Đánh giá bằng chứng của người khiếu nại
896 Khởi điểm trong việc áp dụng thử nghiệm M, trong trường hợp này, phải là một đánh giá độc lập về tính đáng tin và đáng dựa vào của người khiếu nại [208].
897 Các nhân tố mà bất cứ người thử nghiệm nào về sự kiện, dù là thẩm phán hay bồi thẩm đoàn, thường sẽ tính đến lúc quyết định liệu bằng chứng của một nhân chứng đặc thù có đáng tin và đáng dựa vào hay không, bao gồm: tính nhất quán cố hữu trong trình thuật của nhân chứng; tính nhất quán của trình thuật đó với trình thuật của những nhân chứng khác; tính nhất quán của trình thuật đó với các sự kiện không thể tranh cãi; ‘uy tín’ (credit) của nhân chứng (dựa trên các vấn đề bao gồm, chẳng hạn, cách cư xử); bất cứ sự yếu kém (infirmities) nào của nhân chứng; và quan trọng là độ cái nhiên (probability) hoặc bất cái nhiên cố hữu của bằng chứng đang bàn [209].
898 Khi đánh giá tầm quan trọng phải được dành cho bằng chứng của người khiếu nại trong trường hợp này, phải ghi nhớ rằng, đây là một phiên tòa xử tội xâm phạm tình dục, nên có một số quy tắc đặc biệt chi phối diễn trình tố tụng loại này. Như đã nhấn mạnh trước đây, điều 54D (2) (c) của JDA đòi thẩm phán xét xử hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng 'kinh nghiệm cho thấy' rằng người ta có thể không nhớ tất cả các chi tiết của hành vi phạm tội tình dục, hoặc có thể không mô tả hành vi phạm tội đó giống nhau mỗi lần. Ngoài ra, bồi thẩm đoàn phải được hướng dẫn rằng chấn thương có thể ảnh hưởng đến những người khác nhau theo những cách khác nhau, bao gồm cả khả năng của họ trong việc nhớ các biến cố. Cuối cùng, họ phải được thông báo rằng những người khiếu nại thường đưa ra các trình thuật khác nhau vào các thời điểm khác nhau khi mô tả chi tiết của tội phạm tình dục mà họ cáo buộc đã bị vi phạm.
899 Một lần nữa, tôi lưu ý rằng điều 4A của JDA đòi Tòa án này, trong việc xử lý kháng cáo chống lại sự kết án dựa trên Cơ sở 1, phải 'lý luận' theo cách nhất quán với cách bồi thẩm đoàn đã được chỉ đạo theo điều 54D [ 210]. Tác động của điều 4A đặt ra các câu hỏi khác để Tòa án này giải quyết trong việc thi hành thử nghiệm M.
900 Ông Boyce, trong bản đệ trình khai mạc tại Tòa án này, đã trình bầy lý lẽ công tố một cách vừa cô đọng vừa mạnh mẽ. Ông khẳng định rằng:
... Người khiếu nại là một nhân chứng rất thuyết phục. Rõ ràng Ông không phải là một kẻ nói dối. Ông không phải là một người có óc tưởng tượng. Ông là một nhân chứng của sự thật.
901 Ông Boyce tiếp tục mô tả bằng chứng của người khiếu nại là 'đáng tin cậy, rõ ràng và hoàn toàn có thể tin được'. Ông nói rằng quan điểm này của người khiếu nại là 'được phản ảnh trong phán quyết của bồi thẩm đoàn' [211]. Thật vậy, ông Boyce đã đệ trình rằng bằng chứng của người khiếu nại ‘tăng trưởng về tầm vóc’ trong suốt phiên tòa, khi đối đầu với cuộc đối chất mạnh mẽ.
902 Ông Boyce đã đệ trình rằng chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại, tự mình nó, sẽ chứng minh được lý do tại sao bồi thẩm đoàn đã kết án đương đơn, điều, được ông đệ trình, họ rất có quyền làm.
903 Về vấn đề đó, ông Boyce đã mời Tòa án này xem xét một cách đặc biệt về một cuộc trao đổi xúc động cao độ tại phiên tòa giữa ông Richter và người khiếu nại, kéo dài vài phút. Sự trao đổi đó nảy sinh khi ông Richter thách thức người khiếu nại về lý do tại sao ông ta chưa bao giờ thảo luận với cậu bé kia về hai biến cố.
904 Bối cảnh là người khiếu nại đã được hỏi về bản chất của mối liên hệ của ông ta, vào năm 1996, với cậu bé kia. Ông nói rằng họ đã trở thành bạn thân. Họ đã ngủ ở nhà của nhau. Sau đó, họ vẫn giữ liên lạc, mặc dù họ không còn là ‘những người bạn bền chặt’ như trước nữa.
905 Ông Richter đã thách thức sự thiếu sót của người khiếu nại, không bao giờ thảo luận với cậu bé kia về việc cho là đương đơn đã lạm dụng tình dục cả hai người. Người khiếu nại, rõ ràng trong trạng thái bị kích động, đã trả lời rằng 'đó hoàn toàn là một điều bất thường và là một điều thực sự ... không phù hợp với cách chúng ta đang sống cuộc sống của chúng ta vào thời điểm đó'. Đó là một điều mà các cậu bé đã cố gắng 'thanh lọc' khỏi hệ thống của họ. Đó là một điều mà người khiếu nại ‘... không thể lường được’.
906 Rõ ràng, dòng đối chất này dường như đã gây ra nơi người khiếu nại nhiều buồn khổ [212]. Ông Boyce đệ trình rằng bề ngoài và thái độ cư xử của người khiếu nại, khi trả lời dòng chất vấn này, cho thấy ông ta là một nhân chứng trung thực và đáng dựa vào. Ông đệ trình rằng những khoảnh khắc kịch tính cao trong một phiên tòa loại này cung cấp câu trả lời rõ ràng về lý do tại sao bồi thẩm đoàn đã chấp nhận trình thuật của người khiếu nại, và đặt sang một bên tất cả các bằng chứng khác, những bằng chức dường như đặt nghi ngờ về độ đáng dựa vào của ông [213 ].
907 Ông Walker, trong bản đệ trình trước Tòa án này, đã lập luận rằng một vài phút của chứng từ xúc động cao độ, được đưa ra trong những hoàn cảnh khó có thể được thăm dò, biểu hiện một cơ sở quá mỏng manh để dựa vào đó mà kết án trong một vụ án với rất nhiều điểm yếu hiển nhiên như vậy.
