Lúc 9h30 sáng Thứ Năm Tuần Thánh, 6 Tháng Tư, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự Thánh Lễ Truyền Dầu, trong đó hơn 1.880 linh mục, giám mục và Hồng Y đã lập lại những lời hứa khi chịu chức linh mục.

Nguyên bản tiếng Ý bài giảng của ngài có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.

“Thần Khí Chúa ngự trên tôi” ( Lc 4:18). Chúa Giêsu bắt đầu rao giảng bằng câu này, cũng là câu bắt đầu bài đọc một ngày hôm nay (x. Is 61:1). Như thế, ngay từ đầu, Thánh Linh của Chúa đã hiện diện.

Anh em linh mục thân mến, hôm nay tôi muốn cùng anh em suy tư về Chúa Thánh Thần. Vì không có Thần Khí của Chúa thì không thể có đời sống Kitô hữu; không có sự xức dầu của Ngài thì không thể có sự thánh khiết. Ngài ở trung tâm và điều thích hợp là hôm nay, vào ngày sinh nhật của chức linh mục, chúng ta ghi nhận sự hiện diện của Ngài ngay từ đầu thừa tác vụ của chúng ta, cũng như trong cuộc sống và sức sống của mỗi linh mục. Mẹ Giáo Hội dạy chúng ta tuyên xưng Chúa Thánh Thần là “Đấng ban sự sống”. [1] Chúa Giêsu nói với chúng ta: “Chính Thần Khí làm cho sống “ ( Ga 6:63). Giáo huấn của Ngài đã được Tông Đồ Phaolô tiếp tục. Thánh nhân đã viết rằng “văn tự giết chết, nhưng Thánh Linh làm cho sống” (2 Cr 3:6) và là người đã nói về “luật của Thần Linh sự sống trong Chúa Giêsu Kitô” (Rôma 8: 2). Nếu không có Chúa Thánh Thần, Giáo hội sẽ không phải là Hiền thê sống động của Chúa Kitô, mà cùng lắm chỉ là một hiệp hội tôn giáo. Không phải là Thân thể của Chúa Kitô, mà là một ngôi đền do bàn tay con người xây dựng. Vậy làm sao chúng ta lại có thể xây dựng Giáo hội, nếu không bắt đầu từ sự kiện chúng ta là “đền thờ của Chúa Thánh Thần”, Đấng “ngự trong chúng ta” (x. 1 Cr 6:19; 3:16)? Chúng ta không thể khóa Thánh Linh không cho vào nhà chúng ta, hoặc nhốt Ngài trong một khu vực sùng đạo nào đó. Mỗi ngày chúng ta cần nói: “Thánh Thần xin ngự đến, vì không có sức mạnh của Ngài, chúng con sẽ lạc lối”. [2]

Thần Khí Chúa ngự trên tôi. Mỗi người chúng ta đều có thể nói điều này, không phải do tự phụ mà là một thực tế. Mọi Kitô hữu, và đặc biệt là các linh mục, đều có thể áp dụng cho mình những lời sau đây: “vì Chúa đã xức dầu cho tôi” ( Is 61:1). Anh em thân mến, không phải vì công trạng của chúng ta, nhưng hoàn toàn nhờ ân sủng, chúng ta đã lãnh nhận một phép xức dầu khiến chúng ta trở thành những người cha và những mục tử giữa Dân thánh của Thiên Chúa. Vậy thì chúng ta hãy suy nghĩ về khía cạnh này của Thánh Linh: sự xức dầu của Ngài.

