Ngày thứ hai của Tuần Tĩnh Tâm (Thứ Ba, 22.02.2005)

Hôm nay là ngày Lễ LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ.

Đúng 08 g., Đức Cha Giảng Phòng hướng dẫn bài thứ hai như sau.

“Trọng kính Đức Tổng,

Kính thưa Đức Cha Phụ Tá,

Kính thưa Cha Tổng Đại Diện và Quý Cha,

Chúng ta đang sống trong Mùa Chay. Giáo Hội dạy chúng ta sống trong tinh thần của ba điều: điều thứ nhứt, đối với Thiên Chúa, là cầu nguyện; điều thứ hai, đối với chính mình, là hãm mình hy sinh; điều thứ ba, đối với tha nhân, là làm việc bác ái.

Muốn trở thành người Kitô-hữu chân chính, và còn hơn nữa, muốn là linh mục chân chính, chúng ta không thể thiếu được sự cầu nguyện và hy sinh trong của mình.

Hai vấn đề nầy quan trọng, cho nên dành thời giờ ngày hôm nay để làm quen với hai cái trục: cầu nguyện và hy sinh.

Sáng hôm nay, tôi xin đưa ra một hình thức cầu nguyện: cầu nguyện và dấn thân vào đời.

Trong những cuộc bàn cãi về vấn đề cầu nguyện, ngày nay người ta nói nhiều đến việc chú giải Phúc Âm theo chiều dọc và chiều ngang, tầm mức dọc ngang trong đời sống con người.

Nói đến chiều dọc, chúng ta hiểu con người tìm về với Thiên Chúa, con người gắng vươn lên đến Đấng Siêu Việt, cố tìm sự cứu rỗi và thánh hóa linh hồn. Cầu nguyện và chiêm niệm theo nghĩa cổ truyền, là những yếu tố thuộc lĩnh vực chiều dọc. Khi chúng ta nói: “Lạy Cha chúng tôi”, chúng ta hướng về Thiên Chúa theo chiều dọc. Khi chúng ta coi Mầu Nhiệm Thánh Thể như một hy lễ, một cuộc hiến dâng lễ vật lên Thiên Chúa, lúc đó chúng ta ở trong bình diện dọc.

Nói đến bình diện ngang, chúng ta hiểu con người quay sang với anh em đồng loại, thiết lập những liên lạc chính cống thuộc nhân loại với người anh em, làm lành cho người anh em, giúp anh em cải tạo thế giới thành chỗ trú ngụ hoàn hảo. Việc Tông đồ trong nhiều thực hiện cụ thể - giảng, dạy, giúp người xấu số, nâng đỡ các quốc gia đang mở mang - có chiều hướng mạnh mẽ nghiêng về chiều ngang. Khi chúng ta xem Thánh Thể như một bữa tiệc liên kết, siết chặt tình thân hữu với nhau, lúc đó cái nhìn ấy nằm trên bình diện hàng ngang vậy.

Sách vở báo chí thần học hậu Công Đồng và chiều hướng của người hiện đại, nặng tính chất hàng ngang. Chúng ta phải nói gì về chiều hướng này?

Xem ra chiều hướng coi trọng hàng ngang mang lại một sự điều chỉnh cần thiết và quan trọng cho sự hiểu biết con người về mình và về thiên chức mình. Nó nhấn mạnh rằng không có lòng mến Chúa thật sự nếu không có sự yêu người; rằng con người có trách nhiệm đối với anh em đồng loại. Thế hệ hôm nay không thể hiểu một linh mục chỉ trung thành với kinh nguyện, ngoài ra không thể sống với tha nhân và không làm việc gì khác. Có một số linh mục trung thành với kinh nguyện thiêng liêng, sẵn sàng để nhiều thì giờ ở trong nhà nguyện, nhưng họ ít giao tiếp và tránh dính dấp với dân chúng. Có một sự trục trặc trong việc giao tiếp với Chúa, nếu sự giao tiếp ấy làm cản trở, thay vì hậu thuẫn cho công cuộc truyền giáo giữa dân chúng. Đó đúng là điều ngày nay nhiều người không hiểu và đang đả kích: điều gọi là ẩn náu vào trong các việc thiêng liêng, trốn tránh dấn thân với đồng loại. Họ cảm thấy có cái gì không xuôi trong thái độ ấy. Mà có thực như vậy. Họ cũng không hiểu những người Công giáo giàu có đến nhà thờ đều đều, cầu nguyện, đóng góp nâng đỡ nhà thờ, đồng thời khai thác người nghèo không chút thương tâm. Họ nghĩ có cái gì trục trặc ở đây. Và họ có lý. Thiết nghĩ lưu ý đến bình diện hàng ngang sẽ giúp ta hiểu biết một cách mới mẻ trách nhiệm con người đối với đồng loại. Đó là một lợi điểm chúng ta đừng bỏ mất.

Đáng nghi ngờ, khi bình diện hàng ngang được nhấn mạnh nhiều quá đến nỗi làm người ta ít chú trọng hay không chú trọng gì ráo đến bình diện hàng dọc. Điều có thể xảy ra trong phạm vi thực hành như người ta quá bận với những hoạt động bên ngoài đến nỗi không có thì giờ để cầu nguyện nữa. Hoặc điều đó có thể xảy ra trong phạm vi lý thuyết, như người ta chủ trương rằng chỉ gặp Thiên Chúa và Đức Kytô nơi đồng loại, rằng hoạt động tức là đọc kinh, rằng chỉ có một loại cầu nguyện cần thiết là suy nghĩ tính xem làm thế nào để chu toàn nghĩa vụ và giao dịch với người khác.

Xin đan cử một ví dụ: mới đây trong một Hội Dòng nọ, có phát hành một bản câu hỏi yêu cầu các phần tử của dòng cho ý kiến về những điểm thực hành trong luật dòng: thời khắc biểu, thăm viếng tư gia, nghỉ hè v.v… Một trong số các câu hỏi nêu lên: “Có phải giữ thời gian suy gẫm mỗi ngày 45 phút như từ trước đến giờ, hay là nên rút lại còn nửa giờ ?” Một tu sĩ trẻ lúc đó đến gặp Cha Bề trên và nói: “Thưa Cha, câu hỏi này làm cho chúng con hết ngõ cho ý kiến. Câu ấy hỏi, có nên suy gