Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Đồng tế với Đức Thánh Cha có 30 Hồng Y, 40 Tổng Giám Mục và Giám Mục, 250 linh mục, trước sự hiện diện của 9 ngàn tín hữu ngồi chật thánh đường.
Đầu thánh lễ, Đức Thánh Cha đã đặt tượng ảnh Chúa Hài Đồng Giêsu vào trong máng cỏ, ở trên ngai nhỏ trước bàn thờ chính.
Khi bài ca Vinh Danh được xướng lên, tất cả các chuông của Đại Vương cung Thánh đường được đánh lên cùng với đàn phong cầm.
Cạnh máng cỏ ở trước Bàn thờ Tuyên Xưng đức tin, có một ngai nhỏ trên đó có đặt một sách Tin Mừng, để nói lên rằng trong biến cố vĩ đại của đêm Giáng Sinh: Lời của Thiên Chúa đã làm người.
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong khi Đức Thánh Cha và đoàn đồng tế đang tiến lên bàn thờ, ca đoàn cùng cộng đoàn hát bài “The First Noel - Noel đầu tiên” bằng tiếng Ý là “Nella notte”
Mùa Giáng Sinh đầu tiên, các thiên thần kể lại rằng
Là khi có một nhóm người chăn cừu nghèo trên cánh đồng
Nơi mà họ thường chăn dắt những chú cừu
Vào một đêm mùa đông lạnh giá
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Họ đã nhìn và thấy một ngôi sao
Rực chói cả bầu trời phương Đông xa kia
Và khi đó mặt đất bừng toả sáng
Thế là liên tục như vậy cả ngày và đêm
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Nhờ ánh sáng của ngôi sao ấy
Từ đất nước phương xa có ba người đàn ông đã đến
Vì mục đích tìm kiếm một vì vua
Thế là họ dõi theo ngôi sao ấy
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Ngôi sao kia di chuyển mãi gần đến hướngTây Bắc
đến vùng Bethlehem, nó dừng lại
Dừng và nghỉ hẳn tại nơi
Chính nơi đây, nơi Chúa Giêsu đã ra đời
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Và ba người đàn ông ấy bước đến
Họ cung kính quỳ xuống
Dâng lên vì vua của mình
Nào là vàng bạc, nhũ hương và mộc dược qúy giá
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Nào thì chúng ta cùng hợp tiếng
Ngợi ca Thiên Chúa
Đã làm cho Trời và Đất giao hoà
Với tất cả tình thương nhân loại
Noel, noel, noel, noel
Vua dân Do Thái đã ra đời!
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Một ca trưởng đang hát bài công bố Tin Mừng Giáng Sinh
Ngày thứ bảy trong tháng âm lịch. Nhiều thời đại đã qua kể từ khi Chúa tạo thành Trời Đất và hình thành nên con người theo hình ảnh của Người; nhiều thế kỷ đã trôi qua sau trận Đại Hồng Thủy, khi Đấng Chí Thánh đặt một cầu vồng trên trời như một dấu hiệu của giao ước và hòa bình;
Bao năm đã trôi qua sau cuộc di cư của Ápraham, là tổ phụ trong đức tin của chúng ta, từ miền Ur của người Chanđê, và hai mươi mốt thế kỷ sau đó là cuộc di cư của dân Do Thái ra khỏi Ai Cập, dưới sự hướng dẫn của Môise, mười ba thế kỷ sau khi Ða-vít được xức dầu phong vương, một ngàn năm sau đó; trong tuần lễ thứ sáu mươi lăm theo lời tiên tri Ða-ni-ên; vào năm thứ một trăm chín mươi bốn triều Olympiad; sau khi thành Rôma được thành lập năm bảy trăm năm mươi hai, vào năm thứ 40 dưới thời cai trị của Caesar Octavian Augustus, khi toàn thế giới đang sống trong hòa bình: Chúa Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian.
Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Ðức Chúa Cha: nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế.
Bởi phép Ðức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.