Sau khi đã xức dầu lần đầu cho Ngài, diễn ra trong cung lòng Đức Maria, Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giêsu ở sông Giođan. Sau đó, như Thánh Basilô giải thích, “mọi hành động của Chúa Kitô được thực hiện với sự đồng hiện diện của Chúa Thánh Thần”. [3] Trong quyền năng của sự xức dầu này, Chúa Giêsu rao giảng và làm các dấu lạ; nhờ việc xức dầu ấy, “có một sức mạnh phát ra từ Người và chữa lành mọi người” ( Lc 6:19). Chúa Giêsu và Thánh Thần luôn cộng tác với nhau, như hai bàn tay của Chúa Cha [4] dang ra ôm lấy chúng ta và nâng chúng ta lên. Bằng những bàn tay đó, bàn tay của chính chúng ta đã được đóng ấn, được xức dầu bởi Thánh Linh của Chúa Kitô. Vâng, thưa anh em, Chúa không những đã chọn và kêu gọi chúng ta: Người đã đổ xuống trên chúng ta sự xức dầu của Chúa Thánh Thần, cũng chính là Thần Khí đã ngự xuống trên các tông đồ.

Bây giờ chúng ta hãy chú ý đến các ngài, đến các tông đồ. Chúa Giêsu đã chọn các ngài và theo tiếng gọi của Người, các ngài đã bỏ thuyền, bỏ lưới và bỏ nhà cửa. Sự xức dầu của Ngôi Lời đã thay đổi cuộc đời các ngài. Với lòng nhiệt thành cao độ, các ngài đi theo Thầy và bắt đầu thuyết giảng, tin chắc rằng các ngài sẽ tiếp tục hoàn thành những điều vĩ đại hơn nữa. Rồi đến Lễ Vượt Qua. Mọi thứ dường như dừng lại: thậm chí các môn đệ còn chối bỏ và bỏ rơi Thầy mình. Các ngài đã hiểu rõ về thất bại của chính mình; các ngài nhận ra rằng các ngài đã không hiểu Chúa Giêsu. Những lời mà Phêrô đã thốt ra trong sân của vị thượng tế sau Bữa Tiệc Ly – “Tôi không biết người này” ( Mc 14:71) – không chỉ là một nỗ lực bốc đồng để tự vệ, mà còn là một sự thú nhận về sự thiếu hiểu biết thiêng liêng. Có lẽ Thánh Phêrô và những người khác mong đợi một cuộc đời vinh quang đằng sau Đấng Mêsia, Đấng đã thu hút đám đông và làm nên những điều kỳ diệu, nhưng các Tông đồ không hiểu được tai tiếng của thập tự giá, là điều đã khiến những xác tín của các ngài sụp đổ. Chúa Giêsu biết rằng các môn đệ sẽ không thành công nếu chỉ tự làm một mình, nên Ngài hứa sẽ gửi Đấng Phù Trợ đến cho các môn đệ. Chính “việc xức dầu lần thứ hai” vào Lễ Hiện Xuống đã thay đổi các môn đệ và dẫn các ngài đến việc chăn dắt không còn là chính họ mà là đoàn chiên của Chúa. Chính sự xức dầu đó bằng lửa đã dập tắt một “lòng mộ đạo” tập trung vào bản thân và khả năng của chính họ. Sau khi nhận được Thánh Thần, nỗi sợ hãi và dao động của Phêrô tiêu tan; Giacôbê và Gioan, với khát khao hiến dâng mạng sống cháy bỏng, đã không còn tìm kiếm những nơi danh giá (x. Mc 10,35-45); những người khác từng sợ hãi rúc vào Phòng Tiệc Ly, đã đi vào thế giới với tư cách là Tông Đồ.

Anh em thân mến, một điều tương tự cũng xảy ra trong đời sống linh mục và tông đồ của chúng ta. Chúng ta cũng đã trải qua sự xức dầu ban đầu, bắt đầu bằng một tiếng gọi yêu thương làm say đắm trái tim chúng ta và đưa chúng ta lên đường; quyền năng của Chúa Thánh Thần ngự xuống trên lòng nhiệt thành chân chính của chúng ta và thánh hiến chúng ta. Sau đó, vào thời điểm tốt lành của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta đều trải qua Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thời điểm của chân lý. Một thời kỳ khủng hoảng dưới nhiều hình thức khác nhau. Sớm hay muộn, tất cả chúng ta đều trải qua sự thất vọng, ngã lòng và sự yếu đuối của chính mình; lý tưởng của chúng ta dường như thụt lùi khi đối mặt với thực tế, một sức mạnh nào đó của thói quen lấn át, và những khó khăn tưởng chừng như không thể tưởng tượng nổi dường như thách thức lòng chung thủy của chúng ta. Đối với những người được xức dầu, giai đoạn này là một bước ngoặt. Chúng ta có thể thoát khỏi nó một cách tồi tệ, trôi dạt về phía tầm thường và ổn định với một thói quen buồn tẻ, trong đó ba cám dỗ nguy hiểm có thể nảy sinh. Đó là sự cám dỗ của thỏa hiệp, khi chúng ta hài lòng chỉ làm những gì phải làm; sự cám dỗ của những điều thay thế, khi để tìm thấy sự hài lòng, chúng ta không tìm kiếm sự xức dầu của mình, mà ở nơi khác; và sự cám dỗ của sự chán nản, nơi sự không hài lòng dẫn đến sức ì. Đây là mối nguy hiểm lớn: trong khi những hình thức bên ngoài vẫn còn nguyên vẹn, chúng ta khép mình lại và bằng lòng với việc sống qua ngày. Hương thơm của sự xức dầu không còn phảng phất trong cuộc sống của chúng ta nữa; trái tim của chúng ta không còn mở rộng nữa mà teo lại, vỡ mộng và mất hy vọng.

Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng này cũng có khả năng trở thành một bước ngoặt trong chức linh mục của chúng ta, là “giai đoạn quyết định của đời sống thiêng liêng, trong đó sự lựa chọn cuối cùng phải được thực hiện giữa Chúa Giêsu và thế gian, giữa bác ái anh hùng và sự tầm thường, giữa thập giá và sự an ủi, giữa sự thánh thiện và lòng trung tín nhiệm nhặt với các nghĩa vụ tôn giáo của chúng ta”. [5] Đó là thời điểm tràn đầy ân sủng khi, giống như các môn đệ trong lễ Phục sinh, chúng ta được mời gọi “đủ khiêm tốn để thừa nhận rằng chúng ta đã được Chúa Kitô chịu khổ nạn và đóng đinh chinh phục, và bắt đầu một hành trình mới, của Thần Khí, của niềm tin và của một tình yêu mạnh mẽ nhưng không ảo tưởng”. [6] Chính kairos hay thời thuận tiện này giúp chúng ta nhận ra rằng “bỏ thuyền bỏ lưới để đi theo Chúa Giêsu trong một thời gian là chưa đủ; điều đó cũng đòi phải lên đồi Canvê, học bài học của thập giá và lãnh nhận hoa trái của nó, và kiên trì với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần cho đến cuối cuộc đời nhằm đạt tới sự hoàn hảo của đức ái thần linh”. [7] Với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần: đối với chúng ta cũng như đối với các tông đồ, đây là thời điểm “xức dầu lần thứ hai”, trong đó Thần Khí không còn được tuôn đổ trên sự nhiệt thành của những hy vọng và ước mơ của chúng ta, nhưng trên sự tự do của tình huống cụ thể của chúng ta. Một sự xức dầu thâm nhập vào chiều sâu thực tại của chúng ta, nơi Chúa Thánh Thần xức dầu cho những yếu đuối, mệt mỏi, nghèo nàn nội tâm của chúng ta. Một sự xức dầu mang lại một hương thơm mới: hương thơm của Thánh Linh, không phải của chúng ta.