908 Một vấn đề mà ông Boyce đặc biệt dựa vào để hỗ trợ trình thuật của người khiếu nại liên quan đến bằng chứng được đưa ra bởi Thám tử Reed. Ông nói tới kiến thức của người khiếu nại, khi ông ta tiếp cận cảnh sát lần đầu tiên, về cách bố trí chung phòng áo của các Linh mục. Về phương diện này, ông Boyce lưu ý rằng bằng chứng của người khiếu nại, tại phiên tòa, là ông chưa bao giờ có mặt ờ phòng áo của các Linh mục trước ngày xảy ra biến cố đầu tiên, hoặc thực sự kể từ ngày đó. Ông đặt một câu hỏi hoa mỹ, như thế, làm thế nào người khiếu nại có thể có được kiến thức ấy về cách bố trí của phòng áo?
909 Tuy nhiên, như ông Richter đã chỉ ra trong 17 chướng ngại vững chắc của mình đối với bản án, đệ trình đặc thù đó phải được điều chỉnh. Như đã chỉ ra trước đó, người khiếu nại thừa nhận trong cuộc đối chất rằng ngay sau lần đầu tiên tham gia ca đoàn năm 1996, ông ta đã được đưa đi một vòng tham quan Nhà thờ Chính Tòa có hướng dẫn. Ông ta cũng thừa nhận rằng ông ta có thể đã được chỉ cho xem ‘các phòng áo’ trong dịp đó.
910 Bằng chứng của người khiếu nại về điểm này được nêu tại số [836] về những lý do này. Về bản chất, ông ta thừa nhận rằng ông ta có thể đã nhìn thấy phần bên trong phòng áo của các Linh mục khi được đưa đi tham quan Nhà thờ Chính Tòa có tính dẫn nhập. Câu trả lời đó được cho là đã lấy mất ít nhất một số chua chát trong đệ trình của ông Boyce, và cho thấy rằng bản tóm tắt của ông về bằng chứng của người khiếu nại về vấn đề này là không đầy đủ.
911 Lý lẽ viết của đương đơn trước Tòa án này lập luận rằng, ngay cả khi xét bằng chứng của người khiếu nại một cách cô lập, người ta vẫn phải có những lo ngại nghiêm trọng về cả tính đáng tin lẫn tính có thể dựa vào của ông ta.
912 Về phương diện đó, người ta nhớ lại rằng Tòa án Tối cao trong vụ M tuyên bố rằng nếu các bằng chứng đang được xem xét bởi một phiên tòa phúc thẩm có 'sự không nhất quán, cho thấy sự không thỏa đáng, bị hà tì (tainted) hoặc thiếu sức mạnh chứng minh' thì điều này có thể dẫn tòa phúc thẩm kết luận, bất chấp những lợi thế bồi thẩm đoàn thường được hưởng, rằng có khả thể đáng kể là một người vô tội đã bị kết án. Nếu tòa phúc thẩm kết luận như vậy, nó buộc phải hành động và bác bỏ bản án. Ông Walker đệ trình rằng công thức này, được lấy trực tiếp từ vụ M, áp dụng một cách chuyên biệt vào các sự kiện của vụ án hiện tại.
913 Khi đánh giá tầm quan trọng phải được dành cho bằng chứng của người khiếu nại, phải nhớ rằng các biến cố mà mà ông ta nói tới đã được cáo buộc là đã xảy ra hơn 20 năm về trước. Có đệ trình cho rằng sự kiện này, tự nó, phải đặt ra nhiều câu hỏi về tính đáng dựa vào của ký ức nơi ông ta (cũng như ký ức của tất cả những người khác có thể có mặt tại thời điểm liên quan).
914 Rõ ràng, bất cứ người xét xử sự kiện nào phải đánh giá bằng chứng của một nhân chứng đều phải tính đến sự kiện không thể chối cãi rằng ký ức sẽ phai mờ dần theo thời gian. Tất nhiên, điều đó đúng đối với trình thuật của người người khiếu nại. Tuy nhiên, điều cũng đúng sự thật không kém về bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được gọi bởi công tố, những người mà trình thuật có tính gỡ tội trong trường hợp này.
915 Ông Walker đã đệ trình rằng dựa vào một đánh giá hợp tình hợp lý về bằng chứng của người khiếu nại, cả qua việc đọc bản ghi lại lẫn qua việc xem lời khai được ghi lại của ông ta, ông ta đã thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và thực sự tô điểm cho trình thuật mà ban đầu ông đã đưa cho cảnh sát vào năm 2015. Ông đã đệ trình rằng bất cứ khi nào người khiếu nại chịu áp lực đáng kể trong đối chất, ông ta có xu hướng nói lập lờ (prevaricate), và sẽ đưa ra những câu trả lời, trong một số trường hợp, không nhất quán với bằng chứng trước đó của ông ta. Thật vậy, đôi khi, ông đưa ra câu trả lời mà thậm chí ông ta không tin là đúng.
916 Về phương diện đó, ông Walker đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến bằng chứng của người khiếu nại đã phác họa trước đó trong bản tóm tắt của bài thuyết trình bằng PowerPoint của ông Richter trước bồi thẩm đoàn. Một cách đặc biệt, ông ta tập chú vào thời điểm của các biến cố, mô tả mà người khiếu nại đã đưa ra về các chi tiết của hành vi phạm tội (bao gồm cả việc dao động của ông ta đối với cách thức đương đơn đã ‘loay hoay’ với y phục của ông ta), các trình thuật rất khác và, được nói, khá không nhất quán về cách các cậu bé đã xoay sở để thoát khỏi đám rước mà không bị chú ý, và bằng chứng của người khiếu nại về việc họ đã trở lại ca đoàn.
917 Rõ ràng, điều quan trọng là phải ý thức được sự rủi ro của việc tin tưởng quá nhiều vào các vấn đề như thái độ ứng xử, khi đánh giá bằng chứng của một nhân chứng [214]. Trong quá khứ, đã có rất nhiều sự tin tưởng không đúng chỗ về năng lực của một thẩm phán, hoặc bất cứ người ra quyết định nào khác, để phân định sự thật, trên cơ sở thái độ ứng xử mà thôi [215].
918 Tòa án Tối cao đã nhận xét rằng có thể nguy hiểm khi đặt quá nhiều sự tin cậy vào bề ngoài của một nhân chứng, thay vì tập chú, càng nhiều càng tốt, vào các vấn đề khác, đáng tin cậy một cách khách quan hơn. Các vấn đề này có thể bao gồm, thí dụ, các tài liệu đương thời, các sự kiện được xác lập rõ ràng, các thử nghiệm đã được phê chuẩn một cách khoa học và luận lý rõ ràng của các biến cố đang bàn [216].
919 Bằng chứng thực nghiệm đã đặt ra nhiều nghi ngờ nghiêm trọng đối với khả năng của bất cứ con người nào trong việc phân biệt sự thật khỏi sự giả dối nguyên từ những quan sát của một nhân chứng đưa ra bằng chứng. Điều này đặc biệt đúng như thế trong các hoàn cảnh giả tạo và căng thẳng của phòng xử án. Ngày nay có một bộ đáng kể các trước tác học thuật nhằm cảnh giác chống lại việc dành quá nhiều tầm quan trọng cho thái độ ứng xử khi đánh giá giá trị chứng mình của bằng chứng [217].
920 Ngài (Lord) Devlin nhận xét rằng, theo ý kiến của ông, sự tôn trọng dành cho những phát hiện về sự kiện dựa trên thái độ ứng xử của các nhân chứng không phải lúc nào cũng xứng đáng. Ông nghi ngờ chính khả năng của mình, và đôi khi khả năng của các thẩm phán khác, trong việc, dựa vào thái độ ứng xử của nhân chứng, hay âm sắc trong giọng nói của họ, để biện phân liệu nhân chứng đó có nói sự thật hay không [218].
921 Một nhân chứng ăn nói do dự có thể đơn giản là người thận trọng hoặc dành thời gian để chế tạo hoặc tô điểm. Một nhân chứng có giọng nhấn mạnh có thể là lừa dối, hoặc thậm chí tự thuyết phục mình rằng điều nhân chứng nói là đúng sự thật. Một nhân chứng nhìn thẳng vào mắt thẩm phán, thay vì đưa mắt nhìn xuống đất, có thể nói sự thật, hoặc nói dối, không có cách nào biết khác hơn việc dựa vào điều đáng tin cậy hơn là trực giác.
922 Ủy ban Cải cách Luật pháp Úc, trong công trình đột phá sau cùng đã dẫn đến việc ban hành Luật Bằng chứng Thống nhất (Uniform Evidence Law), đã duyệt lại khá nhiều việc nghiên cứu tâm lý liên quan đến thái độ ứng xử của các nhân chứng. Việc nghiên cứu này gần như đã kết luận một cách phổ quát rằng phản ứng trên khuôn mặt và thái độ ứng xử ít có xác suất hỗ trợ để đi đến kết luận có giá trị về bằng chứng của hầu hết các nhân chứng [219].
923 Ngài chánh án Atkin, lúc còn là thành viên của Tòa phúc thẩm Anh, đã nói như sau về thái độ ứng xử như một hướng dẫn để đo độ đáng tin [220]:
một lượng Anh giá trị hoặc vô giá trị nội tại trong bằng chứng, nghĩa là nếu so sánh bằng chứng với các sự kiện đã biết, có giá trị bằng một cân Anh thái độ ứng xử.
924 Ngày nay, có nhiều chỉ tiêu về cả độ đáng tin lẫn độ đáng dựa vào hơn là thái độ ứng xử xét tự trong nó. Một vài chỉ tiêu trong số này có thể được định phẩm là ‘khách quan’ [221].Thành thử, thái độ ứng xử thường bị hạ xuống vị trí ít nổi bật hơn trong diễn trình đánh giá so với trước đây. Trong khi trao nhiệm vụ cho các bồi thẩm đoàn, các thẩm phán thường cảnh giác về các nguy hiểm của việc dành quá nhiều tầm quan trọng cho nhân tố này, và chắc chắn nhiều tầm quan trọng hơn mức nên có.
925 Trong vụ án này, công tố hoàn toàn dựa vào bằng chứng của người khiếu nại để xác lập tội lỗi, chứ không gì hơn khác [222]. Không có bằng chứng hỗ trợ bất cứ loại nào của bất cứ nhân chứng nào khác. Thật vậy, không có bằng chứng hỗ trợ thuộc bất cứ loại nào cả. Những kết án này dựa trên việc đánh giá của bồi thẩm đoàn đối với người khiếu nại trong tư cách nhân chứng, và không có gì hơn thế.
926 Ông Boyce, trong các đệ trình lên Tòa án này, đã không chùn bước nhận đó là toàn bộ lý lẽ của công tố tại phiên xử. Thật vậy, như đã chỉ ra, ông đã mời các thành viên của Tòa án này tiếp cận cơ sở kháng cáo này y hệt theo cùng một cách. Ông yêu cầu Tòa án này tập chú vào thái độ ứng xử của người khiếu nại trong việc đánh giá độ đáng tin và độ đáng dựa vào của ông ta, và coi vấn đề đó có tính quyết định. Và, như đã chỉ ra trước đây, ông dựa rất nhiều vào cuộc trao đổi đặc biệt gây xúc cảm giữa người khiếu nại và ông Richter về lý do tại sao người khiếu nại không bao giờ nói với ai về biến cố hoặc thảo luận nó với cậu bé kia.
927 Tất nhiên, hoàn toàn hợp pháp khi công tố viện dẫn các vấn đề này để trả lời thách thức đối với những kết án này. Chúng phải được cân nhắc theo qui mô (scale), nhưng chúng cũng phải được xem xét dưới ánh sáng các bằng chứng như một toàn bộ. Điều này bao gồm toàn bộ các tư liệu có tính gỡ tội một cách rõ ràng luận ra từ các nhân chứng khác nhau được công tố gọi mời. Và người ta không nên làm ngơ các lời bác bỏ mạnh mẽ của đương đơn về bất cứ hành vi sai trái nào, như cáo buộc, trong hồ sơ phỏng vấn ông.
928 Theo quan điểm của tôi, ông Walker đã có lý khi đệ trình rằng người khiếu nại, đôi khi, đã tô điểm nhiều khía cạnh trong trình thuật của ông. Có lúc, ông ta dường như muốn nắm ‘lấy cọng rơm mỏng manh’ (clutch at straws) trong cố gắng giảm thiểu hoặc khắc phục, các bất nhất rõ ràng giữa những gì ông ta nói trong những dịp trước đó, và những gì bằng chứng khách quan cho thấy rõ.
929 Nếu bằng chứng của người khiếu nại đứng một mình (do đó đặt sang một bên mỗi một trong số 17 'trở ngại vững chắc' đối với bản án mà ông Richter đã dựa vào tại phiên xử), tôi sẽ không kết luận rằng các cáo buộc của ông ta, liên quan đến biến cố đầu tiên một cách đặc biệt, đã được chế tạo. Tôi có thể không nói cùng một điều như vậy đối với các cáo buộc của ông ấy về biến cố thứ hai, mặc dù không cần thiết phải đi đến kết luận cuối cùng về vấn đề đó. Đồng thời, bản thân tôi sẽ không sẵn sàng nói, vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, rằng người khiếu nại là một nhân chứng đầy thuyết phục, đáng tin và đáng dựa vào đến mức tôi nhất thiết phải chấp trình thuật của ông ta vượt quá sự nghi ngờ hợp lý.
930 Tại phiên tòa xét xử, Ông Richter gợi ý rằng người khiếu nại hiện là, hoặc có thể đã là, một người có óc tưởng tượng (fantasiser), đưa ra nhiều khó khăn. Qua gợi ý này, tôi hiểu ông muốn ám chỉ rằng người khiếu nại có thể, phần nào đó, đã tiến đến chỗ tin vào sự thật trong các lời cáo buộc của ông ta, bất chấp sự kiện, như đã được đệ trình, rằng chúng không có thực chất.
931 Có những trường hợp đã được chứng minh về ‘trí nhớ lầm’, thuộc loại đó, kể cả, cách riêng, liên quan đến việc vi phạm tình dục [223]. Phán quyết gần đây của Tòa án này trong vụ Tyrrell cung cấp một minh họa cổ điển về một nhân chứng rõ ràng đầy thuyết phục mà trình thuật hẳn liên quan đến một mức đáng kể về óc tưởng tượng hoàn toàn. Trong trường hợp đó, sự kiện việc truy tố được mang trở lại hơn 50 năm sau vụ bị cáo là vi phạm, tự nó, đã là một điềm báo việc không đáng dựa vào. Một vụ truy tố như vậy đáng lẽ không bao giờ được đưa ra dù là mới gần đây trong khoảng 20 năm hoặc gần như thế trước đây, và nếu đã đưa ra, nó phải bị coi là lạm dụng diễn trình.
932 Cũng không thể nghi ngờ rằng một số người khiếu nại trong các vụ kiện liên quan đến lạm dụng tình dục, bao gồm cả lạm dụng trẻ em, đã bịa đặt ra các cáo buộc của họ. Chỉ trong vài tuần qua, một vụ tai tiếng lớn liên quan đến những cáo buộc sai lầm kiểu đó đã nổ ra ở Anh và nhận được sự bàn tán (publicity) rất lớn.
933 Sự kiện là như sau. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2019, tờ The Times đã tường trình rằng một người đàn ông tên là Carl Beech đã bị kết án vào hôm trước 18 năm tù giam vì, từ năm 2012 đến năm 2016, đã đưa ra một số cáo buộc sai lầm về lạm dụng tình dục đã lâu năm. Những cáo buộc này đã được nhắm chống lại một số nhân vật có máu mặt (establishment), một số người đã qua đời. Họ bao gồm cựu Thủ tướng, Ngài Edward Heath. Beech đã tuyên bố sai lầm rằng, khi còn nhỏ, lúc từ 7 đến 15 tuổi, ông ta là nạn nhân bị liên tiếp lạm dụng tình dục bởi một ‘băng ấu dâm’.
934 Cảnh sát được cho là đã tiến hành một cuộc điều tra sâu rộng về những cáo buộc này. Họ rõ ràng coi Beech là một nhân chứng đáng tin và đáng dựa vào, mặc dù sự kiện là không có sự hỗ trợ độc lập nào cho bất cứ cáo buộc nào của ông ta. Một số trong những cáo buộc đó vốn đã có thể không đúng sự thật từ trong nội tại, gần với sự phi lý. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông khác nhau đã tiếp nhận nguyên cớ của Beech, phát sóng các tuyên bố của ông trên truyền hình cả nước, và ngụ ý rõ ràng rằng chúng nên được coi là trung thực và đáng dựa vào.
935 Thẩm phán kết án Beech đã mô tả ông ta là 'thông minh và tháo vát' [222]. Bất chấp sự đáng ngờ gắn liền với một số tuyên bố của ông ta, và lịch sử lâu đời của ông ta về việc thường xuyên điều chỉnh và tô điểm các chi tiết xung quanh chúng, một số người thường xuyên tiếp xúc với ông ta dường như chỉ biết rất sẵn lòng chấp nhận mọi bất nhất trong trình thuật của ông ta.
936 Không nói quá về vấn đề, một vấn đề xét cho cùng, chỉ liên quan đến một trường hợp đơn nhất, dù được tường thuật rộng rãi, của sai lầm [225]. Trường hợp Beech nên được dùng như một nhắc nhở rằng chúng ta đang xử lý với một số cáo buộc nghiêm trọng nhất có thể được nhắm vào bất cứ thành viên nào của cộng đồng này. Các cáo buộc thuộc loại đó phải luôn được xem xét kỹ lưỡng bởi cả cảnh sát lẫn các cơ quan công tố.
937 Quay trở lại vụ án hiện tại, phiên tòa này liên quan đến một thách thức chi tiết và toàn diện nhất đối với lý lẽ công tố. Cuộc tấn công này chủ yếu dựa trên lời khai không bị thách thức của một số lượng đáng kể các nhân chứng, tất cả đều có tư cách tốt và có uy tín. Không có gợi ý nào cho thấy bất cứ ai trong số họ đã nói dối. Những người nhớ các biến cố có liên quan có lý do chính đáng để làm như thế. Ông Walker đã đệ trình rằng bằng chứng mà họ đưa ra, dù được xem riêng lẻ hay tập thể, đều quá đủ để xác lập rằng trình thuật của người khiếu nại, trong chi tiết chuyên biệt của nó, là ‘điều không thể có trên thực tế’.
938 Trong thực chất, ông Walker đệ trình rằng đây luôn là một lý lẽ yếu ớt, được xây dựng dựa trên một trình thuật, bởi người khiếu nại, một trình thuật chính nó có thể không đúng sự thật. Tất nhiên, sự kiện điều bị cho là biến cố có thể được mô tả là ‘có thể không đúng sự thật’ không có nghĩa là bằng chứng liên quan đến biến cố đó là sai sự thật. Và, tất nhiên, việc kết án đối với một hành vi phạm tội chỉ có thể dựa trên bằng chứng của một nhân chứng đủ đáng tin và đáng dựa vào, ngay cả khi trình thuật của nhân chứng đó được mô tả đúng là không thể tin được.
939 Ghi nhớ điều đó và, cuối cùng, trước khi tiến đến câu kết luận của tôi về Cơ sở 1, tôi sẽ nói ngắn gọn về một số đặc điểm khác thường của trường hợp cá biệt này, ngoài những đặc điểm mà tôi đã nhận diện trên đây.
Kỳ tới: Lý luận kiểu suy diễn (inferential)
896 Khởi điểm trong việc áp dụng thử nghiệm M, trong trường hợp này, phải là một đánh giá độc lập về tính đáng tin và đáng dựa vào của người khiếu nại [208].
