ giàu sang và trở nên nghèo hèn’’.
- Giống tôi ! Ông Đức tự nói.
Những bài thánh ca Giáng Sinh đã gợi lại cho ông nhiều kỷ niệm lai láng. Đã nhiều lần, mặc dù ông là Phật giáo, nhưng ông đã tham dự lễ Giáng Sinh với vợ con ông. Bây giờ chỉ có một mình ông.
Không kiềm chế cơn xúc động, ông ngồi xuống gốc cây và bắt đầu khóc. Trên đường về lều, trong bóng tối của những con đường trong trại ông gặp một cậu bé đang ngồi khóc.
- Cháu đang làm gì ở đây ?
- Cháu nhớ ba mẹ cháu.
- Cháu ở đâu ?
- Cháu vừa mới đến đây. Hai chị của cháu bị hải tặc bắt cóc rồi... Cháu muốn trở về nhà...
- Đi với bác.
Ông Đức đưa cậu bé về ở chung trại bằng tre của ông và ông lấy cho cậu môt tô cơm nóng. Sáng hôm sau, ông đến văn phòng Liên Hiệp Quốc và chùa xin quần áo và thực phẩm cho cậu bé. Những tuần kế tiếp ông đã đi tìm những bé trai và gái đi một mình về chăm sóc.
Từ đêm Giáng Sinh đó, dường như ông Đức tìm lại cuộc sống mới, một ý nghĩa mới trong đời sống mới. Trước hết ông quên dần nỗi buồn, cô đơn hiu quạnh của ông. Và ngược lại, ông cảm thấy một niềm vui mới, một niềm vui thật sâu xa mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm ngay cả với vợ ông. Và ông cảm thấy tràn đầy vui thỏa trong tâm hồn như ông là con người khác.
Ông tự hỏi : tại sao tôi có niềm vui này, tại sao tôi thấy cuộc đời tôi có nghĩa ? Dần dần ông đã hiểu. Con người có giá trị như tình yêu, lòng vô vị lợi, sự hỗ tương và phục vụ, tình huynh đệ và tự do nội tâm... mới xây dựng nhân cách chúng ta. Chứ không phải sự nghiệp, tiền bạc, danh vọng, đời sống gia đình.
Lỗi lầm trong quá khứ của ông là sống cho chính ông, cho sự nghiệp cho hạnh phúc giàu sang. Ông đã bị mất tất cả và dẫn đưa ông đến sống cho người khác, thực hành giá trị nhân cách con người. Ông đã tìm thấy đó là nguồn sức của sự sống, của niềm vui và là ý nghĩa của cuộc đời.
ÐỒNG HÀNH, CA
số 2, 2003, tr.10-13.
Và ngày 30-4-1975 đã đến. Cuộc sống ông Đức hoàn toàn thay đổi. Ba tháng sau khi cộng sản chiếm Sài gòn, ông Đức bị bắt và phải đi học tập cải tạo. Ông phải chịu những công việc vất vả, học cải tạo, bị đói và cô đơn. Gia đình không được phép đi thăm. Ông bị đưa ra miền Bắc xa xôi, gần biên giới Tàu và bị giam giữ ở đó 13 năm.
Hai năm sau ông bị bắt, bà vợ ông đi lấy người khác. Các con ông tản mác khắp nơi. Cha mẹ và anh em ông đã ở hải ngoại. Công an đã tịch thu hai căn nhà của ông.
Ông Đức đã mất tất cả ! Khi ra khỏi tù, ông biết đi về đâu. Ông nói với chính mình : ‘‘Tôi đã trơ trụi như khi sinh ra’’. Điều làm ông đau khổ nhất là ông không còn ai chờ đón và vui mừng ngày trở về của ông. Ông thật cô đơn và cô độc. Ông mang một nỗi khổ sâu đậm trong tâm hồn.
Một ngày kia trên phố Sài gòn, ông gặp một trong những người bạn cũ của ông.
-Ồ, ngạc nhiên biết bao khi gặp lại anh. Mời anh đến nhà chơi. Họ đã về nhà bằng lối khác nhau. Và người bạn nói cho ông biết, người con gái út của ông hiện cũng đang ở Sài gòn, nhưng đã làm đám cưới với một cán bộ cộng sản.
- Cô ấy bây giờ là cộng sản rồi, đó là lý do tại sao cô không đi thăm anh lúc anh ở tù.
Ông Đức đến thăm con gái. Cô đón tiếp ông lễ phép nhưng không vui. Cuộc gặp gỡ đầy bão tố. Sau một lúc, cô đứng dậy và nói với ông :
- Mười ba năm cải tạo không thay đổi được tư tưởng sai lầm của ba sao ? Tôi không còn một điểm nào chung với ba được nữa. Cô ta bỏ ra đi !
