Tại Sao Đức Giêsu Bị Giết?
Lm Nguyễn Trung Tây
Cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là những sự kiện nền tảng, mang ý nghĩa sâu sắc về thần học, lịch sử và xã hội. Tuy nhiên, một câu hỏi thường được đặt ra, đâu là nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu?
Theo như Marcus Borg và John Crossan, Chúa Giêsu bị kết án tử không chỉ vì lý do tôn giáo mà còn vì những chỉ trích mạnh mẽ giai cấp lãnh đạo trong Đền Thờ, những kẻ chuyên nghiệp trong việc áp bức và bóc lột người nghèo. Nhiều thần học gia khác nhấn mạnh rằng, lời rao giảng về Nước Trời và tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa, đã khiến các nhà lãnh đạo La Mã và Do Thái coi Người là một mối đe dọa tới nền an ninh của Đế chế La Mã đương thời và tôn giáo Do Thái.
Sứ Vụ của Đức Giêsu
Đức Giêsu đến trần gian để loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Điều này bao gồm những nét căn bản sau đây:
– Thiên Chúa là cội nguồn của Tình Yêu. Ngài yêu thương thế gian vô điều kiện. Bởi thế Ngài gửi Người Con xuống trần gian, không phải để luận phạt, nhưng để cứu độ thế giới (Jn 3:16, 17).
– Trong hơn ba năm sứ vụ, qua giáo lý và hành động, Đức Giêsu trình bày một cách cụ thể nét đặc thù của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa của người nghèo (Lk 4:16-20). Bởi thế Đức Giêsu luôn luôn đứng về phía người nghèo, người bị gạt ra bên lề xã hội, người mất tiếng nói. Đồng thời Ngài cũng lên án những hành vi giả hình của giới lãnh đạo tôn giáo, những người thường xuyên bóc lột và đàn áp người nghèo trong xã hội.
– Đức Giêsu thách thức cung cách thờ phượng Thiên Chúa qua phương tiện vật chất mang nét giả hình, hoặc lợi dụng danh thánh cho những lợi ích kinh tế. Bởi thế, khi tiến vào Đền Thờ, Ngài đánh đổ bàn đổi tiền (Mc 11:15-18), một hành động mạnh mẽ phản đối việc biến nơi thờ phượng thành trung tâm kinh tế bóc lột.
– Giáo lý của Ngài nhấn mạnh đến cốt lõi của phục vụ và tình yêu. Bởi thế, Ngài đảo lộn quan niệm về quyền lực khi tuyên bố: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26). Và chính Ngài thực hiện điều này ngay trong bữa Tiệc Ly.
Những điều cốt lõi vừa tóm gọn ở trên đã đặt Đức Giêsu vào thế đối đầu với hai nhóm quyền lực trong xã hội thời đó, các nhà lãnh đạo Do Thái và chính quyền bảo hộ La Mã. Các nhà thượng tế và lãnh đạo Do Thái cảm thấy bị đe dọa bởi giáo lý của Đức Giêsu. Về phía chính quyền La Mã, họ e ngại Đức Giêsu có khả năng kích động một cuộc nổi dậy.
Khi hiểu những điều cốt lõi này, độc giả Kinh Thnh sẽ nhận ra cuộc khổ nạn của Ngài không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, mà là hệ quả tất yếu của việc sống với và liên tục rao giảng Sự Thật.
Trình Tự Tuần Thương Khó
Nếu Đức Giêsu chọn lựa chỉ sinh hoạt với sứ vụ rao giảng Tin Mừng ở Galilê và vùng phụ cận, Ngài sẽ không đối diện với án tử, bởi Galilê là vùng đất của Ngài. Giới lãnh đạo của Galilê, cả La Mã và Do Thái đều quen biết Ngài, nhờ Ngài can thiệp khi cần. Thí dụ, viên sĩ quan La Mã đến gặp Ngài để cầu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho người đầy tớ (Lk 7:1-10, Mt 8:5-13), hay viên thủ lãnh Hội Đường Do Thái Jairus cũng đến gặp Đức Giêsu xin Ngài chữa bệnh cho cô con gái (Mk 5:21-24, 35-43, Lk 8:40-42, 49-56).