Điều này xảy ra khi chúng ta thừa nhận thực tế về sự yếu kém của chính mình. Đó là điều “Thần Khí sự thật ( Ga 16:13) bảo chúng ta làm; Ngài thúc giục chúng ta nhìn sâu vào bên trong và hỏi: Sự thành đạt của tôi có phụ thuộc vào khả năng, vị trí của tôi, những lời khen tôi nhận được, sự thăng tiến của tôi, sự tôn trọng của cấp trên hoặc đồng nghiệp, những tiện nghi mà tôi có xung quanh mình hay không? Hay trên sự xức dầu tỏa hương khắp nơi trong đời tôi? Anh em thân mến, sự trưởng thành của linh mục đến từ Chúa Thánh Thần và đạt được khi Thánh Linh Thiên Chúa trở thành nhân vật chính trong cuộc đời chúng ta. Một khi điều đó xảy ra, mọi thứ sẽ thay đổi, ngay cả những thất vọng và kinh nghiệm cay đắng, vì chúng ta không còn cố gắng tìm kiếm hạnh phúc bằng cách điều chỉnh các chi tiết, nhưng bằng cách dâng mình hoàn toàn cho Chúa, Đấng đã xức dầu cho chúng ta và là Đấng muốn sự xức dầu đó thấm vào tận những chiều sâu hiện sinh của chúng ta. Chúng ta khám phá ra rằng đời sống thiêng liêng trở nên tự do và hân hoan, một khi chúng ta không còn quan tâm đến việc giữ gìn hình thức bên ngoài và sửa đổi nhanh chóng, mà để Chúa Thánh Thần chủ động và cởi mở với các kế hoạch của Ngài, cho thấy chúng ta sẵn sàng phục vụ mọi lúc mọi nơi được yêu cầu. Chức linh mục của chúng ta không phát triển nhờ những sửa chữa nhanh chóng nhưng nhờ ân sủng tràn đầy!

Nếu chúng ta cho phép Thần Chân lý hành động bên trong mình, chúng ta sẽ bảo toàn được sự xức dầu của Ngài, bởi vì những điều sai sự thật khác nhau mà chúng ta bị cám dỗ sống theo sẽ bị đưa ra ánh sáng. Và Thần Khí, Đấng “thanh tẩy những gì ô uế”, sẽ không mệt mỏi đề nghị chúng ta “đừng làm ô uế sự xức dầu của chúng ta”, dù chỉ một chút. Chúng ta hãy nghĩ đến câu nói trong sách Giảng Viên nói rằng “Một con ruồi chết làm thối cả bình dầu thơm” (10:1). Đúng là mọi hình thức lừa dối tự nó đều nguy hiểm: không được dung thứ cho nó, nhưng phải đưa nó ra ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Vì “Không gì nham hiểm và bất trị như lòng người, ai dò thấu được?” ( Giêrêmia 17:9). Chúa Thánh Thần, chỉ một mình Người, chữa lành những sự bất trung của chúng ta (x. Hs 14:4). Đối với chúng ta, đây là một cuộc đấu tranh không thể tránh khỏi: như Thánh Grêgôriô Cả đã viết, điều không thể thiếu là “những người rao giảng lời Chúa, trước hết phải quan tâm đến lối sống của mình; sau đó, dựa trên cuộc sống của chính mình, anh ta có thể học được phải nói gì và nói như thế nào… Đừng ai tự cho mình có thể nói nhiều hơn những gì anh ta nghe thấy trước hết tự bên trong”. [8] Chúa Thánh Thần là vị thầy nội tâm mà chúng ta phải lắng nghe, nhận ra rằng Người muốn xức dầu cho mọi phần của chúng ta. Thưa anh em, chúng ta hãy giữ gìn sự xức dầu của mình, khẩn cầu Thánh Linh không phải như một hành động đạo đức thỉnh thoảng, nhưng như hơi thở của mỗi ngày. Được Thánh Linh thánh hiến, tôi được mời gọi đắm chìm trong Ngài, làm cho cuộc sống của Ngài xuyên qua bóng tối của tôi, để tôi có thể khám phá lại sự thật về con người của tôi. Chúng ta hãy để cho Ngài thúc đẩy chúng ta chiến đấu với những điều không thật đang đấu tranh trong chúng ta. Và chúng ta hãy để cho mình được tái sinh từ Người qua việc tôn thờ, vì khi chúng ta tôn thờ Chúa, Người tuôn đổ Thánh Thần của Người vào lòng chúng ta.

