Hs 11,1.3-4.8c-9; Ep 3,8-12.14-19; Ga 19,31-37
TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI
1. TIN MỪNG: Ga 19,31-37.
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TỪ LỄ THÁNH TÂM ĐẾN LỄ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
Lòng sùng kính Thánh Tâm là sự tôn kính đặc biệt đối với tình yêu của Chúa Giê-su, hiện thân tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Đức Giê-su cũng đã biểu lộ tình yêu tột cùng với các môn đệ nên trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến tấm bánh không men dùng trong bữa tiệc chiên trở thành Thân Mình của Người sắp bị nộp vì tội lỗi nhân loại. Rồi Ngừoi cũng đọc lời truyền phép để biến chén rượu nho trong bữa Tiêc Ly trở thành chén Máu thánh của Người sắp đổ ra để đền tội cho nhân loại. Bí tích Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa Giê-su, được diễn tả cách rõ nét khi trên cây thập giá, Đức Giê-su còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn trúng trái tim và Máu cùng Nước đã chảy ra từ vết thương này, như đồ đệ Gioan đã làm chứng đã nhìn thấy và ghi chép trong sách Tin Mừng (x. Ga 19,34-35). Máu và Nước đó đã tuôn trào để tẩy rửa tội lỗi của loài người và cũng để ban ơn cứu độ và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã có từ thế kỷ XI. Nhưng mãi đến thế kỷ XVI, lòng sùng kính này vẫn chỉ mang tính riêng tư, gắn với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh của Chúa. Mãi đến ngày 31-8-1670 Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mới được cử hành tại Rennes nước Pháp, nhờ công khó của Thánh Jean Eudes (1602-1680). Từ Rennes, lòng sùng kính Thánh Tâm đã lan truyền đi nhiều nơi, nhưng phải chờ đến thánh nữ Margarette Marie Alacoque, lòng sùng kính Thánh Tâm mới có điều kiện lan rộng đi khắp nơi trên thế giới.
Trong những lần được thị kiến thấy Chúa Giê-su, thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE đã được Người mặc khải về hình ảnh một Trái Tim của Chúa Giê-su có ngọn lửa và vòng gai quấn quanh. Lần hiện ra quan trọng xảy ra vào ngày 16-6-1675, Chúa Giê-su đã hiện ra yêu cầu Thánh nữ Margarette xin với giáo quyền cho cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, để đền bù sự vô ơn bạc nghĩa của loài người đối với tình yêu vô cùng và sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-su. Thánh Tâm không những là biểu hiệu của một trái tim thể lý mà còn biểu hiệu tình yêu thương vô biên của Chúa đối với nhân loại.
Lòng sùng kính Thánh Tâm đã được phổ biến từ sau khi Thánh nữ Margarette Marie Alacoque qua đời vào năm 1690, nhưng phải mãi đến năm 1765, lễ Thánh Tâm mới được cử hành chính thức tại nước Pháp. Gần 100 năm sau (1856), ĐGH Piô IX đã truyền mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa cho toàn thể Hội Thánh theo đề nghị của Hội đồng Giám mục Pháp. Thánh Thể và Thánh Tâm đều là Nguồn Tình Yêu vô biên của Chúa Giê-su, Đấng đã yêu thương nhân loại tội lỗi đến cùng, đến nỗi bằng lòng chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá để đền bù tội lỗi của họ và ban ơn cứu độ cho họ.
Ngày nay, Chúa Giê-su cũng đã mặc khải về Lòng Thương Xót của Người cho Thánh nữ FAUSTINA KOWALSKA người Ba Lan (1905-1938). Người cũng yêu cầu thánh nữ hãy xin với giáo quyền thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót bằng những lời sau: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót đã được đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II người Ba-lan chính thức thiết lập vào ngày 30/4/2000 và truyền mừng trọng thể lễ kính Lòng Chúa Thương Xót trong toàn thể Hội Thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm.
Gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô tyuyên bố sẽ chính thức mở Năm Thánh Kính Lòng Chúa Thương Xót (2016) để tạo cơ hội cho các con cái Hội Thánh khám phá những nét mới mẻ của Lòng Chúa Thương Xót, kín múc dồi dào những hồng ân đang tuôn trào từ nguồn suối vô tận là Trái Tim rất thánh của Chúa Giê-su. Trong Năm Thánh này, hãy để cho Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa thanh tẩy và nhào nắn chúng ta nên những tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, nhờ đó lòng tràn ngập niềm vui chúng ta sẽ đủ tự tin ra đi để chia sẻ tình thương của Chúa đến cho mọi người.
2) MƯỜI HAI LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Để khuyến khích mọi người hiểu biết lợi ích của việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Người đã hứa với Thánh nữ Margarette Marie Alacoque sẽ ban những ơn ích thiêng liêng cho những ai sùng kính Thánh Tâm như sau:
1-Ta sẽ ban cho họ mọi ân sủng cần thiết trong đời sống.
2-Ta sẽ ban bình an cho gia đình họ và sẽ tái hợp các gia đình đã ly tan.
3-Ta sẽ an ủi họ trong mọi lúc khó khăn.
4-Ta sẽ là nơi họ trú ẩn khi sống và trước khi chết.
5-Ta sẽ ban Phép Lành Nước Trời trên công việc của họ.
6-Các tội nhân sẽ tìm được Nguồn Thương Xót vô hạn nơi Thánh Tâm Ta.
7-Các linh hồn lạnh nhạt sẽ trở nên nhiệt thành.
8-Các linh hồn nhiệt thành sẽ mau đạt tới sự trọn lành.
9-Ta sẽ chúc lành cho nơi nào trưng bày và tôn sùng linh ảnh Thánh Tâm Ta, và Ta sẽ ghi dấu tình yêu của Ta vào lòng những người đeo hình Thánh Tâm Ta. Ta cũng sẽ phá hủy mọi sự rối loạn nơi họ.
10-Các linh mục nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm Ta thì Ta sẽ ban cho họ ơn hoán cải các linh hồn chai cứng nhất.
11-Những người truyền bá lòng tôn sùng này sẽ được ghi tên trong Thánh Tâm Ta, không bao giờ phai nhòa.
12-Ta hứa với lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Ta rằng những người rước lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng trong 9 tháng liên tiếp, tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ ban cho ơn ăn năn trở lại trong cuối đời: Họ sẽ không chết trong tình trạng thất sủng hoặc không được lãnh nhận các bí tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong giờ sau hết.
Lời Chúa hứa luôn chắc chắn. Hãy tin tưởng và hãy dành 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, nghĩa là thực hành việc tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm Chúa Giê-su liên tục và rước lễ trong 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng.
3) SỨC MẠNH CỦA ẢNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Vào năm 1597 lệnh cấm đạo Công Giáo trên đất Nhật xảy ra gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố.
Tại vùng ODAWARA, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng và giải về Tokyo. Quan đại thần TSUKAMOTO lấy từ trong đống ảnh đạo một bức ảnh Thánh tâm Chúa Giê-su. Ông nói: Người gì đâu lại để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế và thích tìm hiểu. Ông cầm bức ảnh trái tim Chúa coi qua rồi vứt vào trong sọt rác. Nhưng đến tối khi đi ngủ, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn phải có một ý nghĩa nào đó. Ông ra nhặt lại bức ảnh trên để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà ông vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ sau: ”đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim Chúa trên bàn làm việc cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên OSAKI đến chơi, thấy bức ảnh liền hỏi :
- Này anh bạn. Anh lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao ?
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi lại thấy rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình, hành động cùng lối xử thế của Kitô giáo. Tôi xin tạm giải thích như sau: Đối với tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên người theo đạo mới vẽ trái tim ra ngoài cơ thể... Nghĩa là phải đem hết tình yêu nơi trái tim mà phục vụ xã hội và giúp ích cho đời; còn về phần mình thì chấp nhận hy sinh, không lo riêng cho bản thân, diệt trừ cái ngã vị kỷ. Đem hết tình thương ra giúp đời giúp người.