Người Do Thái ở Galilê rất nhiệt tình ủng hộ Đức Giêsu. Sau khi Ngài làm phép lạ hóa 5 ổ bánh mì và 2 con cá ra nhiều nuôi sống đám đông 5 ngàn người đàn ông, chưa tính phụ nữ và trẻ em, đám đông khi đó muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua (Jn 6:1-15; Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17). Bởi ảnh hưởng của Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do Thái ở Galilê cũng như từ kinh thành Giêrusalem nhiều lần đi theo Ngài tìm cách hãm hại Ngài (Mk 3:6, Jn 7:1, Jn 11:53). Nhưng điều này bất khả thi bởi cả hai, giới lãnh đạo và dân chúng Galilê đều ủng hộ Đức Giêsu.
Nhưng nếu Đức Giêsu rời bỏ khu vực Galilê, đi xuống kinh thành Giêrusalem, Ngài sẽ phải đối đầu với giới lãnh đạo Do Thái, bởi giáo lý và cách hành xử của Đức Giêsu đối với bộ luật Do Thái (Mt 23:1-36, Mk 7:1-13, Lk 11:37-54, Jn 8:31-59). Và đúng như vậy, sau khi Đức Giêsu đi vào kinh thành Giêrusalem ngày Chúa Nhật, chỉ trong vòng 6 ngày ngắn ngủi, sau những sinh hoạt sứ vụ tại đây, Ngài vác thập giá lên đồi Golgotha.
– Chúa Nhật Lễ Lá: Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem trong sự hoan hô của dân chúng (Mt 21:1-11, Mk 11:1-11, Lk 19:28-40, Jn 12:12-19).
– Thứ Hai tới Thứ Tư: Ngài tiếp tục giảng dạy và vạch trần bất công trong Đền Thờ (Mt 21:12-17, Mk 11:15-19, Lk 19:45-48).
– Thứ Năm Tuần Thánh: Ngài tổ chức Bữa Tiệc Ly với các môn đệ (Mt 26:17-30, Mk 14:12-26, Lk 22:7-38, Jn 13:1-30).
– Đêm Thứ Năm: Bị Giuđa phản bội, Đức Giêsu bị bắt tại Vườn Cây Dầu và đưa ra xét xử (Mt 26:47-56, Mk 14:43-50, Lk 22:47-53, Jn 18:1-11).
– Sáng Thứ Sáu: Quan Philatô kết án tử hình Đức Giêsu dưới áp lực của giới lãnh đạo Do Thái (Mt 27:11-26, Mk 15:1-15, Lk 23:1-25, Jn 18:28-40).
– Trưa Thứ Sáu: Đức Giêsu chịu thọ hình, bị đóng đinh (Mt 27:32-44, Mk 15:21-32, Lk 23:26-43, Jn 19:17-27).
– 3 giờ chiều Thứ Sáu: Ngài trút hơi thở trên thập giá (Mt 27:45-50, Mk 15:33-37, Lk 23:44-46; Jn 19:28-30).
Dưới góc độ tôn giáo, xã hội, lịch sử, án tử của Chúa Giêsu có thể được xem là kết quả của ba lý do chính yếu.
(1). Lý do Tôn giáo: Ngài bị coi là kẻ phạm thượng vì tuyên bố là Con Thiên Chúa (Mt 26:63-65, Mk 14:61-64, Lk 22:66-71, Jn 10:30-33).
(2). Lý do Chính trị: Ngài bị cáo buộc muốn xưng vương, đe dọa chính sách bảo hộ của đế chế La Mã trên vùng đất Do Thái (Lk 23:1-5, Jn 19:12-15).
