CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH A

DỌN LÒNG ĐÓN NHẬN THÁNH THẦN

(Ga 14, 15-21)

Thưa quý vị,

Sách Tông đồ Công vụ là cuốn Kinh thánh kể lại hoạt động của các Tông đồ sau khi Chúa Giê-su lên trời. Bài đọc I hôm nay cho thấy các hoạt động của Phi-líp-phê, Phê-rô và Gioan tại niềm đất Samaria, ngoài ranh giới Giêrusalem và Giuđêa. Như vậy, rõ ràng cuốn sách mang đúng tên người ta đặt cho. Việc rao giảng Chúa sống lại ở Samaria có phần khác với trong đất thuần Do thái, bởi Samaria vẫn bị người Do thái chính thống coi là không bao giờ được dự phần vào ơn cứu rỗi. Nhưng ba nhà truyền giáo Phi-líp-phê, Phê-rô và Gioan đã chia sẻ với họ ơn Chúa sống lại. Bằng lời nói và hành động, các ông đã làm chứng Chúa Giê-su vẫn còn đang sống và hoạt động cùng với các ông. Thực tế, họ đang làm công việc mà Chúa đã thực hiện trước khi Người chịu đóng đinh. Đó là chữa lành các bệnh tật, cho kẻ chết sống lại, kẻ què đi được, người mù thấy được, xua trừ thần ô uế, cho những kẻ phong cùi được sạch. Tóm lại, các ông thi ân giáng phúc cho những ai bất hạnh trong xã hội như Chúa Giê-su đã từng làm khi Người còn đi lại trên đất Palestin. Bài đọc cố tình bỏ qua chi tiết ông Simon phù thuỷ vì lý do phụng vụ. Chi tiết này quan trọng bởi nó cho thấy tính ngay thẳng, bất vụ lợi trong việc phục vụ Thiên Chúa : “Tiền bạc của anh tiêu tan luôn với anh cho rồi, vì anh tưởng có thể lấy tiền bạc mà mua ân huệ của Thiên Chúa chăng ?”(8, 29) Liệu ngày nay chúng ta có được tinh thần thẳng thắn như Phêrô không ? Hay cũng huờ theo thói tục thế gian, bắt chước Simon phù thuỷ mà cầu cạnh ân huệ Thiên Chúa bằng bổng lộc tiền tài ? Nếu vậy, xin cũng noi gương Simon mà ăn năn sám hối : “Xin hai ông cầu cùng Chúa cho tôi, để không điều nào trong những điều các ông đã nói giáng xuống trên tôi.”

Tuy nhiên, cuốn sách không nguyên tập trung vào các Tông đồ. Chủ tâm chính yếu của thánh Lu-ca là bày tỏ sự hiện diện năng động của Chúa Thánh Thần qua sinh hoạt của các môn đệ Chúa Giê-su. Chúa Thánh Linh làm tăng trưởng Giáo hội một cách ngoạn mục qua các Tông đồ. Vì vậy, thánh nhân luôn lưu tâm ghi nhớ số lượng tín hữu mà Hội thánh gặt hái trong quá trình rao giảng khắp nơi. Sự trở lại của cư dân Samaria chứng tỏ tính phổ quát của Giáo hội Chúa và sứ vụ mà Ngài trao cho Tông đồ đang được thực hiện tốt đẹp. Sứ vụ này kéo dài mãi đến hôm nay và tiếp tục tới tận cùng thời gian. Nó không thuộc về tính quốc gia, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay cấp bậc xã hội. ngược lại, bài đọc cho thấy, bất cứ người nào lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa đều là thành phần của Giáo hội, họ sẽ được Thần khí Chúa Giê-su chấp nhận qua bí tích Rửa tội và Thêm sức. Họ là thành viên đầy đủ của cộng đoàn mới, dân tư tế của Thiên Chúa trong tinh thần và chân lý. Vậy thì, chúng ta hãnh diện và được an ủi khi tham dự các buổi phụng vụ. Vì chúng ta ôm ấp những thứ mà trên thế giới là nhân tố chia rẽ : Cấp bậc xã hội, kỳ thị màu da tiếng nói, giàu nghèo sang hèn, giới tính, tuổi tác, bệnh tật, tài năng, tiếng tăm,.. . Cho nên, chúng ta tự hỏi tình hình thực tế địa phương chúng ta nói lên điều chi ? Có đúng Thần khí Chúa đang tụ họp tín hữu như thời các Tông đồ không ? Câu trả lời là tính cực, khi nhìn vào tính đại đồng của cộng đoàn và những bí tích chúng ta nhận lãnh hằng ngày : Rửa tội, Thêm sức, Chữa lành bệnh nhân, rao giảng, Thánh thể,.. . Như vậy, sách Tông đồ công vụ là phúc âm của Chúa Thánh Thần và mỗi tín hữu chân chính là một sách Tin mừng mở ra, nhờ vào các hoạt động Ngài thực hiện nơi chúng ta. Dân ngoại sẽ nhận biết công việc của Ngài do đời sống Chúa Giê-su được trình bày nơi các tín hữu nhiệt thành. Họ sẽ được chào đón, nhập vào cộng đoàn những “kẻ được rửa tội nhân danh Đức Giê-su Ki-tô.” Nếu không hoặc cảm thấy như thành viên hạng hai thì lúc ấy, chúng ta đã rõ ràng thất bại, không hoạt động với Chúa Thánh Thần giống như Ngài đã thúc đẩy các Tông đồ rao giảng trên đất Samaria. Chúng ta xấu hổ, có lỗi với Hội thánh toàn cầu, phải thật lòng thống hối vì không làm tròn phận sự.