897 Các nhân tố mà bất cứ người thử nghiệm nào về sự kiện, dù là thẩm phán hay bồi thẩm đoàn, thường sẽ tính đến lúc quyết định liệu bằng chứng của một nhân chứng đặc thù có đáng tin và đáng dựa vào hay không, bao gồm: tính nhất quán cố hữu trong trình thuật của nhân chứng; tính nhất quán của trình thuật đó với trình thuật của những nhân chứng khác; tính nhất quán của trình thuật đó với các sự kiện không thể tranh cãi; ‘uy tín’ (credit) của nhân chứng (dựa trên các vấn đề bao gồm, chẳng hạn, cách cư xử); bất cứ sự yếu kém (infirmities) nào của nhân chứng; và quan trọng là độ cái nhiên (probability) hoặc bất cái nhiên cố hữu của bằng chứng đang bàn [209].
898 Khi đánh giá tầm quan trọng phải được dành cho bằng chứng của người khiếu nại trong trường hợp này, phải ghi nhớ rằng, đây là một phiên tòa xử tội xâm phạm tình dục, nên có một số quy tắc đặc biệt chi phối diễn trình tố tụng loại này. Như đã nhấn mạnh trước đây, điều 54D (2) (c) của JDA đòi thẩm phán xét xử hướng dẫn bồi thẩm đoàn rằng 'kinh nghiệm cho thấy' rằng người ta có thể không nhớ tất cả các chi tiết của hành vi phạm tội tình dục, hoặc có thể không mô tả hành vi phạm tội đó giống nhau mỗi lần. Ngoài ra, bồi thẩm đoàn phải được hướng dẫn rằng chấn thương có thể ảnh hưởng đến những người khác nhau theo những cách khác nhau, bao gồm cả khả năng của họ trong việc nhớ các biến cố. Cuối cùng, họ phải được thông báo rằng những người khiếu nại thường đưa ra các trình thuật khác nhau vào các thời điểm khác nhau khi mô tả chi tiết của tội phạm tình dục mà họ cáo buộc đã bị vi phạm.
899 Một lần nữa, tôi lưu ý rằng điều 4A của JDA đòi Tòa án này, trong việc xử lý kháng cáo chống lại sự kết án dựa trên Cơ sở 1, phải 'lý luận' theo cách nhất quán với cách bồi thẩm đoàn đã được chỉ đạo theo điều 54D [ 210]. Tác động của điều 4A đặt ra các câu hỏi khác để Tòa án này giải quyết trong việc thi hành thử nghiệm M.
900 Ông Boyce, trong bản đệ trình khai mạc tại Tòa án này, đã trình bầy lý lẽ công tố một cách vừa cô đọng vừa mạnh mẽ. Ông khẳng định rằng:
... Người khiếu nại là một nhân chứng rất thuyết phục. Rõ ràng Ông không phải là một kẻ nói dối. Ông không phải là một người có óc tưởng tượng. Ông là một nhân chứng của sự thật.
901 Ông Boyce tiếp tục mô tả bằng chứng của người khiếu nại là 'đáng tin cậy, rõ ràng và hoàn toàn có thể tin được'. Ông nói rằng quan điểm này của người khiếu nại là 'được phản ảnh trong phán quyết của bồi thẩm đoàn' [211]. Thật vậy, ông Boyce đã đệ trình rằng bằng chứng của người khiếu nại ‘tăng trưởng về tầm vóc’ trong suốt phiên tòa, khi đối đầu với cuộc đối chất mạnh mẽ.
902 Ông Boyce đã đệ trình rằng chỉ xem bản ghi bằng chứng của người khiếu nại, tự mình nó, sẽ chứng minh được lý do tại sao bồi thẩm đoàn đã kết án đương đơn, điều, được ông đệ trình, họ rất có quyền làm.
903 Về vấn đề đó, ông Boyce đã mời Tòa án này xem xét một cách đặc biệt về một cuộc trao đổi xúc động cao độ tại phiên tòa giữa ông Richter và người khiếu nại, kéo dài vài phút. Sự trao đổi đó nảy sinh khi ông Richter thách thức người khiếu nại về lý do tại sao ông ta chưa bao giờ thảo luận với cậu bé kia về hai biến cố.
904 Bối cảnh là người khiếu nại đã được hỏi về bản chất của mối liên hệ của ông ta, vào năm 1996, với cậu bé kia. Ông nói rằng họ đã trở thành bạn thân. Họ đã ngủ ở nhà của nhau. Sau đó, họ vẫn giữ liên lạc, mặc dù họ không còn là ‘những người bạn bền chặt’ như trước nữa.
905 Ông Richter đã thách thức sự thiếu sót của người khiếu nại, không bao giờ thảo luận với cậu bé kia về việc cho là đương đơn đã lạm dụng tình dục cả hai người. Người khiếu nại, rõ ràng trong trạng thái bị kích động, đã trả lời rằng 'đó hoàn toàn là một điều bất thường và là một điều thực sự ... không phù hợp với cách chúng ta đang sống cuộc sống của chúng ta vào thời điểm đó'. Đó là một điều mà các cậu bé đã cố gắng 'thanh lọc' khỏi hệ thống của họ. Đó là một điều mà người khiếu nại ‘... không thể lường được’.
906 Rõ ràng, dòng đối chất này dường như đã gây ra nơi người khiếu nại nhiều buồn khổ [212]. Ông Boyce đệ trình rằng bề ngoài và thái độ cư xử của người khiếu nại, khi trả lời dòng chất vấn này, cho thấy ông ta là một nhân chứng trung thực và đáng dựa vào. Ông đệ trình rằng những khoảnh khắc kịch tính cao trong một phiên tòa loại này cung cấp câu trả lời rõ ràng về lý do tại sao bồi thẩm đoàn đã chấp nhận trình thuật của người khiếu nại, và đặt sang một bên tất cả các bằng chứng khác, những bằng chức dường như đặt nghi ngờ về độ đáng dựa vào của ông [213 ].
907 Ông Walker, trong bản đệ trình trước Tòa án này, đã lập luận rằng một vài phút của chứng từ xúc động cao độ, được đưa ra trong những hoàn cảnh khó có thể được thăm dò, biểu hiện một cơ sở quá mỏng manh để dựa vào đó mà kết án trong một vụ án với rất nhiều điểm yếu hiển nhiên như vậy.