(3). Lý do Xã hội: Ngài đứng về phía những người bị áp bức. Điều này gây mất lòng giới thượng lưu. Đức Giêsu trở nên cái gai trong con mắt của giới lãnh đạo (Lk 4:18-30, Mt 9:10-13, Mk 2:15-17).
Và thế là Đức Giêsu vác thánh giá, bị đóng đinh, và nhắm mắt chết đi vào lúc 3 giờ chiều.
Nhưng thật là bất ngờ! Cái chết của Ngài vào buổi chiều ngày thứ Sáu hôm đó không phải là dấu chấm hết, nhưng lại là một khởi đầu (Mt 28:1-10, Mk 16:1-8, Lk 24:1-12, Jn 20:1-18).
Ý Nghĩa Phục Sinh
Câu tuyên bố nổi tiếng của Đức Giêsu: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Jn 8:32) không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng trong nhiều lãnh vực, mà còn thể hiện rõ ràng Sứ Vụ của Ngài. Đó là, giới thiệu Sự Thật của và về Thiên Chúa đến trần gian, dù phải đối diện với cái chết.
Khi Thiên Chúa phục sinh Đức Giêsu từ trong cõi chết, Ngài xác nhận giáo lý giảng dạy của Đức Giêsu là Sự Thật. Và Sự Thật đã giải thoát Đức Giêsu trong ngôi mộ đá khỏi Thần Chết. Bắt đầu từ Đức Giêsu, vòng quay thường nhật của trần gian, sinh, bệnh, lão, tử dừng lại vòng quay thường tình từ những ngày đầu tiên của nhân loại. Từ Đức Giêsu, vòng quay luân hồi không còn luân hồi, nhưng đi thẳng một đường thẳng: Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh.
Bởi thế, ý nghĩa quan trọng nhất của biến cố phục sinh có liên quan đến ước mơ về một đời sống vĩnh hằng của con người. Phân tích dưới lăng kính thần học, phục sinh của Đức Giêsu là phục sinh cấu thành (constitutive resurrection). Nói một cách khác, phục sinh của Đức Giêsu là một biến cố đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Bởi Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết, sự chết không còn quyền năng trên Ngài nữa. Bởi phục sinh cấu thành của Đức Giêsu, bất cứ ai có niềm tin vào Đức Giêsu, người đó cũng sẽ được sống lại như Ngài.
Trong lá thư thứ nhất gửi công đoàn Côrintô, Phaolô đã đề cập đến nét phục sinh cấu thành này. Đối với Phaolô, biến cố phục sinh của Đức Giêsu là hoa trái đầu tiên hứa hẹn nhiều hoa trái khác xuất hiện trên cây Phục sinh. Vì vậy, Phaolô đã viết, “Nhưng thật ra, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, hoa trái đầu mùa của những kẻ đã chết” (1Cor 15:20). Do đó, những ai tin vào Đức Giêsu Kitô và sự phục sinh của Ngài cũng sẽ được sống lại vào ngày sau hết.
Khởi đầu từ biến cố Phục Sinh đầu tiên, nhân loại không còn phải đối mặt với cụm từ nhị phân, “một thời để sinh ra và một thời để chết,” nhưng, “một thời để sinh ra và một thời để phục sinh.” Tin vui này là tin vui nhất cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, dù đã chết, chôn trong mồ, người Kitô hữu cũng sẽ được sống lại như Ngài vào ngày sau hết.
Do đó, khi hát vang, “Alleluia, Ngài đã sống lại,” thật sự ra tín hữu Kitô cũng đang hát vang cho một kỷ nguyên mới của chính họ, “Alleluia! Chúng ta sẽ được phục sinh vào ngày sau hết.”□
Lm Nguyễn Trung Tây
Cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là những sự kiện nền tảng, mang ý nghĩa sâu sắc về thần học, lịch sử và xã hội. Tuy nhiên, một câu hỏi thường được đặt ra, đâu là nguyên nhân đã dẫn đến cái chết của Đức Giêsu?
Theo như Marcus Borg và John Crossan, Chúa Giêsu bị kết án tử không chỉ vì lý do tôn giáo mà còn vì những chỉ trích mạnh mẽ giai cấp lãnh đạo trong Đền Thờ, những kẻ chuyên nghiệp trong việc áp bức và bóc lột người nghèo. Nhiều thần học gia khác nhấn mạnh rằng, lời rao giảng về Nước Trời và tuyên bố Ngài là Con Thiên Chúa, đã khiến các nhà lãnh đạo La Mã và Do Thái coi Người là một mối đe dọa tới nền an ninh của Đế chế La Mã đương thời và tôn giáo Do Thái.
Sứ Vụ của Đức Giêsu
Đức Giêsu đến trần gian để loan báo Tin Mừng về Nước Trời. Điều này bao gồm những nét căn bản sau đây:
– Thiên Chúa là cội nguồn của Tình Yêu. Ngài yêu thương thế gian vô điều kiện. Bởi thế Ngài gửi Người Con xuống trần gian, không phải để luận phạt, nhưng để cứu độ thế giới (Jn 3:16, 17).
– Trong hơn ba năm sứ vụ, qua giáo lý và hành động, Đức Giêsu trình bày một cách cụ thể nét đặc thù của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa của người nghèo (Lk 4:16-20). Bởi thế Đức Giêsu luôn luôn đứng về phía người nghèo, người bị gạt ra bên lề xã hội, người mất tiếng nói. Đồng thời Ngài cũng lên án những hành vi giả hình của giới lãnh đạo tôn giáo, những người thường xuyên bóc lột và đàn áp người nghèo trong xã hội.
– Đức Giêsu thách thức cung cách thờ phượng Thiên Chúa qua phương tiện vật chất mang nét giả hình, hoặc lợi dụng danh thánh cho những lợi ích kinh tế. Bởi thế, khi tiến vào Đền Thờ, Ngài đánh đổ bàn đổi tiền (Mc 11:15-18), một hành động mạnh mẽ phản đối việc biến nơi thờ phượng thành trung tâm kinh tế bóc lột.
– Giáo lý của Ngài nhấn mạnh đến cốt lõi của phục vụ và tình yêu. Bởi thế, Ngài đảo lộn quan niệm về quyền lực khi tuyên bố: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em” (Mt 20:26). Và chính Ngài thực hiện điều này ngay trong bữa Tiệc Ly.
Những điều cốt lõi vừa tóm gọn ở trên đã đặt Đức Giêsu vào thế đối đầu với hai nhóm quyền lực trong xã hội thời đó, các nhà lãnh đạo Do Thái và chính quyền bảo hộ La Mã. Các nhà thượng tế và lãnh đạo Do Thái cảm thấy bị đe dọa bởi giáo lý của Đức Giêsu. Về phía chính quyền La Mã, họ e ngại Đức Giêsu có khả năng kích động một cuộc nổi dậy.
Khi hiểu những điều cốt lõi này, độc giả Kinh Thnh sẽ nhận ra cuộc khổ nạn của Ngài không phải là một sự kiện ngẫu nhiên, mà là hệ quả tất yếu của việc sống với và liên tục rao giảng Sự Thật.
Trình Tự Tuần Thương Khó
Nếu Đức Giêsu chọn lựa chỉ sinh hoạt với sứ vụ rao giảng Tin Mừng ở Galilê và vùng phụ cận, Ngài sẽ không đối diện với án tử, bởi Galilê là vùng đất của Ngài. Giới lãnh đạo của Galilê, cả La Mã và Do Thái đều quen biết Ngài, nhờ Ngài can thiệp khi cần. Thí dụ, viên sĩ quan La Mã đến gặp Ngài để cầu xin Đức Giêsu chữa bệnh cho người đầy tớ (Lk 7:1-10, Mt 8:5-13), hay viên thủ lãnh Hội Đường Do Thái Jairus cũng đến gặp Đức Giêsu xin Ngài chữa bệnh cho cô con gái (Mk 5:21-24, 35-43, Lk 8:40-42, 49-56).
Người Do Thái ở Galilê rất nhiệt tình ủng hộ Đức Giêsu. Sau khi Ngài làm phép lạ hóa 5 ổ bánh mì và 2 con cá ra nhiều nuôi sống đám đông 5 ngàn người đàn ông, chưa tính phụ nữ và trẻ em, đám đông khi đó muốn tôn phong Đức Giêsu làm vua (Jn 6:1-15; Mt 14:13-21, Mk 6:30-44, Lk 9:10-17). Bởi ảnh hưởng của Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do Thái ở Galilê cũng như từ kinh thành Giêrusalem nhiều lần đi theo Ngài tìm cách hãm hại Ngài (Mk 3:6, Jn 7:1, Jn 11:53). Nhưng điều này bất khả thi bởi cả hai, giới lãnh đạo và dân chúng Galilê đều ủng hộ Đức Giêsu.
Nhưng nếu Đức Giêsu rời bỏ khu vực Galilê, đi xuống kinh thành Giêrusalem, Ngài sẽ phải đối đầu với giới lãnh đạo Do Thái, bởi giáo lý và cách hành xử của Đức Giêsu đối với bộ luật Do Thái (Mt 23:1-36, Mk 7:1-13, Lk 11:37-54, Jn 8:31-59). Và đúng như vậy, sau khi Đức Giêsu đi vào kinh thành Giêrusalem ngày Chúa Nhật, chỉ trong vòng 6 ngày ngắn ngủi, sau những sinh hoạt sứ vụ tại đây, Ngài vác thập giá lên đồi Golgotha.
– Chúa Nhật Lễ Lá: Đức Giêsu tiến vào Giêrusalem trong sự hoan hô của dân chúng (Mt 21:1-11, Mk 11:1-11, Lk 19:28-40, Jn 12:12-19).
– Thứ Hai tới Thứ Tư: Ngài tiếp tục giảng dạy và vạch trần bất công trong Đền Thờ (Mt 21:12-17, Mk 11:15-19, Lk 19:45-48).
– Thứ Năm Tuần Thánh: Ngài tổ chức Bữa Tiệc Ly với các môn đệ (Mt 26:17-30, Mk 14:12-26, Lk 22:7-38, Jn 13:1-30).
– Đêm Thứ Năm: Bị Giuđa phản bội, Đức Giêsu bị bắt tại Vườn Cây Dầu và đưa ra xét xử (Mt 26:47-56, Mk 14:43-50, Lk 22:47-53, Jn 18:1-11).
– Sáng Thứ Sáu: Quan Philatô kết án tử hình Đức Giêsu dưới áp lực của giới lãnh đạo Do Thái (Mt 27:11-26, Mk 15:1-15, Lk 23:1-25, Jn 18:28-40).
– Trưa Thứ Sáu: Đức Giêsu chịu thọ hình, bị đóng đinh (Mt 27:32-44, Mk 15:21-32, Lk 23:26-43, Jn 19:17-27).
– 3 giờ chiều Thứ Sáu: Ngài trút hơi thở trên thập giá (Mt 27:45-50, Mk 15:33-37, Lk 23:44-46; Jn 19:28-30).
Dưới góc độ tôn giáo, xã hội, lịch sử, án tử của Chúa Giêsu có thể được xem là kết quả của ba lý do chính yếu.
(1). Lý do Tôn giáo: Ngài bị coi là kẻ phạm thượng vì tuyên bố là Con Thiên Chúa (Mt 26:63-65, Mk 14:61-64, Lk 22:66-71, Jn 10:30-33).
(2). Lý do Chính trị: Ngài bị cáo buộc muốn xưng vương, đe dọa chính sách bảo hộ của đế chế La Mã trên vùng đất Do Thái (Lk 23:1-5, Jn 19:12-15).
(3). Lý do Xã hội: Ngài đứng về phía những người bị áp bức. Điều này gây mất lòng giới thượng lưu. Đức Giêsu trở nên cái gai trong con mắt của giới lãnh đạo (Lk 4:18-30, Mt 9:10-13, Mk 2:15-17).