Thơ Phêrô được viết để an ủi giáo dân đang chịu bách hại khủng khiếp thời hoàng đế Domitian. (Thực ra, thánh Phêrô đã lãnh phúc tử đạo ở Rôma năm 64, thơ này viết khoảng năm 80-90 chỉ lấy danh hiệu và uy tín của ngài mà thôi). Nội dung thơ cho hay, đây không phải là cuộc bách hại tổng quát, nhưng chỉ có tính địa phương, do lòng thù ghét riêng tư; nói cách khác, do nếp sống thánh thiện của những kẻ tin vào Chúa Ki-tô, mà thiên hạ ganh ghét họ, đưa ra đàm tiếu và loại trừ. Xin nhớ lời hộ giáo của các thánh giáo phụ : “Nếu mang danh Ki-tô hữu là một tội, thì họ lấy chứng cớ nào mà bắt bớ các tín hữu ?” Hay nói như tác giả thư thánh Phêrô : “Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ngay thẳng trong Chúa Ki-tô thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống ?” Mới đây, tôi có mặt trong một nhóm học hỏi Kinh thánh. Chúng tôi suy tư về đoạn Kinh thánh hôm nay, một thành viên buột miệng phát biểu về chữ “chịu khổ”. Anh nói thao thao bất tận về những thánh giá Chúa gửi cho chúng ta. Trong khi nghe, tôi trộm nghĩ : “Thiên Chúa ghê gớm thật, giáng hoạ trên con người, bắt con người phải chịu khổ.” Có phải đó là những thánh giá mà Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta gánh vác không ? Thơ thánh Phêrô trả lời : “Chúng ta chịu khổ vì việc lành.” Đấy là thứ thánh giá các tín hữu vác hằng ngày để theo Chúa Giê-su. Mến Chúa yêu người, chúng ta phải trả giá. Những ai từ chối thánh giá, tìm kiếm sung sướng xác thịt không chứng minh được mình yêu mến Thiên Chúa. Họ giữ đạo bằng miệng lưỡi và là kẻ giả hình. Chúa chịu thương khó, bởi vì mang trong thận phận mình “gánh tội trần gian”. Nói cách khác, là thành phần nhân loại nên theo pháp lý, Ngài là tội nhân trước mặt Chúa Cha, do đó phải chịu hình phạt của pháp luật. Trái lại, chúng ta tìm cách trốn tránh gian khổ thì làm thế nào xứng đáng làm môn đệ Chúa Giê-su ?

Cho nên, chúng ta chịu khổ vì việc lành, cũng như Chúa Giê-su chịu nạn vì tội lỗi nhân loại. Chúng ta phải sẵn sàng trả lẽ cho hy vọng của mình. Thay vì đối đầu với những sự dữ kẻ thù gây nên, chúng ta dồn tâm lực vào Chúa Giê-su, (Hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong linh hồn anh em) và giãi bày đức tin của mình hiền hoà cung kính, ngõ hầu thiên hạ nhận ra đức tin đó không phải của loài người mà là một ân huệ từ trời cao. Thời buổi ngày nay, các tranh cãi về tôn giáo dễ đưa đến những đổ vỡ, bên trong cũng như bên ngoài, nhiều khi là bạo lực, chiến tranh. Xem bản đồ thế giới, người ta phải rùng mình vì chia rẽ tôn giáo. Có lúc, những người cùng ngồi ghế nhà thờ lại là các đối thủ không đội trời chung vì ý kiến luân lý, đạo đức. Tuy nhiên, thư thánh Phêrô nhắc nhở : “Đấng công chính đã chết cho kẻ bất lương, hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa.” Kẻ bất lương đó chính là nhân loại. Cho nên, chúng ta được hưởng ân huệ hoà giải với Thiên Chúa là do Đức Giê-su Ki-tô.