908 Một vấn đề mà ông Boyce đặc biệt dựa vào để hỗ trợ trình thuật của người khiếu nại liên quan đến bằng chứng được đưa ra bởi Thám tử Reed. Ông nói tới kiến thức của người khiếu nại, khi ông ta tiếp cận cảnh sát lần đầu tiên, về cách bố trí chung phòng áo của các Linh mục. Về phương diện này, ông Boyce lưu ý rằng bằng chứng của người khiếu nại, tại phiên tòa, là ông chưa bao giờ có mặt ờ phòng áo của các Linh mục trước ngày xảy ra biến cố đầu tiên, hoặc thực sự kể từ ngày đó. Ông đặt một câu hỏi hoa mỹ, như thế, làm thế nào người khiếu nại có thể có được kiến thức ấy về cách bố trí của phòng áo?
909 Tuy nhiên, như ông Richter đã chỉ ra trong 17 chướng ngại vững chắc của mình đối với bản án, đệ trình đặc thù đó phải được điều chỉnh. Như đã chỉ ra trước đó, người khiếu nại thừa nhận trong cuộc đối chất rằng ngay sau lần đầu tiên tham gia ca đoàn năm 1996, ông ta đã được đưa đi một vòng tham quan Nhà thờ Chính Tòa có hướng dẫn. Ông ta cũng thừa nhận rằng ông ta có thể đã được chỉ cho xem ‘các phòng áo’ trong dịp đó.
910 Bằng chứng của người khiếu nại về điểm này được nêu tại số [836] về những lý do này. Về bản chất, ông ta thừa nhận rằng ông ta có thể đã nhìn thấy phần bên trong phòng áo của các Linh mục khi được đưa đi tham quan Nhà thờ Chính Tòa có tính dẫn nhập. Câu trả lời đó được cho là đã lấy mất ít nhất một số chua chát trong đệ trình của ông Boyce, và cho thấy rằng bản tóm tắt của ông về bằng chứng của người khiếu nại về vấn đề này là không đầy đủ.
911 Lý lẽ viết của đương đơn trước Tòa án này lập luận rằng, ngay cả khi xét bằng chứng của người khiếu nại một cách cô lập, người ta vẫn phải có những lo ngại nghiêm trọng về cả tính đáng tin lẫn tính có thể dựa vào của ông ta.
912 Về phương diện đó, người ta nhớ lại rằng Tòa án Tối cao trong vụ M tuyên bố rằng nếu các bằng chứng đang được xem xét bởi một phiên tòa phúc thẩm có 'sự không nhất quán, cho thấy sự không thỏa đáng, bị hà tì (tainted) hoặc thiếu sức mạnh chứng minh' thì điều này có thể dẫn tòa phúc thẩm kết luận, bất chấp những lợi thế bồi thẩm đoàn thường được hưởng, rằng có khả thể đáng kể là một người vô tội đã bị kết án. Nếu tòa phúc thẩm kết luận như vậy, nó buộc phải hành động và bác bỏ bản án. Ông Walker đệ trình rằng công thức này, được lấy trực tiếp từ vụ M, áp dụng một cách chuyên biệt vào các sự kiện của vụ án hiện tại.
913 Khi đánh giá tầm quan trọng phải được dành cho bằng chứng của người khiếu nại, phải nhớ rằng các biến cố mà mà ông ta nói tới đã được cáo buộc là đã xảy ra hơn 20 năm về trước. Có đệ trình cho rằng sự kiện này, tự nó, phải đặt ra nhiều câu hỏi về tính đáng dựa vào của ký ức nơi ông ta (cũng như ký ức của tất cả những người khác có thể có mặt tại thời điểm liên quan).
914 Rõ ràng, bất cứ người xét xử sự kiện nào phải đánh giá bằng chứng của một nhân chứng đều phải tính đến sự kiện không thể chối cãi rằng ký ức sẽ phai mờ dần theo thời gian. Tất nhiên, điều đó đúng đối với trình thuật của người người khiếu nại. Tuy nhiên, điều cũng đúng sự thật không kém về bằng chứng được đưa ra bởi những nhân chứng được gọi bởi công tố, những người mà trình thuật có tính gỡ tội trong trường hợp này.
915 Ông Walker đã đệ trình rằng dựa vào một đánh giá hợp tình hợp lý về bằng chứng của người khiếu nại, cả qua việc đọc bản ghi lại lẫn qua việc xem lời khai được ghi lại của ông ta, ông ta đã thường xuyên điều chỉnh, bổ sung và thực sự tô điểm cho trình thuật mà ban đầu ông đã đưa cho cảnh sát vào năm 2015. Ông đã đệ trình rằng bất cứ khi nào người khiếu nại chịu áp lực đáng kể trong đối chất, ông ta có xu hướng nói lập lờ (prevaricate), và sẽ đưa ra những câu trả lời, trong một số trường hợp, không nhất quán với bằng chứng trước đó của ông ta. Thật vậy, đôi khi, ông đưa ra câu trả lời mà thậm chí ông ta không tin là đúng.
916 Về phương diện đó, ông Walker đã chỉ ra một số vấn đề liên quan đến bằng chứng của người khiếu nại đã phác họa trước đó trong bản tóm tắt của bài thuyết trình bằng PowerPoint của ông Richter trước bồi thẩm đoàn. Một cách đặc biệt, ông ta tập chú vào thời điểm của các biến cố, mô tả mà người khiếu nại đã đưa ra về các chi tiết của hành vi phạm tội (bao gồm cả việc dao động của ông ta đối với cách thức đương đơn đã ‘loay hoay’ với y phục của ông ta), các trình thuật rất khác và, được nói, khá không nhất quán về cách các cậu bé đã xoay sở để thoát khỏi đám rước mà không bị chú ý, và bằng chứng của người khiếu nại về việc họ đã trở lại ca đoàn.
917 Rõ ràng, điều quan trọng là phải ý thức được sự rủi ro của việc tin tưởng quá nhiều vào các vấn đề như thái độ ứng xử, khi đánh giá bằng chứng của một nhân chứng [214]. Trong quá khứ, đã có rất nhiều sự tin tưởng không đúng chỗ về năng lực của một thẩm phán, hoặc bất cứ người ra quyết định nào khác, để phân định sự thật, trên cơ sở thái độ ứng xử mà thôi [215].
918 Tòa án Tối cao đã nhận xét rằng có thể nguy hiểm khi đặt quá nhiều sự tin cậy vào bề ngoài của một nhân chứng, thay vì tập chú, càng nhiều càng tốt, vào các vấn đề khác, đáng tin cậy một cách khách quan hơn. Các vấn đề này có thể bao gồm, thí dụ, các tài liệu đương thời, các sự kiện được xác lập rõ ràng, các thử nghiệm đã được phê chuẩn một cách khoa học và luận lý rõ ràng của các biến cố đang bàn [216].