Ông Đức dường như một xác chết. Chính lúc này, ông hiểu sâu xa thảm cảnh và sự cô đơn của ông tận đáy lòng. Ông đã thất bại không những như người chiến sỹ, như người chồng, nhưng còn là người cha nữa. Sự cô độc của ông còn bi đát hơn ông nghĩ :
- Tôi không còn gia đình nữa : cả con tôi cũng từ bỏ tôi. Chẳng những tôi không còn gì nữa mà ngay cả chính tôi, tôi cũng không có. Vậy tôi sống làm gì nữa ? Cuộc đời của tôi vô nghĩa ! Ông đã nghĩ đến việc tự tử.
Nhưng một người bà con xa cho tiền ông vượt biên với điều kiện ông đem theo Linh, một người con trai 15 tuổicủa họ. Ông Đức do dự. Đi ra nước ngoài có lợi ích gì ? Tôi có tìm lại được tinh thần và sức mạnh để bắt đầu một cuộc sống mới không ?
Cuối cùng ông chấp nhận vì muốn nói cho thế giới thế nào là sự tồi tệ của người công sản. Ông đã lên tàu với Linh và 20 người khác. Nhưng thảm kịch lại đến với ông nữa. Hải tặc tấn công chiếc tàu của ông. Cướp tất cả mọi sự, hãm hiếp phụ nữ, và sau đó đánh chìm chiếc tàu và Linh chết đuối. Chỉ còn ông Đức và vài người khác nữa còn sống sót, và đến Thái Lan. Hiện giờ ông Đức đang ở trong một trại Thái Lan.
Tinh thần ông Đức sa sút. Ông cảm thấy có tội về cái chết của Linh. Ông tức giận Trời Phật. Tại sao lại tàn bạo với ông như thế ? Tại sao cho những thảm kịch đau khổ liên tục xảy ra với ông ? Tại sao tước đoạt tôi khỏi mọi sự và mọi người ? Có rất nhiều người giàu và hạnh phúc. Tại sao tôi mất gia đình rồi lại cắt giảm những thứ khác nữa ? Đây là sự bất công khủng khiếp ! Con người không thể sống cô độc trơ trọi một mình.
Từ khi ra tù, ông Đức chưa bao giờ đặt chân đến chùa. Rồi đêm vọng Giáng Sinh ông Đức đến nhà thờ như bao người khác. Ông nghe một đoạn trong bài đọc, tác động lòng ông : ‘‘Ngài đã đến từ giàu sang và trở nên nghèo hèn’’.
- Giống tôi ! Ông Đức tự nói.
Những bài thánh ca Giáng Sinh đã gợi lại cho ông nhiều kỷ niệm lai láng. Đã nhiều lần, mặc dù ông là Phật giáo, nhưng ông đã tham dự lễ Giáng Sinh với vợ con ông. Bây giờ chỉ có một mình ông.
Không kiềm chế cơn xúc động, ông ngồi xuống gốc cây và bắt đầu khóc. Trên đường về lều, trong bóng tối của những con đường trong trại ông gặp một cậu bé đang ngồi khóc.
- Cháu đang làm gì ở đây ?
- Cháu nhớ ba mẹ cháu.
- Cháu ở đâu ?
- Cháu vừa mới đến đây. Hai chị của cháu bị hải tặc bắt cóc rồi... Cháu muốn trở về nhà...
- Đi với bác.
Ông Đức đưa cậu bé về ở chung trại bằng tre của ông và ông lấy cho cậu môt tô cơm nóng. Sáng hôm sau, ông đến văn phòng Liên Hiệp Quốc và chùa xin quần áo và thực phẩm cho cậu bé. Những tuần kế tiếp ông đã đi tìm những bé trai và gái đi một mình về chăm sóc.
Từ đêm Giáng Sinh đó, dường như ông Đức tìm lại cuộc sống mới, một ý nghĩa mới trong đời sống mới. Trước hết ông quên dần nỗi buồn, cô đơn hiu quạnh của ông. Và ngược lại, ông cảm thấy một niềm vui mới, một niềm vui thật sâu xa mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm ngay cả với vợ ông. Và ông cảm thấy tràn đầy vui thỏa trong tâm hồn như ông là con người khác.
Ông tự hỏi : tại sao tôi có niềm vui này, tại sao tôi thấy cuộc đời tôi có nghĩa ? Dần dần ông đã hiểu. Con người có giá trị như tình yêu, lòng vô vị lợi, sự hỗ tương và phục vụ, tình huynh đệ và tự do nội tâm... mới xây dựng nhân cách chúng ta. Chứ không phải sự nghiệp, tiền bạc, danh vọng, đời sống gia đình.
Lỗi lầm trong quá khứ của ông là sống cho chính ông, cho sự nghiệp cho hạnh phúc giàu sang. Ông đã bị mất tất cả và dẫn đưa ông đến sống cho người khác, thực hành giá trị nhân cách con người. Ông đã tìm thấy đó là nguồn sức của sự sống, của niềm vui và là ý nghĩa của cuộc đời.
ÐỒNG HÀNH, CA
số 2, 2003, tr.10-13.