Hôm nay, chúng ta mừng sự kiện hoà giải trong bí tích Thánh thể. Bí tích đem lại ơn lành đích thực qua hoạt động phá vỡ mọi bức tường ngăn cách của Chúa Thánh Thần. Vừa qua, tôi hân hạnh được một cha xứ lân cận mời giảng tĩnh tâm cho các giáo dân, nhân dịp mùa chay. Khi chờ đợi, tôi đứng nói chuyện với một người đàn ông ở phòng mặc áo. Chúng tôi đứng gần một giỏ đựng rác. Trong giỏ, đầy những tờ rơi dư thừa. Chúng bàn về mọi đề tài tôn giáo và nhiều ít liên quan đến đức tin. Thí dụ, ngừa thai, phá thai, nghiên cứu tế bào gốc, bệnh Alzheimer, đồng tính luyến ái, chết êm dịu, án tử hình, v. v. Chúng tôi bàn bạc sơ qua một vài đề tài. Người đàn ông bốc ra một nắm giấy, đưa tôi xem và nói : “Thưa cha, thời con còn học ở trung học cơ sở làm chi có những chuyện như thế này.” Đúng vậy, nhưng bây giờ, chúng ta phải đối mặt với chúng trong cuộc sống hằng ngày. Người tín hữu không thể tránh né. Ngược lại, nên chấp nhận và bàn bạc với những người khác, bất cứ ai, để làm cho vấn đề được sáng tỏ, nhân loại có một tương lai nhân bản hơn, tươi sáng hơn. Dĩ nhiên, đôi khi có những bế tắc vì bất đồng ý kiến, thí dụ : tránh thai, ngừa thai nhân tạo. Lúc ấy, chúng ta cảm thấy cô đơn vì niềm tin của mình.

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã gần kề. Quý vị có thể đoan chắc như vậy, bởi vì các bài đọc Kinh thánh năng nhắc đến Thần khí Đức Ki-tô và các công việc của Ngài giữa lòng Giáo hội. Tức những việc lạ lùng vượt quá khả năng con người có thể thực hiện. Bài đọc Phúc âm cho chúng ta hay nỗi lo lắng của Chúa Giê-su về số phận của các môn đệ. Liệu sau khi Ngài ra đi, họ còn thương yêu đoàn kết với nhau hay không ? Họ còn can đảm sống những điều Chúa truyền dạy hay không ? Giống như các bậc cha mẹ tốt lành, Ngài thu xếp để họ ý thức sự hiện diện thể lý của Ngài không phải là tối quan trọng. Trái lại, sự có mặt tinh thần, bên trong mỗi tâm hồn, còn quý giá hơn nhiều. Sống thời Tin mừng là điều may mắn, biết Chúa Giê-su theo phần xác thịt là điều hạnh phúc. Nhưng sống thân mật với Chúa Giê-su trong tinh thần còn hệ trọng hơn. Thánh Phaolô cũng phát biểu tương tự : “Vì thế, từ đây chúng tôi không còn biết một ai theo quan điểm loài người. Và cho dù, chúng tôi được biết Đức Ki-tô theo quan điểm loài người, thì giờ đây, chúng tôi không còn biết Người như vậy nữa.”(2 Cr 5, 16) Cho nên, Chúa Giê-su hứa ban Thánh thần xuống trên họ : “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng bảo trợ khác đến ở với anh em luôn mãi.” Nhưng điều kiện để họ nhận được Thánh thần là tuân giữ lời Ngài : “Nếu anh em yêu mến Thầy thì anh em tuân giữ các điều răn của Thầy.” Không hiểu ngày nay còn người tín hữu nào, kể cả tu sĩ, giáo sĩ lưu tâm đến điều kiện của Chúa Giê-su để nhận được Thánh linh ? Người ta năng nói đến Thánh linh, những hành động của Ngài một cách độc lập với lệnh truyền của Chúa Giê-su. Đúng là một sai lầm. Thánh linh chỉ được ban, nếu chúng ta tuân giữ lời Chúa Giê-su. Ngoài ra là một thứ Thánh linh tưởng tượng. Cộng đoàn chúng ta muốn nhận được nhiều Thánh linh, thì điều kiện tiên quyết là tuân giữ giới răn Chúa cho cặn kẽ. Buông lỏng kỷ luật, buông lỏng lệnh Chúa truyền mà mong ước được nhiều Thánh linh là điều vô lý. Điểm thứ hai cần lưu tâm là Chúa Giê-su huấn thị cho các môn đệ tuân giữ “các giới răn của Thầy” chứ không phải của người khác hay giới răn chung chung. Bởi lẽ, trong Do thái giáo, đã có mười điều răn hướng dẫn con cái Israel ăn ở phụng thờ Thiên Chúa. Nhưng lúc này, họ đã trở thành môn đệ Chúa Giê-su, tâm trí họ phải hoàn toàn thuộc về Ngài. Ngài làm chủ tâm trí họ, tức toàn thể con người, cho nên, Ngài đặt một điều kiện : Nếu anh em yêu mến Thầy. Các môn đệ sẽ minh chứng tình yêu đối với Chúa Giê-su bằng một đời sống tuân theo những gì Ngài truyền dạy. Tức sống như Ngài đã sống : yêu thương kẻ thù, làm ơn cho những người ghen ghét, chữa lành bệnh nhân, nâng đờ người nghèo khổ, đón nhận anh em ngoại giáo như bài đọc 1 nói về Phi-líp-phê, Phê-rô và Gioan đón nhận dân cư Samaria, rửa chân và tha thứ cho nhau. Trước tình hình thế giới ngày nay, vấn đề trở nên nhiêu khê, bởi nhân loại không còn đơn sơ, mông muội như trước nữa. Chúng ta không chỉ làm điều thiện nhân danh Chúa Giê-su, mà còn phải với ý chí sắt đá, tinh thần luôn canh tân thì mới có khả năng bền vững trong các giới răn của ngài. Sự sa sút luân lý trên thế giới đòi hỏi nỗ lực vượt bậc để có thể kiên trì trong đường lối của Thiên Chúa. Nếp sống tục hoá trong các giáo xứ, tu hội, tu viện cần một lực đối kháng mạnh mẽ để có thể trở về nguồn, về tinh thần khắc khổ của Chúa Giê-su, vác thánh giá hằng ngày mà theo Chúa.

Cho nên, chúng ta cần Thánh linh giúp đỡ để sống trung thành với Chúa Giê-su. Không ai tự nhận sống sai trệnh đường lối Chúa, nhưng thực tế đa phần tín hữu sống xa hoa, lãng phí, chạy theo những tiện nghi vật chất của thế gian. Rất ít người giữ được tinh thần từ bỏ. Chúa Giê-su gọi Thánh linh là Đấng bảo trợ khác. Cũng như Chúa Giê-su là Đấng bảo trợ thứ nhất, Chúa Thánh Thần sẽ là trạng sư nâng đỡ, ủi an, ban phát công nghiệp của Đấng cứu thế cho toàn thể nhân loại, đặc biệt cho Hội thánh và các môn đệ. Mười năm trước đây, nhiều thanh niên trên đất Hoa kỳ yêu thích đeo băng tay có chữ WWJD = What would Jesus do ? = Ở hoàn cảnh này, Chúa Giê-su sẽ làm gì ? Chúng ta chẳng thể sống lại thời các Tông đồ, cũng không cần nuối tiếc những kỷ niệm họ được cùng Chúa đi lại và hoạt động trên đất Palestine. Chúng ta sẽ được toại nguyện nếu thực thi nội dung băng chữ WWJD gợi ý. Chúng ta sẽ là môn đệ đích thực của Chúa. Ngài chẳng để chúng ta mồ côi : Ngài sẽ sai Thánh thần đến với chúng ta, dạy dỗ, an ủi chúng ta. Vì vậy, xin hãy dọn lòng sốt sắng đón nhận điều chân thật Chúa hứa trong ngày Lễ ngũ tuần. Lúc ấy, chúng ta sẽ thấy rõ : “Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em. Thầy sẽ tỏ mình ra cho anh em.” Như vậy, niềm vui Phục sinh của chúng ta thật trọn vẹn. Amen. Alleluia.