Trong bức ảnh này tôi nhận thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Đức Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng Tử, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão Tử, mạnh mẽ hơn cái Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản chúng ta. Một tôn giáo dạy phải phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là sự ngay chính của cả Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt tinh thông của ông bạn. Ông không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu đến như vậy. Từ đó hai ông đã trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm đón nhận phép rửa tội, và vận động triều đình thả hai linh mục ra.
(Trích trong: Hạt giống nảy mầm).
3. THẢO LUẬN:
1) Thánh Tâm Chúa Giê-su đã biểu lộ tình yêu tột cùng đối với loài người chúng ta thế nào ?
2) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thể hiện tình yêu đối với tha nhân hầu đáp lại tình yêu vô biên của Chúa Giê-su đối với chúng ta ?
4. SUY NIỆM:
1) Ngọn lửa yêu mến phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su đã nói về lửa yêu mến của Người: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Ngọn lửa yêu thương của Chúa cần được bùng cháy lên trong tâm hồn các tín hữu. Trên cây thập giá Người đã nói: “Ta khát” (Ga 19,28), Ngài khát tình yêu của chúng ta và Người đã yêu thương chúng ta. Ngôn sứ Hôsê tuyên sấm về tình yêu của Đức Chúa như sau: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (x. Hs 11,8). Chúa Giê-su đã chứng tỏ tình yêu tột cùng của Người đối với chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người yêu thương chúng ta vô điều kiện, yêu ta ngay khi chúng ta đang còn là tội nhân (Rm 5:8) và yêu đến tột cùng (ga 13:1). Người muốn chúng ta học nơi Người về phong cách yêu thương là đối xử dịu hiền và khiêm tốn phục vụ người mình yêu: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Chúng ta không thể không yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Ngày nay chúng ta không thể đến được với Thiên Chúa Cha nếu không đi con đường Giê-su là yêu thương chia sẻ hạnh phúc cho tha nhân: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Người đến để yêu thương là “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:9-10).
2) Sức mạnh của lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa:
Lửa có đặc tính kỳ diệu: Lửa có vẻ mềm yếu nhưng cũng có sức mạnh to lớn– mạnh hơn mọi thứ sức mạnh. Một đốm lửa nhỏ có thể dập tắt dễ dàng bằng một làn gió nhẹ, nhưng một ngọn lửa lớn thì không dễ gì dập tắt được. Gió càng lớn lại càng làm cho ngọn lửa bùng cháy mạnh hơn. Lửa khi được chia sẻ ra nhiều không hề giảm bớt sức mạnh mà càng nhân sức mạnh thêm lên nhiều! Lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su cũng có sức mạnh như vậy. Ai yêu mến Chúa và kết hiệp với Chúa thì sẽ được Người thông ban ngọn lửa yêu mến có tác động kỳ diệu đến những tâm hồn khô khan nguội lạnh như vậy.
3) Thánh Thể gắn liền với Thánh Tâm: Trong tuần Chúa Nhật lễ kính Thánh Thể Chúa Giê-su, Hội Thánh cũng mừng kính Thánh Tâm Chúa vào ngày thứ sáu.
Khi diễn tả tình yêu, người ta thường dùng hình ảnh trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu. Qua đó cho thấy: Yêu là CHO nhiều hơn NHẬN! và mọi người đều muốn yêu và được yêu. Con tim có những lý lẽ riêng mà lý trí không thể hiểu biết được, như lời thánh Phao-lô trong thư Rô-ma: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
4) Sống yêu thương bằng việc quảng đại chia sẻ cho đi:
Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta qua việc chậm giận và hay tha thứ, ở lại trong tình yêu của Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ điều răn của Chúa.
Tác giả thánh vịnh 103 diễn tả tình yêu của Chúa cụ thể như sau: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8 và 10).
Thánh Gio-an cũng khuyên các tín hữu yêu thương nhau như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8).
Thánh nhân cũng mời gọi các tín hữu yêu thương nhau: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau... Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16).
Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là tín thác mọi sự cho lòng thương xót của Người, tin Chúa bằng cả con người của chúng ta chứ không chỉ bằng môi miệng bề ngoài. Chúa Giê-su luôn mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Yêu ai thì làm theo ý người đó, muốn cho người ấy được vui và muốn nên giống người ấy.
Tình yêu của Chúa Giê-su đã được Người diễn tả qua hình ảnh “TRÁI TIM BỊ ĐÂM THÂU”. Vì thế, Người đã bày tỏ cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta (thế kỷ 15) hình ảnh “TRÁI TIM CÓ LỬA VẤN VÒNG GAI” chung quanh và truyền cho Ma-ga-ri-ta hãy truyền bá rộng rãi ảnh này khắp nơi.
5. LỜI CẦU:
“Ôi Giêsu, tình yêu của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con; ơn gọi của con là tình yêu…Vâng lạy Thiên Chúa của con. Giữa lòng Hội Thánh, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả và giấc mơ của con sẽ mỹ mãn”... “Xin ban cho con tình yêu của Chúa, con vui lòng làm hy tế cho tình yêu, nghĩa là, nhận lấy tất cả tình yêu mà người khác không muốn lãnh nhận, bởi vì họ không để cho Chúa yêu họ theo cách Ngài muốn”. (Theo thánh Tê-rê-sa HĐ)
TÌNH CHÚA TÌNH NGƯỜI
1. TIN MỪNG: Ga 19,31-37.
31 Hôm đó là ngày áp lễ, người Do-thái không muốn để xác chết trên thập giá trong ngày sa-bát, mà ngày sa-bát đó lại là ngày lễ lớn. Vì thế họ xin ông Phi-la-tô cho đánh giập ống chân các người bị đóng đinh và lấy xác xuống.32 Quân lính đến, đánh giập ống chân người thứ nhất và người thứ hai cùng bị đóng đinh với Đức Giê-su.33 Khi đến gần Đức Giê-su và thấy Người đã chết, họ không đánh giập ống chân Người.34 Nhưng một người lính lấy giáo đâm vào cạnh sườn Người. Tức thì, máu cùng nước chảy ra.35 Người xem thấy việc này đã làm chứng, và lời chứng của người ấy xác thực; và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin.36 Các việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: Không một khúc xương nào của Người sẽ bị đánh giập.37 Lại có lời Kinh Thánh khác: Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.
2. CÂU CHUYỆN:
1) LỊCH SỬ TỪ LỄ THÁNH TÂM ĐẾN LỄ LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT.
Lòng sùng kính Thánh Tâm là sự tôn kính đặc biệt đối với tình yêu của Chúa Giê-su, hiện thân tình yêu vô cùng của Thiên Chúa Ba Ngôi đối với loài người. Đức Giê-su cũng đã biểu lộ tình yêu tột cùng với các môn đệ nên trong bữa Tiệc Ly Vượt Qua vào chiều Thứ Năm Tuần Thánh, Người đã lập bí tích Thánh Thể để biến tấm bánh không men dùng trong bữa tiệc chiên trở thành Thân Mình của Người sắp bị nộp vì tội lỗi nhân loại. Rồi Ngừoi cũng đọc lời truyền phép để biến chén rượu nho trong bữa Tiêc Ly trở thành chén Máu thánh của Người sắp đổ ra để đền tội cho nhân loại. Bí tích Thánh Thể biểu lộ tình yêu của Chúa Giê-su, được diễn tả cách rõ nét khi trên cây thập giá, Đức Giê-su còn bị lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn trúng trái tim và Máu cùng Nước đã chảy ra từ vết thương này, như đồ đệ Gioan đã làm chứng đã nhìn thấy và ghi chép trong sách Tin Mừng (x. Ga 19,34-35). Máu và Nước đó đã tuôn trào để tẩy rửa tội lỗi của loài người và cũng để ban ơn cứu độ và giao hòa loài người với Thiên Chúa.
Lòng sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su đã có từ thế kỷ XI. Nhưng mãi đến thế kỷ XVI, lòng sùng kính này vẫn chỉ mang tính riêng tư, gắn với lòng sùng kính Năm Dấu Thánh của Chúa. Mãi đến ngày 31-8-1670 Lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su mới được cử hành tại Rennes nước Pháp, nhờ công khó của Thánh Jean Eudes (1602-1680). Từ Rennes, lòng sùng kính Thánh Tâm đã lan truyền đi nhiều nơi, nhưng phải chờ đến thánh nữ Margarette Marie Alacoque, lòng sùng kính Thánh Tâm mới có điều kiện lan rộng đi khắp nơi trên thế giới.
Trong những lần được thị kiến thấy Chúa Giê-su, thánh nữ MARGARETTE MARIE ALACOQUE đã được Người mặc khải về hình ảnh một Trái Tim của Chúa Giê-su có ngọn lửa và vòng gai quấn quanh. Lần hiện ra quan trọng xảy ra vào ngày 16-6-1675, Chúa Giê-su đã hiện ra yêu cầu Thánh nữ Margarette xin với giáo quyền cho cử hành lễ Thánh Tâm Chúa Giê-su vào ngày thứ Sáu sau lễ kính Mình Máu Thánh Chúa, để đền bù sự vô ơn bạc nghĩa của loài người đối với tình yêu vô cùng và sự hy sinh cao cả của Chúa Giê-su. Thánh Tâm không những là biểu hiệu của một trái tim thể lý mà còn biểu hiệu tình yêu thương vô biên của Chúa đối với nhân loại.
Lòng sùng kính Thánh Tâm đã được phổ biến từ sau khi Thánh nữ Margarette Marie Alacoque qua đời vào năm 1690, nhưng phải mãi đến năm 1765, lễ Thánh Tâm mới được cử hành chính thức tại nước Pháp. Gần 100 năm sau (1856), ĐGH Piô IX đã truyền mừng kính lễ Thánh Tâm Chúa cho toàn thể Hội Thánh theo đề nghị của Hội đồng Giám mục Pháp. Thánh Thể và Thánh Tâm đều là Nguồn Tình Yêu vô biên của Chúa Giê-su, Đấng đã yêu thương nhân loại tội lỗi đến cùng, đến nỗi bằng lòng chịu chết nhục nhã trên cây thánh giá để đền bù tội lỗi của họ và ban ơn cứu độ cho họ.
Ngày nay, Chúa Giê-su cũng đã mặc khải về Lòng Thương Xót của Người cho Thánh nữ FAUSTINA KOWALSKA người Ba Lan (1905-1938). Người cũng yêu cầu thánh nữ hãy xin với giáo quyền thiết lập lễ kính Lòng Chúa Thương Xót bằng những lời sau: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Lễ kính Lòng Chúa Thương Xót đã được đức thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II người Ba-lan chính thức thiết lập vào ngày 30/4/2000 và truyền mừng trọng thể lễ kính Lòng Chúa Thương Xót trong toàn thể Hội Thánh vào Chúa Nhật II Phục Sinh hằng năm.
Gần đây, Đức Thánh Cha Phanxicô tyuyên bố sẽ chính thức mở Năm Thánh Kính Lòng Chúa Thương Xót (2016) để tạo cơ hội cho các con cái Hội Thánh khám phá những nét mới mẻ của Lòng Chúa Thương Xót, kín múc dồi dào những hồng ân đang tuôn trào từ nguồn suối vô tận là Trái Tim rất thánh của Chúa Giê-su. Trong Năm Thánh này, hãy để cho Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa thanh tẩy và nhào nắn chúng ta nên những tông đồ của Lòng Chúa Thương Xót, nhờ đó lòng tràn ngập niềm vui chúng ta sẽ đủ tự tin ra đi để chia sẻ tình thương của Chúa đến cho mọi người.
2) MƯỜI HAI LỜI HỨA CỦA THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Để khuyến khích mọi người hiểu biết lợi ích của việc sùng kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, Người đã hứa với Thánh nữ Margarette Marie Alacoque sẽ ban những ơn ích thiêng liêng cho những ai sùng kính Thánh Tâm như sau:
1-Ta sẽ ban cho họ mọi ân sủng cần thiết trong đời sống.
2-Ta sẽ ban bình an cho gia đình họ và sẽ tái hợp các gia đình đã ly tan.
3-Ta sẽ an ủi họ trong mọi lúc khó khăn.
4-Ta sẽ là nơi họ trú ẩn khi sống và trước khi chết.
5-Ta sẽ ban Phép Lành Nước Trời trên công việc của họ.
6-Các tội nhân sẽ tìm được Nguồn Thương Xót vô hạn nơi Thánh Tâm Ta.
7-Các linh hồn lạnh nhạt sẽ trở nên nhiệt thành.
8-Các linh hồn nhiệt thành sẽ mau đạt tới sự trọn lành.
9-Ta sẽ chúc lành cho nơi nào trưng bày và tôn sùng linh ảnh Thánh Tâm Ta, và Ta sẽ ghi dấu tình yêu của Ta vào lòng những người đeo hình Thánh Tâm Ta. Ta cũng sẽ phá hủy mọi sự rối loạn nơi họ.
10-Các linh mục nhiệt thành tôn sùng Thánh Tâm Ta thì Ta sẽ ban cho họ ơn hoán cải các linh hồn chai cứng nhất.
11-Những người truyền bá lòng tôn sùng này sẽ được ghi tên trong Thánh Tâm Ta, không bao giờ phai nhòa.
12-Ta hứa với lòng thương xót vô biên của Thánh Tâm Ta rằng những người rước lễ vào Thứ Sáu Đầu Tháng trong 9 tháng liên tiếp, tình yêu mãnh liệt của Ta sẽ ban cho ơn ăn năn trở lại trong cuối đời: Họ sẽ không chết trong tình trạng thất sủng hoặc không được lãnh nhận các bí tích. Thánh Tâm Ta sẽ là nơi trú ẩn an toàn cho họ trong giờ sau hết.
Lời Chúa hứa luôn chắc chắn. Hãy tin tưởng và hãy dành 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng để tôn kính Thánh Tâm Chúa Giê-su, nghĩa là thực hành việc tôn sùng và yêu mến Thánh Tâm Chúa Giê-su liên tục và rước lễ trong 9 ngày Thứ Sáu Đầu Tháng.
3) SỨC MẠNH CỦA ẢNH THÁNH TÂM CHÚA GIÊ-SU:
Vào năm 1597 lệnh cấm đạo Công Giáo trên đất Nhật xảy ra gắt gao. Chỉ trong một tuần lễ, mọi cơ sở Công Giáo đều bị triệt hạ, giáo sĩ bị bắt gần hết, giáo dân bị phân tán và khủng bố.
Tại vùng ODAWARA, Kamakura, người ta bắt được hai Linh mục trẻ tuổi là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh tượng và giải về Tokyo. Quan đại thần TSUKAMOTO lấy từ trong đống ảnh đạo một bức ảnh Thánh tâm Chúa Giê-su. Ông nói: Người gì đâu lại để trái tim ra ngoài !
Tsukamoto là một nhà nho uyên bác có óc thực tế và thích tìm hiểu. Ông cầm bức ảnh trái tim Chúa coi qua rồi vứt vào trong sọt rác. Nhưng đến tối khi đi ngủ, ông nhớ lại và nghĩ bức ảnh kỳ lạ kia hẳn phải có một ý nghĩa nào đó. Ông ra nhặt lại bức ảnh trên để trên bàn và suy nghĩ. Trời đã về khuya mà ông vẫn ngồi bất động một mình với bức ảnh trước mặt. Mãi đến gần một giờ sáng, vị đại thần mới thở ra nhẹ nhàng khoan khoái, tay cầm bút lông ghi dưới bức ảnh mấy chữ sau: ”đối ngoại hữu kỳ tâm – đối nội vô tâm giả”.
Từ đó Tsukamoto đặt bức ảnh trái tim Chúa trên bàn làm việc cách kín cẩn. Một hôm có ông bạn tên OSAKI đến chơi, thấy bức ảnh liền hỏi :
- Này anh bạn. Anh lại thích ảnh tượng của bọn tả đạo rồi sao ?
- Đứng về mặt chính trị của triều đình thì tôi không dám phản kháng. Nhưng về mặt văn hóa và nhân đạo thì tôi lại thấy rất thích bức ảnh này. Phải chăng bức ảnh này đã nói lên chương trình, hành động cùng lối xử thế của Kitô giáo. Tôi xin tạm giải thích như sau: Đối với tha nhân bên ngoài thì “Hữu Tâm”, còn với bản thân mình thì “Vô Tâm”. Cho nên người theo đạo mới vẽ trái tim ra ngoài cơ thể... Nghĩa là phải đem hết tình yêu nơi trái tim mà phục vụ xã hội và giúp ích cho đời; còn về phần mình thì chấp nhận hy sinh, không lo riêng cho bản thân, diệt trừ cái ngã vị kỷ. Đem hết tình thương ra giúp đời giúp người.
Trong bức ảnh này tôi nhận thấy đầy đủ hơn cả cái học Từ Bi của Đức Phật, khoan dung hơn cái Nhân Thứ của Khổng Tử, cao siêu hơn cái Vô Ngã của Lão Tử, mạnh mẽ hơn cái Dũng thuật của Thần Đạo Nhật bản chúng ta. Một tôn giáo dạy phải phụng sự nhân loại, yêu thương mọi người, không quan tâm đến tư lợi, thì quả là sự ngay chính của cả Thiên hạ vậy.
Osaki cảm phục sự diễn đạt tinh thông của ông bạn. Ông không ngờ Đạo Công Giáo lại hàm chứa một triết lý nhân sinh cao siêu đến như vậy. Từ đó hai ông đã trở nên những người bạn chí thân và đã âm thầm đón nhận phép rửa tội, và vận động triều đình thả hai linh mục ra.
(Trích trong: Hạt giống nảy mầm).
3. THẢO LUẬN:
1) Thánh Tâm Chúa Giê-su đã biểu lộ tình yêu tột cùng đối với loài người chúng ta thế nào ?
2) Mỗi người chúng ta cần làm gì để thể hiện tình yêu đối với tha nhân hầu đáp lại tình yêu vô biên của Chúa Giê-su đối với chúng ta ?
4. SUY NIỆM:
1) Ngọn lửa yêu mến phát xuất từ Thánh Tâm Chúa Giê-su:
Chúa Giê-su đã nói về lửa yêu mến của Người: “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc 12:49). Ngọn lửa yêu thương của Chúa cần được bùng cháy lên trong tâm hồn các tín hữu. Trên cây thập giá Người đã nói: “Ta khát” (Ga 19,28), Ngài khát tình yêu của chúng ta và Người đã yêu thương chúng ta. Ngôn sứ Hôsê tuyên sấm về tình yêu của Đức Chúa như sau: “Trái tim Ta thổn thức, ruột gan Ta bồi hồi” (x. Hs 11,8). Chúa Giê-su đã chứng tỏ tình yêu tột cùng của Người đối với chúng ta: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Người yêu thương chúng ta vô điều kiện, yêu ta ngay khi chúng ta đang còn là tội nhân (Rm 5:8) và yêu đến tột cùng (ga 13:1). Người muốn chúng ta học nơi Người về phong cách yêu thương là đối xử dịu hiền và khiêm tốn phục vụ người mình yêu: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:29). Chúng ta không thể không yêu thương vì “Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:8). Ngày nay chúng ta không thể đến được với Thiên Chúa Cha nếu không đi con đường Giê-su là yêu thương chia sẻ hạnh phúc cho tha nhân: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6). Người đến để yêu thương là “cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10:9-10).
2) Sức mạnh của lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa:
Lửa có đặc tính kỳ diệu: Lửa có vẻ mềm yếu nhưng cũng có sức mạnh to lớn– mạnh hơn mọi thứ sức mạnh. Một đốm lửa nhỏ có thể dập tắt dễ dàng bằng một làn gió nhẹ, nhưng một ngọn lửa lớn thì không dễ gì dập tắt được. Gió càng lớn lại càng làm cho ngọn lửa bùng cháy mạnh hơn. Lửa khi được chia sẻ ra nhiều không hề giảm bớt sức mạnh mà càng nhân sức mạnh thêm lên nhiều! Lửa yêu mến từ Thánh Tâm Chúa Giê-su cũng có sức mạnh như vậy. Ai yêu mến Chúa và kết hiệp với Chúa thì sẽ được Người thông ban ngọn lửa yêu mến có tác động kỳ diệu đến những tâm hồn khô khan nguội lạnh như vậy.
3) Thánh Thể gắn liền với Thánh Tâm: Trong tuần Chúa Nhật lễ kính Thánh Thể Chúa Giê-su, Hội Thánh cũng mừng kính Thánh Tâm Chúa vào ngày thứ sáu.
Khi diễn tả tình yêu, người ta thường dùng hình ảnh trái tim bị lưỡi gươm đâm thâu. Qua đó cho thấy: Yêu là CHO nhiều hơn NHẬN! và mọi người đều muốn yêu và được yêu. Con tim có những lý lẽ riêng mà lý trí không thể hiểu biết được, như lời thánh Phao-lô trong thư Rô-ma: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi. Đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5:8).
4) Sống yêu thương bằng việc quảng đại chia sẻ cho đi:
Thiên Chúa đã yêu thương loài người chúng ta qua việc chậm giận và hay tha thứ, ở lại trong tình yêu của Chúa Giê-su bằng cách tuân giữ điều răn của Chúa.
Tác giả thánh vịnh 103 diễn tả tình yêu của Chúa cụ thể như sau: “Chúa là Đấng từ bi nhân hậu, Người chậm giận và giàu tình thương, chẳng trách cứ luôn luôn, không oán hờn mãi mãi. Người không cứ tội ta mà xét xử, không trả báo ta xứng với lỗi lầm” (Tv 103:8 và 10).
Thánh Gio-an cũng khuyên các tín hữu yêu thương nhau như sau: “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu” (1 Ga 4:7-8).
Thánh nhân cũng mời gọi các tín hữu yêu thương nhau: “Anh em thân mến, nếu Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta như thế, chúng ta cũng phải yêu thương nhau... Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4:15-16).
Tin vào tình yêu của Thiên Chúa là tín thác mọi sự cho lòng thương xót của Người, tin Chúa bằng cả con người của chúng ta chứ không chỉ bằng môi miệng bề ngoài. Chúa Giê-su luôn mời gọi các môn đệ: “Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy” (Ga 15:9). “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15:10). Yêu ai thì làm theo ý người đó, muốn cho người ấy được vui và muốn nên giống người ấy.
Tình yêu của Chúa Giê-su đã được Người diễn tả qua hình ảnh “TRÁI TIM BỊ ĐÂM THÂU”. Vì thế, Người đã bày tỏ cho thánh nữ Ma-ga-ri-ta (thế kỷ 15) hình ảnh “TRÁI TIM CÓ LỬA VẤN VÒNG GAI” chung quanh và truyền cho Ma-ga-ri-ta hãy truyền bá rộng rãi ảnh này khắp nơi.
5. LỜI CẦU:
“Ôi Giêsu, tình yêu của con, cuối cùng con đã tìm thấy ơn gọi của con; ơn gọi của con là tình yêu…Vâng lạy Thiên Chúa của con. Giữa lòng Hội Thánh, con sẽ là tình yêu. Như thế, con sẽ là tất cả và giấc mơ của con sẽ mỹ mãn”... “Xin ban cho con tình yêu của Chúa, con vui lòng làm hy tế cho tình yêu, nghĩa là, nhận lấy tất cả tình yêu mà người khác không muốn lãnh nhận, bởi vì họ không để cho Chúa yêu họ theo cách Ngài muốn”. (Theo thánh Tê-rê-sa HĐ)