Trong bài giảng thánh lễ, Đức Thánh Cha nói:
Ông Giuse cùng với người phối ngẫu của mình, lên đường đến thành vua Đavít gọi là Bêlem (Lc 2: 4). Tối nay, chúng ta cũng đến Bêlem để khám phá mầu nhiệm Giáng Sinh.
Bêlem: danh từ này có nghĩa là nhà bánh. Trong “ngôi nhà” này, ngày hôm nay, Chúa muốn gặp gỡ cả nhân loại. Ngài biết rằng chúng ta cần lương thực để sống. Tuy nhiên, Ngài cũng biết rằng những loại dưỡng chất của thế giới này không làm thỏa mãn con tim. Trong Kinh thánh, tội lỗi nguyên thủy của loài người liên quan chính xác đến việc ăn uống: nguyên tổ của chúng ta đã “cầm lấy trái cây và ăn”, Sách Sáng thế (xem 3: 6) cho biết như thế. Họ đã cầm lấy và đã ăn. Nhân loại trở nên tham lam và mê ăn uống. Trong thời đại của chúng ta, đối với nhiều người, ý nghĩa cuộc sống hệ tại ở việc chiếm hữu một cách dư thừa vật chất. Dấu ấn của lòng tham vô độ được ghi đậm trong toàn bộ lịch sử loài người, ngay cả ngày hôm nay, khi thật nghịch lý thay, một thiểu số ăn uống xa xỉ trong khi quá nhiều người chẳng có lương thực cần thiết hàng ngày để sống còn.
Bêlem là bước ngoặt làm thay đổi tiến trình của lịch sử. Ở đó, Chúa, trong “nhà bánh”, được sinh ra trong máng cỏ. Như thể Người muốn nói: “Này là Thầy, là phần lương của các con”. Người không chiếm hữu, nhưng Người cho chúng ta ăn; Người không trao cho chúng ta một của ăn đơn thuần, nhưng là chính Người. Ở Bêlem, chúng ta khám phá ra rằng Thiên Chúa không lấy đi sự sống, nhưng trao ban sự sống. Đối với chúng ta, những người từ thuở chào đời đã quen với việc cầm lấy và ăn, Chúa Giêsu bắt đầu nói: “Hãy cầm lấy mà ăn. Này là mình Thầy” (Mt 26:26). Cơ thể nhỏ bé của Hài Nhi Bêlem nói với chúng ta một phương thức mới để sống cuộc sống của chúng ta: không phải bằng cách ăn uống ngấu nghiến và tích trữ, nhưng bằng cách chia sẻ và cho đi. Thiên Chúa làm cho mình ra nhỏ bé để Ngài có thể là lương thực của chúng ta. Khi sống nhờ vào Ngài, bánh của sự sống, chúng ta có thể được tái sinh trong tình yêu, và phá vỡ vòng xoáy của sự giành giật và tham lam. Từ “nhà bánh’, Chúa Giêsu đưa chúng ta trở về nhà, để chúng ta có thể trở thành gia đình của Thiên Chúa, thành anh chị em với người lân cận. Đứng trước máng cỏ, chúng ta hiểu rằng lương thực của cuộc sống không phải là của cải vật chất mà là tình yêu, không vơ vét nhưng bác ái, không phô trương nhưng đơn giản.
Chúa biết rằng chúng ta cần được nuôi dưỡng hàng ngày. Đó là lý do tại sao Người hiến thân cho chúng ta mỗi ngày trong cuộc đời: từ máng cỏ ở Bêlem đến Phòng Tiệc Ly ở Giêrusalem. Hôm nay cũng vậy, trên bàn thờ, Ngài trở thành lương thực cho chúng ta; Ngài gõ cửa nhà chúng ta, để vào và cùng ăn với chúng ta (x. Kh 3:20). Vào ngày Giáng Sinh, chúng ta trên trái đất này đón nhận Chúa Giêsu, bánh từ trời xuống. Đó là một loại bánh không bao giờ hư nát, nhưng cho chúng ta ngay từ bây giờ được nếm hưởng trước cuộc sống vĩnh cửu.