919 Bằng chứng thực nghiệm đã đặt ra nhiều nghi ngờ nghiêm trọng đối với khả năng của bất cứ con người nào trong việc phân biệt sự thật khỏi sự giả dối nguyên từ những quan sát của một nhân chứng đưa ra bằng chứng. Điều này đặc biệt đúng như thế trong các hoàn cảnh giả tạo và căng thẳng của phòng xử án. Ngày nay có một bộ đáng kể các trước tác học thuật nhằm cảnh giác chống lại việc dành quá nhiều tầm quan trọng cho thái độ ứng xử khi đánh giá giá trị chứng mình của bằng chứng [217].
920 Ngài (Lord) Devlin nhận xét rằng, theo ý kiến của ông, sự tôn trọng dành cho những phát hiện về sự kiện dựa trên thái độ ứng xử của các nhân chứng không phải lúc nào cũng xứng đáng. Ông nghi ngờ chính khả năng của mình, và đôi khi khả năng của các thẩm phán khác, trong việc, dựa vào thái độ ứng xử của nhân chứng, hay âm sắc trong giọng nói của họ, để biện phân liệu nhân chứng đó có nói sự thật hay không [218].
921 Một nhân chứng ăn nói do dự có thể đơn giản là người thận trọng hoặc dành thời gian để chế tạo hoặc tô điểm. Một nhân chứng có giọng nhấn mạnh có thể là lừa dối, hoặc thậm chí tự thuyết phục mình rằng điều nhân chứng nói là đúng sự thật. Một nhân chứng nhìn thẳng vào mắt thẩm phán, thay vì đưa mắt nhìn xuống đất, có thể nói sự thật, hoặc nói dối, không có cách nào biết khác hơn việc dựa vào điều đáng tin cậy hơn là trực giác.
922 Ủy ban Cải cách Luật pháp Úc, trong công trình đột phá sau cùng đã dẫn đến việc ban hành Luật Bằng chứng Thống nhất (Uniform Evidence Law), đã duyệt lại khá nhiều việc nghiên cứu tâm lý liên quan đến thái độ ứng xử của các nhân chứng. Việc nghiên cứu này gần như đã kết luận một cách phổ quát rằng phản ứng trên khuôn mặt và thái độ ứng xử ít có xác suất hỗ trợ để đi đến kết luận có giá trị về bằng chứng của hầu hết các nhân chứng [219].
923 Ngài chánh án Atkin, lúc còn là thành viên của Tòa phúc thẩm Anh, đã nói như sau về thái độ ứng xử như một hướng dẫn để đo độ đáng tin [220]:
một lượng Anh giá trị hoặc vô giá trị nội tại trong bằng chứng, nghĩa là nếu so sánh bằng chứng với các sự kiện đã biết, có giá trị bằng một cân Anh thái độ ứng xử.
924 Ngày nay, có nhiều chỉ tiêu về cả độ đáng tin lẫn độ đáng dựa vào hơn là thái độ ứng xử xét tự trong nó. Một vài chỉ tiêu trong số này có thể được định phẩm là ‘khách quan’ [221].Thành thử, thái độ ứng xử thường bị hạ xuống vị trí ít nổi bật hơn trong diễn trình đánh giá so với trước đây. Trong khi trao nhiệm vụ cho các bồi thẩm đoàn, các thẩm phán thường cảnh giác về các nguy hiểm của việc dành quá nhiều tầm quan trọng cho nhân tố này, và chắc chắn nhiều tầm quan trọng hơn mức nên có.
925 Trong vụ án này, công tố hoàn toàn dựa vào bằng chứng của người khiếu nại để xác lập tội lỗi, chứ không gì hơn khác [222]. Không có bằng chứng hỗ trợ bất cứ loại nào của bất cứ nhân chứng nào khác. Thật vậy, không có bằng chứng hỗ trợ thuộc bất cứ loại nào cả. Những kết án này dựa trên việc đánh giá của bồi thẩm đoàn đối với người khiếu nại trong tư cách nhân chứng, và không có gì hơn thế.
926 Ông Boyce, trong các đệ trình lên Tòa án này, đã không chùn bước nhận đó là toàn bộ lý lẽ của công tố tại phiên xử. Thật vậy, như đã chỉ ra, ông đã mời các thành viên của Tòa án này tiếp cận cơ sở kháng cáo này y hệt theo cùng một cách. Ông yêu cầu Tòa án này tập chú vào thái độ ứng xử của người khiếu nại trong việc đánh giá độ đáng tin và độ đáng dựa vào của ông ta, và coi vấn đề đó có tính quyết định. Và, như đã chỉ ra trước đây, ông dựa rất nhiều vào cuộc trao đổi đặc biệt gây xúc cảm giữa người khiếu nại và ông Richter về lý do tại sao người khiếu nại không bao giờ nói với ai về biến cố hoặc thảo luận nó với cậu bé kia.
927 Tất nhiên, hoàn toàn hợp pháp khi công tố viện dẫn các vấn đề này để trả lời thách thức đối với những kết án này. Chúng phải được cân nhắc theo qui mô (scale), nhưng chúng cũng phải được xem xét dưới ánh sáng các bằng chứng như một toàn bộ. Điều này bao gồm toàn bộ các tư liệu có tính gỡ tội một cách rõ ràng luận ra từ các nhân chứng khác nhau được công tố gọi mời. Và người ta không nên làm ngơ các lời bác bỏ mạnh mẽ của đương đơn về bất cứ hành vi sai trái nào, như cáo buộc, trong hồ sơ phỏng vấn ông.
928 Theo quan điểm của tôi, ông Walker đã có lý khi đệ trình rằng người khiếu nại, đôi khi, đã tô điểm nhiều khía cạnh trong trình thuật của ông. Có lúc, ông ta dường như muốn nắm ‘lấy cọng rơm mỏng manh’ (clutch at straws) trong cố gắng giảm thiểu hoặc khắc phục, các bất nhất rõ ràng giữa những gì ông ta nói trong những dịp trước đó, và những gì bằng chứng khách quan cho thấy rõ.
929 Nếu bằng chứng của người khiếu nại đứng một mình (do đó đặt sang một bên mỗi một trong số 17 'trở ngại vững chắc' đối với bản án mà ông Richter đã dựa vào tại phiên xử), tôi sẽ không kết luận rằng các cáo buộc của ông ta, liên quan đến biến cố đầu tiên một cách đặc biệt, đã được chế tạo. Tôi có thể không nói cùng một điều như vậy đối với các cáo buộc của ông ấy về biến cố thứ hai, mặc dù không cần thiết phải đi đến kết luận cuối cùng về vấn đề đó. Đồng thời, bản thân tôi sẽ không sẵn sàng nói, vượt quá sự nghi ngờ hợp lý, rằng người khiếu nại là một nhân chứng đầy thuyết phục, đáng tin và đáng dựa vào đến mức tôi nhất thiết phải chấp trình thuật của ông ta vượt quá sự nghi ngờ hợp lý.
