Có người đối đáp rất nhanh, dường như lưỡi đi trước, óc não lẽo đẽo theo sau. Hạnh phúc thay có những người may mắn vì đầu óc họ luôn cảnh tỉnh để điều khiển môi miệng. Đây là một ơn đặc biệt và họ rất thành công trong lãnh vực giao tế. Khi kiên nhẫn và khôn ngoan đi chung, chúng luôn hỗ trợ lẫn nhau, và mọi í kiến, chia sẻ của họ đều đáng lắng nghe. Người ta thường lầm lẫn giữa kiến thức và khôn ngoan. Kiến thức có thể tìm kiếm trong sách vở hoặc học hỏi do người trước để lại. Khôn ngoan không thể tìm kiếm trong sách vở, mà cần phải trải qua biến cố trong đời sống thường ngày. Khôn ngoan học được do kinh nghiệm của chính cá nhân đó, và khôn ngoan thường đi chung với hy sinh. Hy sinh đòi kiên nhẫn cộng chung với đau khổ. Vì thế khôn ngoan cần thời gian mới có thể có được và bởi chúng là kinh nghiệm đã trải qua nên khôn ngoan rất quí và rất đáng trân trọng. Khôn ngoan nhận được trong cầu nguyện còn đáng quí trọng hơn nhiều bởi khôn ngoan đó không đến từ con người mà đến từ Đấng Tối Cao, từ Thiên Chúa. Chính kiên nhẫn trong cầu nguyện là một trong những ơn khôn ngoan. Ơn này giúp ta không nản lòng, kiên nhẫn đợi chờ ơn xin trong cầu nguyện.

Xã hội hiện nay đòi nhanh chóng có kết quả, và nếu phục vụ đòi được phục vụ ngay. Người ta thích thú khi xe chạnh nhanh hơn, vui mừng khi điện thư liên lạc trong vòng vài giây, và khi lên lưới toàn cầu người ta muốn có hình ảnh trong nháy mắt. Ngay cả thực phẩm người ta cũng thích những bữa ăn nhanh, gọn, ngon miệng. Chính vì mong muốn có kết quả tức thời mà con người trao cho nhau rất nhiều sức ép, làm sao cho nhanh hơn người khác mới hy vọng thành công. Sức ép xảy ra trong xã hội, trong gia đình và giữa vợ chồng với nhau. Kết quả thường là những đổ vỡ. Ra đi mang theo mối buồn vừa bất tận, vừa uất hận.

Thiên Chúa rất kiên nhẫn với con người. Lịch sử dân Do Thái cho thấy một Thiên Chúa bao dung, kiên nhẫn chờ đợi con người trở về làm hoà cùng Thiên Chúa. Đức Kitô kể dụ ngôn người cha nhân lành chờ con hoang trở về nói lên hình ảnh một Thiên Chúa đầy yêu thương, giầu lòng tha thứ Lk 15,11tt. Đức Kitô kể dụ ngôn người đi tìm chiên lạc, tìm được vác trên vai mang về là hình ảnh một chủ chiên đầy nhân ái, bao dung Lk 15,3-7. Với dân Do Thái, Thiên Chúa gởi hết tiên tri này đến tiên tri nọ giúp họ trở về cùng Thiên Chúa. Câu chuyện bụi gai bốc lửa cao ngùn ngụt mà bụi gai không cháy cho biết Thiên Chúa kêu gọi Môisen thành người lãnh đạo cứu dân người thoát khỏi ách nô lệ Ai Cập Xh 3,15. Chính Thiên Chúa là Đấng khởi sự bác nhịp cầu liên lạc với Môisen và sai Môisen đi làm công việc giải thoát dân. Dưới hướng dẫn và bảo trợ của Thiên Chúa, Môisen giải thoát dân Chúa khỏi ách nôlệ tiến vào vùng Đất Hứa. Môisen rất lo lắng, ông xin Chúa giúp làm thế nào cho dân chúng tin là ông được Thiên Chúa sai đến giải thoát họ khỏi cảnh nô lệ.

Ngài ban sức mạnh tâm linh và ơn khôn ngoan cho Môisen để ông hoàn thành sứ mạng Chúa giao. Công việc Chúa giao tưởng khó hơn cả mò kim đáy biển. Mình ông sao có thể gánh vác việc chống lại quân Ai Cập, lúc đó đang là đạo binh toàn thắng, không cần phải đánh nghe đến tiếng đoàn quân người ta chuẩn bị đầu hàng. Môisen không kinh nghiệm chiến tranh, chưa từng lãnh đạo ai, làm sao mình ông có thể gánh vác việc cứu dân Chúa khỏi ách nô lệ. Điều này cho thấy chính Thiên Chúa chống đỡ cánh tay Môisen làm công việc cho Thiên Chúa. Môisen khôn ngoan khi xin Thiên Chúa cho biết tên và Thiên Chúa cho biết tên, tạm dịch là 'Đấng Hằng Hữu, hay là Đấng Luôn Có'.

Khi chúng ta giới thiệu tên mình cho người khác là chúng ta tạo nhịp cầu thân hữu. Nếu cuộc đối thoại tốt đẹp, chúng ta cho biết thêm nhiều tin tức về cá nhân mình, ví dụ như số điện thoại cầm tay, hay địa chỉ điện thư như thế là tạo cho tình thân hữu bền chặt hơn. Đối lại giữ kín không trao đổi tin tức, tình thân hữu đang âm thầm bị cắt đứt. Thiên Chúa cho biết tên Ngài nơi biến cố bụi gai là dấu chỉ Thiên Chúa tạo mối giây liên kết với con người. Trong Kinh thánh, sứ mạng thường đi chung, kèm theo khi Thiên Chúa ban tên cho ai. Trường hợp của Môisen, ông được con gái Pharaôh với lên từ giòng sông. Vì thế tên của ông có nghĩa là được 'Cứu Vớt'. Í nghĩa này đi chung với sứ mạng giải thoát dân Chúa khỏi ách nô lệ. Ông 'Cứu Vớt' dân Chúa khỏi cảnh tù đầy. Nó còn mang í nghĩa ông 'Cứu Vớt' họ khỏi chìm sâu đáy biển khi vượt qua Biển Đỏ. Môisen rất kiên nhẫn với dân chúng suốt bốn mươi năm dài trên đường về Đất Hứa. Bất cứ khi nào họ cảm thấy đói, khát, mệt nhọc họ đều than vãn và có í muốn nổi loạn chống lại cái cực khổ, nóng hạn hoặc lạnh tê tái. Người ta đã không cam tâm nhẫn nhục, chịu đựng nhưng luôn trong vào nhà lãnh đạo để than phiền, khiển trách.

Những lúc như thế Môisen luôn rút lui, lẩn trốn trong cầu nguyện, xin ơn khôn ngoan qua cầu nguyện và ông đã dẫn dân chúng đến vùng Đất Hứa an toàn.

Chúng ta xin ơn kiêm tâm trong cầu nguyện.

TiengChuong.org

Patience

For some their tongues are faster than their minds; while others are blessed because their minds take control of their tongue. This special gift is a guarantee of success in human relationships. When patience and wisdom go hand in hand, they are reciprocal. From anyone who possesses those gifts, their sharing is worth listening to. True wisdom takes time, because true wisdom in life is gained through personal experience, and it is often associated with personal sacrifice. Through reflection on past experience, we attain wisdom. This kind of personal wisdom, we can't get from readings, or endow it to the next generation. We all know that wisdom received from prayers is precious, because it comes not from human knowledge, but from above. Being patient in prayer is itself a gift of wisdom.

Our contemporary society demands to have a quick answer for most things. We like fast cars, fast computers, and even fast food. We don't live in a patient society. We want to have instant services in everything. Our impatience makes life stressful, both for us and for others. Impatience puts pressure on a family's relationships, and the end result is often a sad one.

God is infinitely patient with the human race. The history of the Israelites revealed that God wasn't just patiently waiting for them to come back to God, but God sent the prophets to care for and encourage them to come back to God's love. The story of the burning bush in today's first reading revealed God's redemptive plan for the Israelites. He strengthened Moses to carry out his mission, liberating the Israelites from slavery in Egypt. The task given is harder than to swim across an ocean, because Moses is a lone wolf. He has no skills in either military matters or leadership, and yet, God called him to carry out God's plan. Moses covered his face and prayed to God because he had many concerns. One of the concerns was the swaying of his own fellow Israelites to believe that God sent him. God gave Moses God's name: 'I Am who I Am'. Ex. 3;15 is a source of guarantee. In giving God's name, through Moses, God re-established the relationships with God's people. When we voluntarily give our name to someone, it means we initiate our friendship with that person. If the friendship establishes well, we then reveal more about ourselves to that person, namely we may exchange phone numbers or email addresses and hope to meet again. When more personal information is given, it cements the friendship. Otherwise, the initial friendship will bear no fruit. God revealed God's Name to Moses at the burning bush. God established God's relationship with Moses. Under God's guidance and protection, Moses became the leader of the Israelites, leading them out of Egypt to enter the Promised Land.

In the Old Testament when a name is given, it entails a mission to follow. It also reflects a character of that person. For example Moses means 'drawn out'. He was drawing out of the Nile by the Pharaoh's daughter and adopted into the royal family, at a time when the Israelites were slaves in Egypt. The meaning 'drawn out' also indicated that Moses would deliver his people from the waters of the sea.

We ask for the gift of wisdom through prayers.