Vì thế lời tiên tri tiếp tục: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi; Ngài đã sai tôi”, để mang lại tin mừng, sự tự do, sự chữa lành và ân sủng (x. Is 61:1-2; Lc 4:1819): tóm lại, mang lại sự hài hòa ở bất cứ nơi nào thiếu vắng. Sau khi nói với anh em về sự xức dầu, tôi muốn nói đôi điều với anh em về sự hài hòa, đó là hệ quả của sự xức dầu. Vì Chúa Thánh Thần là sự hài hòa. Trên hết là ở trên trời: Thánh Basilô lưu ý rằng “tất cả sự hòa hợp siêu nhiên và không thể diễn tả bằng lời trong việc phụng sự Thiên Chúa và trong bản giao hưởng hỗ tương của các sức mạnh siêu vũ trụ, sẽ không thể bảo tồn được, nếu không có uy quyền của Thánh Linh”. [9] Cũng như trên trần gian: trong Giáo hội, Chúa Thánh Thần là “sự hòa hợp thiêng liêng và thánh thót” [10] ràng buộc mọi sự lại với nhau. Ngài đánh thức sự đa dạng của các đoàn sủng và đưa chúng vào sự hiệp nhất; Ngài tạo ra sự hòa hợp không dựa trên sự đồng nhất, mà dựa trên sự sáng tạo của lòng bác ái. Bằng cách này, Ngài tạo ra sự hài hòa từ sự đa dạng. Vào thời Công Đồng Vatican II, vốn là hồng ân của Chúa Thánh Thần, một nhà thần học đã công bố một nghiên cứu trong đó Ngài nói về Chúa Thánh Thần không phải với tư cách cá thể, mà như một số nhiều. Ngài đề nghị nghĩ về Chúa Thánh Thần như một ngôi vị thần linh không chỉ là số ít mà còn là “số nhiều”, như “Chúng ta của Thiên Chúa”, “Chúng ta” của Chúa Cha và Chúa Con, vì Ngài là mối dây liên kết. Chúa Thánh Thần chính Ngài là sự hòa hợp, hiệp thông và hài hòa. [11]

Tạo ra sự hòa hợp là điều mà Thần Khí mong muốn, trên hết là thông qua những người mà Ngài đã xức dầu cho họ. Thưa anh em, việc xây dựng sự hòa hợp giữa chúng ta không chỉ đơn giản là một cách tốt để cải thiện hoạt động của các cơ cấu giáo hội, hay một vấn đề về chiến lược hay phép lịch sự: đó là một đòi hỏi nội tại của đời sống trong Thần Khí. Chúng ta phạm tội chống lại Thần Khí là Đấng hiệp thông bất cứ khi nào chúng ta trở thành công cụ chia rẽ, dù vô tình; và bất cứ khi nào chúng ta chơi trò chơi của kẻ thù, là kẻ không bao giờ công khai, thích ngồi lê đôi mách và nói bóng gió, xúi giục bè phái, khơi dậy hoài niệm về quá khứ, ngờ vực, bi quan và sợ hãi. Xin chúng ta hãy cẩn thận để không làm ô uế sự xức dầu của Chúa Thánh Thần và áo choàng của Mẹ Giáo hội bằng sự chia rẽ, phân cực hoặc thiếu bác ái và hiệp thông. Chúng ta hãy nhớ rằng Thần Khí, với tư cách là “Chúng ta của Thiên Chúa”, thích “hình thức” của cộng đồng hơn: sẵn sàng coi nhẹ các nhu cầu của chính mình, vâng phục bất kể thị hiếu của chính mình, và khiêm tốn đối với yêu sách của chính mình.