Và thế là Đức Giêsu vác thánh giá, bị đóng đinh, và nhắm mắt chết đi vào lúc 3 giờ chiều.
Nhưng thật là bất ngờ! Cái chết của Ngài vào buổi chiều ngày thứ Sáu hôm đó không phải là dấu chấm hết, nhưng lại là một khởi đầu (Mt 28:1-10, Mk 16:1-8, Lk 24:1-12, Jn 20:1-18).
Ý Nghĩa Phục Sinh
Câu tuyên bố nổi tiếng của Đức Giêsu: “Sự thật sẽ giải thoát anh em” (Jn 8:32) không chỉ mang ý nghĩa thiêng liêng trong nhiều lãnh vực, mà còn thể hiện rõ ràng Sứ Vụ của Ngài. Đó là, giới thiệu Sự Thật của và về Thiên Chúa đến trần gian, dù phải đối diện với cái chết.
Khi Thiên Chúa phục sinh Đức Giêsu từ trong cõi chết, Ngài xác nhận giáo lý giảng dạy của Đức Giêsu là Sự Thật. Và Sự Thật đã giải thoát Đức Giêsu trong ngôi mộ đá khỏi Thần Chết. Bắt đầu từ Đức Giêsu, vòng quay thường nhật của trần gian, sinh, bệnh, lão, tử dừng lại vòng quay thường tình từ những ngày đầu tiên của nhân loại. Từ Đức Giêsu, vòng quay luân hồi không còn luân hồi, nhưng đi thẳng một đường thẳng: Sinh, Bệnh, Lão, Tử, và Phục Sinh.
Bởi thế, ý nghĩa quan trọng nhất của biến cố phục sinh có liên quan đến ước mơ về một đời sống vĩnh hằng của con người. Phân tích dưới lăng kính thần học, phục sinh của Đức Giêsu là phục sinh cấu thành (constitutive resurrection). Nói một cách khác, phục sinh của Đức Giêsu là một biến cố đã mở ra một kỷ nguyên mới cho nhân loại. Bởi Đức Giêsu đã sống lại từ trong cõi chết, sự chết không còn quyền năng trên Ngài nữa. Bởi phục sinh cấu thành của Đức Giêsu, bất cứ ai có niềm tin vào Đức Giêsu, người đó cũng sẽ được sống lại như Ngài.
Trong lá thư thứ nhất gửi công đoàn Côrintô, Phaolô đã đề cập đến nét phục sinh cấu thành này. Đối với Phaolô, biến cố phục sinh của Đức Giêsu là hoa trái đầu tiên hứa hẹn nhiều hoa trái khác xuất hiện trên cây Phục sinh. Vì vậy, Phaolô đã viết, “Nhưng thật ra, Đấng Christ đã từ kẻ chết sống lại, hoa trái đầu mùa của những kẻ đã chết” (1Cor 15:20). Do đó, những ai tin vào Đức Giêsu Kitô và sự phục sinh của Ngài cũng sẽ được sống lại vào ngày sau hết.
Khởi đầu từ biến cố Phục Sinh đầu tiên, nhân loại không còn phải đối mặt với cụm từ nhị phân, “một thời để sinh ra và một thời để chết,” nhưng, “một thời để sinh ra và một thời để phục sinh.” Tin vui này là tin vui nhất cho tất cả những người tin vào Đức Giêsu Phục Sinh. Vì tin vào Đức Giêsu Kitô, dù đã chết, chôn trong mồ, người Kitô hữu cũng sẽ được sống lại như Ngài vào ngày sau hết.
Do đó, khi hát vang, “Alleluia, Ngài đã sống lại,” thật sự ra tín hữu Kitô cũng đang hát vang cho một kỷ nguyên mới của chính họ, “Alleluia! Chúng ta sẽ được phục sinh vào ngày sau hết.”□