Ở Bêlem, chúng ta khám phá ra rằng sự sống của Thiên Chúa có thể đi vào trái tim của chúng ta và ngự ở đó. Nếu chúng ta chào đón món quà này, lịch sử sẽ thay đổi, bắt đầu với mỗi người chúng ta. Vì, một khi Chúa Giêsu ngự trong lòng chúng ta, trung tâm của cuộc sống không còn là bản ngã hung hăng và ích kỷ của tôi nữa, nhưng là Đấng được sinh ra và sống vì tình yêu. Tối nay, khi chúng ta nghe thấy lời hiệu triệu đi lên Bêlem, ngôi nhà bánh, chúng ta hãy tự hỏi: Lương thực của cuộc đời tôi là gì, đâu là điều tôi không thể không có? Đó có phải là Chúa không, hay là điều gì khác? Sau đó, khi chúng ta bước vào máng lừa, cảm nhận được nơi sự nghèo khó của Hài Nhi mới sinh một mùi hương mới của cuộc sống, mùi của sự đơn sơ, chúng ta hãy tự hỏi: Tôi có thực sự cần tất cả những của cải vật chất và những công thức phức tạp này để sống không? Tôi có thể sống mà không cần tất cả các thứ phụ gia không cần thiết này và sống một cuộc sống đơn giản hơn không? Ở Bêlem, bên cạnh nơi Chúa Giêsu nằm, chúng ta nhìn thấy những người đã thực hiện một cuộc hành trình để đến đây: Đó là Đức Maria, Thánh Giuse và các mục đồng. Chúa Giêsu là lương thực cho cuộc hành trình. Ngài không thích những bữa ăn dài, kéo dài hết giờ này sang giờ khác, nhưng thúc giục chúng ta sớm đứng dậy ra khỏi bàn ăn để phục vụ, để là lương thực cho người khác. Chúng ta hãy tự hỏi: Vào mùa Giáng Sinh này tôi có chia sẻ cơm bánh của tôi với những người chẳng có gì để ăn không?
Sau ý tưởng Bêhem, là “nhà bánh”, chúng ta hãy suy ngẫm về Bêlem như là thành của vua Đavít. Ở đó, chàng trai trẻ Đavít là một người chăn cừu, và trong tư cách đó đã được Chúa chọn làm người chăn dắt và lãnh đạo dân Ngài. Vào ngày Giáng Sinh, tại thành vua Đavít, chính những người chăn cừu đã chào đón Chúa Giêsu bước vào thế giới. Trong đêm đó, Tin mừng cho chúng ta biết, những mục đồng đầy nỗi sợ hãi (Lc 2: 9), nhưng thiên thần nói với họ rằng “Đừng sợ” (câu 10). Đã bao nhiêu lần chúng ta nghe cụm từ này trong Tin mừng: “Đừng sợ”? Dường như Thiên Chúa liên tục lặp lại lời này khi Ngài tìm kiếm chúng ta. Bởi vì, ngay từ đầu, do tội lỗi của mình, chúng ta đã sợ hãi Chúa; sau khi phạm tội, ông Adong nói: “Tôi đã sợ nên tôi trốn tránh” (St 3:10). Bêlem là phương thuốc cho nỗi sợ hãi này, bởi vì bất kể bao nhiêu lần loài người nói “không”, Chúa vẫn không ngừng nói “có”. Ngài sẽ luôn là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Và e rằng sự hiện diện của Người gây ra kinh sợ, Ngài đã biến mình thành một đứa trẻ dịu dàng. Đừng sợ: những lời này không được nói cùng các vị thánh nhưng là với những người chăn cừu, những người đơn sơ, những người trong thời đó chắc chắn không nổi tiếng với những cách cư xử tinh tế và lòng đạo đức của họ. Con của vua Đavít được sinh ra giữa các mục đồng để nói với chúng ta rằng sẽ không bao giờ có ai một mình và bị bỏ rơi; chúng ta có một vị Mục Tử chinh phục mọi nỗi sợ hãi và yêu thương tất cả chúng ta, không trừ một ai.