Hòa hợp không phải là một đức tính giữa những đức tính khác; nó là một cái gì đó nhiều hơn nữa. Như Thánh Grêgôriô Cả đã viết: “giá trị của nhân đức hòa thuận thể hiện ở chỗ nếu không có nó, các nhân đức khác chẳng có giá trị gì cả”. [12] Hỡi anh em, chúng ta hãy giúp nhau gìn giữ sự hòa hợp, không bắt đầu từ người khác mà bắt đầu từ chính mỗi người chúng ta. Chúng ta hãy tự hỏi: Trong lời nói của tôi, trong nhận xét của tôi, trong điều tôi nói và viết, có dấu ấn của Thần Khí hay dấu ấn của thế gian? Tôi có nghĩ đến lòng tốt của linh mục không: nếu người ta cũng thấy nơi chúng ta những người bất bình và bất mãn, những người chỉ trích và chỉ trỏ lên án, thì họ còn tìm thấy sự hài hòa ở đâu nữa? Có bao nhiêu người không đến gần chúng ta, hoặc giữ khoảng cách, bởi vì trong Giáo hội, họ cảm thấy không được chào đón và không được yêu thương, bị nghi ngờ và bị phán xét? Nhân danh Chúa, chúng ta hãy luôn chào đón và tha thứ! Và chúng ta hãy nhớ rằng cáu kỉnh và đầy phàn nàn không mang lại kết quả tốt mà còn làm hỏng việc giảng dạy của chúng ta, vì đó là một dấu chỉ phản chứng chống lại Thiên Chúa, Đấng là sự hiệp thông trong sự hòa hợp. Trên hết, điều đó làm mất lòng Chúa Thánh Thần, Đấng mà thánh Phaolô khuyên chúng ta đừng làm buồn lòng (x. Eph 4:30).

Anh em thân mến, tôi để lại cho anh em những suy nghĩ sâu đậm trong tim tôi, và tôi kết luận bằng hai từ đơn giản và quan trọng: Cảm ơn anh em. Cảm ơn vì chứng tá và sự phục vụ của anh em. Cảm ơn anh em vì những điều tốt đẹp thầm kín mà anh em làm, cũng như sự tha thứ và an ủi mà anh em mang lại nhân danh Chúa. Cảm ơn vì chức vụ của anh em, thường được thực hiện với nhiều nỗ lực và ít được công nhận. Xin Thần Khí Thiên Chúa, Đấng không làm thất vọng những ai trông cậy vào Người, ban bình an cho anh em và hoàn thành công việc tốt lành Người đã bắt đầu nơi anh em, để anh em trở thành chứng nhân ngôn sứ về việc Người xức dầu, và làm tông đồ của sự hòa hợp.



[1] Kinh Tin Kính Công Đồng Nicê - Constantinople.

[2] Ca Tiếp Liên Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.

[3] De Spiritu Santo, 16, 39.

[4] x. IRENAUS, Adv. haer., IV, 20, 1.

[5] R. VOILLAUME, “La seconda chiamata”, in S. STEVEN, ed. La seconda chiama. Il coraggio della fragilità, Bologna. 2018, 15.

[6] Sđd., 24.

[7] Sđd., 16.

[8] Bài giảng về tiên tri Êzêkien, I, X, 13-14.

[9] De Spiritu Sancto, XVI, 38.

[10] Trong Ps. 29, 1.

[11] Cf. H. MÜHLEN, Der Heilige Gest al Person. Ich-Du-Wir, Münster in W., 1963.

[12] Bài giảng về tiên tri Êzêkien, I, VIII, 8.


Source:Dicastero per la Comunicazione - Libreria Editrice Vaticana