930 Tại phiên tòa xét xử, Ông Richter gợi ý rằng người khiếu nại hiện là, hoặc có thể đã là, một người có óc tưởng tượng (fantasiser), đưa ra nhiều khó khăn. Qua gợi ý này, tôi hiểu ông muốn ám chỉ rằng người khiếu nại có thể, phần nào đó, đã tiến đến chỗ tin vào sự thật trong các lời cáo buộc của ông ta, bất chấp sự kiện, như đã được đệ trình, rằng chúng không có thực chất.
931 Có những trường hợp đã được chứng minh về ‘trí nhớ lầm’, thuộc loại đó, kể cả, cách riêng, liên quan đến việc vi phạm tình dục [223]. Phán quyết gần đây của Tòa án này trong vụ Tyrrell cung cấp một minh họa cổ điển về một nhân chứng rõ ràng đầy thuyết phục mà trình thuật hẳn liên quan đến một mức đáng kể về óc tưởng tượng hoàn toàn. Trong trường hợp đó, sự kiện việc truy tố được mang trở lại hơn 50 năm sau vụ bị cáo là vi phạm, tự nó, đã là một điềm báo việc không đáng dựa vào. Một vụ truy tố như vậy đáng lẽ không bao giờ được đưa ra dù là mới gần đây trong khoảng 20 năm hoặc gần như thế trước đây, và nếu đã đưa ra, nó phải bị coi là lạm dụng diễn trình.
932 Cũng không thể nghi ngờ rằng một số người khiếu nại trong các vụ kiện liên quan đến lạm dụng tình dục, bao gồm cả lạm dụng trẻ em, đã bịa đặt ra các cáo buộc của họ. Chỉ trong vài tuần qua, một vụ tai tiếng lớn liên quan đến những cáo buộc sai lầm kiểu đó đã nổ ra ở Anh và nhận được sự bàn tán (publicity) rất lớn.
933 Sự kiện là như sau. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2019, tờ The Times đã tường trình rằng một người đàn ông tên là Carl Beech đã bị kết án vào hôm trước 18 năm tù giam vì, từ năm 2012 đến năm 2016, đã đưa ra một số cáo buộc sai lầm về lạm dụng tình dục đã lâu năm. Những cáo buộc này đã được nhắm chống lại một số nhân vật có máu mặt (establishment), một số người đã qua đời. Họ bao gồm cựu Thủ tướng, Ngài Edward Heath. Beech đã tuyên bố sai lầm rằng, khi còn nhỏ, lúc từ 7 đến 15 tuổi, ông ta là nạn nhân bị liên tiếp lạm dụng tình dục bởi một ‘băng ấu dâm’.
934 Cảnh sát được cho là đã tiến hành một cuộc điều tra sâu rộng về những cáo buộc này. Họ rõ ràng coi Beech là một nhân chứng đáng tin và đáng dựa vào, mặc dù sự kiện là không có sự hỗ trợ độc lập nào cho bất cứ cáo buộc nào của ông ta. Một số trong những cáo buộc đó vốn đã có thể không đúng sự thật từ trong nội tại, gần với sự phi lý. Tuy nhiên, các phương tiện truyền thông khác nhau đã tiếp nhận nguyên cớ của Beech, phát sóng các tuyên bố của ông trên truyền hình cả nước, và ngụ ý rõ ràng rằng chúng nên được coi là trung thực và đáng dựa vào.
935 Thẩm phán kết án Beech đã mô tả ông ta là 'thông minh và tháo vát' [222]. Bất chấp sự đáng ngờ gắn liền với một số tuyên bố của ông ta, và lịch sử lâu đời của ông ta về việc thường xuyên điều chỉnh và tô điểm các chi tiết xung quanh chúng, một số người thường xuyên tiếp xúc với ông ta dường như chỉ biết rất sẵn lòng chấp nhận mọi bất nhất trong trình thuật của ông ta.
936 Không nói quá về vấn đề, một vấn đề xét cho cùng, chỉ liên quan đến một trường hợp đơn nhất, dù được tường thuật rộng rãi, của sai lầm [225]. Trường hợp Beech nên được dùng như một nhắc nhở rằng chúng ta đang xử lý với một số cáo buộc nghiêm trọng nhất có thể được nhắm vào bất cứ thành viên nào của cộng đồng này. Các cáo buộc thuộc loại đó phải luôn được xem xét kỹ lưỡng bởi cả cảnh sát lẫn các cơ quan công tố.
937 Quay trở lại vụ án hiện tại, phiên tòa này liên quan đến một thách thức chi tiết và toàn diện nhất đối với lý lẽ công tố. Cuộc tấn công này chủ yếu dựa trên lời khai không bị thách thức của một số lượng đáng kể các nhân chứng, tất cả đều có tư cách tốt và có uy tín. Không có gợi ý nào cho thấy bất cứ ai trong số họ đã nói dối. Những người nhớ các biến cố có liên quan có lý do chính đáng để làm như thế. Ông Walker đã đệ trình rằng bằng chứng mà họ đưa ra, dù được xem riêng lẻ hay tập thể, đều quá đủ để xác lập rằng trình thuật của người khiếu nại, trong chi tiết chuyên biệt của nó, là ‘điều không thể có trên thực tế’.
938 Trong thực chất, ông Walker đệ trình rằng đây luôn là một lý lẽ yếu ớt, được xây dựng dựa trên một trình thuật, bởi người khiếu nại, một trình thuật chính nó có thể không đúng sự thật. Tất nhiên, sự kiện điều bị cho là biến cố có thể được mô tả là ‘có thể không đúng sự thật’ không có nghĩa là bằng chứng liên quan đến biến cố đó là sai sự thật. Và, tất nhiên, việc kết án đối với một hành vi phạm tội chỉ có thể dựa trên bằng chứng của một nhân chứng đủ đáng tin và đáng dựa vào, ngay cả khi trình thuật của nhân chứng đó được mô tả đúng là không thể tin được.
939 Ghi nhớ điều đó và, cuối cùng, trước khi tiến đến câu kết luận của tôi về Cơ sở 1, tôi sẽ nói ngắn gọn về một số đặc điểm khác thường của trường hợp cá biệt này, ngoài những đặc điểm mà tôi đã nhận diện trên đây.
Kỳ tới: Lý luận kiểu suy diễn (inferential)