Các mục đồng của Bêlem cũng cho chúng ta biết làm thế nào để ra đi gặp Chúa. Họ đã canh thức vào ban đêm: họ không ngủ vùi, nhưng làm những gì Chúa Giêsu thường yêu cầu tất cả chúng ta làm, cụ thể là tỉnh thức (x. Mt 25:13; Mc 13:35; Lc 21,36). Họ vẫn tỉnh táo và chăm chú trong bóng đêm; và khi đó ánh sáng của Thiên Chúa “chiếu rọi xung quanh họ” (Lc 2: 9). Đây cũng là trường hợp của chúng ta. Nếu cuộc sống của chúng ta được ghi dấu bằng sự chờ đợi, thì trong bối cảnh u ám của những nan đề, vẫn loé lên hy vọng vào Chúa, và lòng khao khát sự quang lâm của Người; và khi đó chúng ta sẽ nhận được cuộc sống của Người. Còn nếu như cuộc sống của chúng ta được đánh dấu bởi các mong muốn, trong đó tất cả những gì quan trọng đối với chúng ta chỉ là sức mạnh và khả năng của chúng ta; thì ánh sáng của Chúa bị cấm cản không đến được với con tim chúng ta. Chúa thích được chờ đợi, và chúng ta không thể chờ đợi Ngài bằng cách nằm dài trên băng ghế, ngủ vùi. Vì vậy, các mục đồng lập tức lên đường: chúng ta được cho biết rằng họ đã vội vã ra đi (câu 16). Họ không chỉ đứng đó như những người nghĩ rằng họ đã đến rồi và không cần phải làm gì thêm. Thay vào đó họ lên đường; họ bỏ lại bầy chiên không ai bảo vệ; họ mạo hiểm vì Chúa. Và sau khi nhìn thấy Chúa Giêsu, mặc dù họ không phải là những người đàn ông có thể dễ dàng tuôn ra những lời hay ý đẹp, họ ra đi để công bố sự chào đời của Hài Nhi mới sinh, vì thế “tất cả những người nghe thấy đều ngạc nhiên về những gì các mục đồng nói với họ” (câu 18).
Tỉnh thức, cất bước ra đi, mạo hiểm, kể lại vẻ đẹp: tất cả đều là những hành vi yêu mến. Vị Mục tử tốt lành, Đấng vào ngày Giáng Sinh đến để hiến mạng sống mình cho đàn chiên, sau này, vào lễ Phục sinh, đã hỏi Thánh Phêrô và, qua thánh nhân, Chúa hỏi tất cả chúng ta, câu hỏi cuối cùng này: “Con có yêu mến Thầy không?” (Ga 21,15). Tương lai của đàn chiên sẽ phụ thuộc vào cách câu hỏi đó được được trả lời. Tối nay chúng ta cũng được yêu cầu trả lời Chúa Giêsu với những lời: “Con yêu Chúa”. Câu trả lời được đưa ra bởi mỗi người là cần thiết cho cả đàn chiên.
“Nào chúng ta hãy sang Bêlem” (Lc 2:15). Với những lời này, các mục đồng đã lên đường. Lạy Chúa, chúng con cũng vậy, cũng muốn đi lên Bêlem. Cả ngày hôm nay, con đường cũng chông gai như thế: đỉnh cao của sự ích kỷ của chúng ta cần phải được vượt qua, và chúng ta không được lạc bước hoặc trượt vào tinh thần thế gian và chủ nghĩa tiêu thụ.
Lạy Chúa, con muốn đến Bêlem, vì có Chúa đang chờ đợi con ở đó. Con muốn nhận ra rằng Chúa, đang nằm trong máng cỏ, là lương thực đời con. Con cần hương thơm dịu dàng của tình yêu Chúa để đến lượt con, con có thể là chiếc bánh bẻ ra cho thế giới. Hãy đặt con trên vai của Chúa, vị Mục tử tốt lành; khi được Chúa yêu, con sẽ có thể yêu mến anh chị em của mình và chìa tay ra nắm lấy họ. Khi đó sẽ là ngày Giáng Sinh, khi con có thể nói với Chúa: “Lạy Chúa Chúa biết tất cả mọi thứ; Chúa biết con yêu Chúa” (x. Ga 21,17)
Kính thưa quý vị và anh chị em,
Trong phần lời nguyện giáo dân, bằng các ngôn ngữ Ý, Hoa, Anh, Ả rập, Pháp và tiếng Nga, cộng đoàn đã dâng lên Chúa những lời cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, các nhà lãnh đạo trên thế giới, cho trẻ em, người nghèo và người già và đặc biệt cho các linh mục.
Đức Thánh Cha nói:
Anh chị em thân mến, chúng ta hãy hợp tiếng với các thiên thần trong bài ca chúc tụng, ngợi khen Chúa vì sự trung tín của Người và xin Người ban cho chúng ta những ơn sủng và ơn cứu độ.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
1. Bằng tiếng Hoa
Chúng ta hãy cầu nguyện cho Đức Thánh Cha Phanxicô.
Lạy Chúa, là Cha của Ngôi Lời đã hoá thành nhục thể, xin gìn giữ Đức Thánh Cha Phanxicô mạnh mẽ trong đức tin, nhen nhóm lửa hy vọng trong lòng ngài và phủ lên ngài với lòng bác ái.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
2. Bằng tiếng Anh
Chúng ta hãy cầu nguyện cho các nhà lãnh đạo các dân nước và các tổ chức quốc tế.
Lạy Chúa, là Cha của Hoàng tử Hòa bình, xin nâng đỡ họ trong sự phục vụ mọi dân tộc, nâng cao lòng khao khát những điều thiện thực sự và hướng dẫn họ xây dựng một thế giới công bằng hơn.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
3. Bằng tiếng Ả rập
Chúng ta hãy cầu nguyện cho tất cả trẻ em.
Lạy Chúa, là Cha của Hài Nhi Bê-lem, xin giải thoát tất cả các trẻ em khỏi mọi hình thái bạo lực, xin truyền cho các em cảm hứng về niềm vui cuộc sống và đồng hành với sự tăng trưởng của chúng trong sự thánh thiện và khôn ngoan.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
4. Bằng tiếng Pháp
Chúng ta hãy cầu nguyện cho ơn thiên triệu
Lạy Chúa, là Cha của Linh mục Thượng tế đời đời, xin kêu gọi nhiều thanh niên đến với chức tư tế, nuôi dưỡng nơi các ngài lòng nhiệt thành Tin Mừng và truyền cảm hứng cho các ngài sẵn sàng trao ban cuộc sống mình cho anh chị em.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
5. Bằng tiếng Nga
Chúng ta hãy cầu nguyện cho người nghèo và những ai đang phải đau khổ
Lạy Chúa, là Cha của “nguồn ánh sáng chiếu dọi vào bóng tối”, xin chiếu soi những người nghèo và những ai đang phải đau khổ bằng sự hiện diện của Người, xin mở ra cho họ một lần nữa cánh cửa của sự sống và lấp đầy họ với sự quan phòng của Người.
Chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện lên Chúa.
Lạy Chúa, xin nhận lời chúng con.
Sau 5 ý nguyện trên, Đức Thánh Cha đã dâng lời nguyện sau thay mặt cho toàn thể cộng đoàn dân Chúa:
Lạy Cha trung tín và quan phòng, xin đoái nhận những lời tán tụng, ngợi khen và cầu nguyện của chúng con để chúng con xứng đáng nhận được ơn cứu rỗi được tỏ ra cho chúng con trong Con Cha, Đấng hằng sống và hiển trị đến muôn đời.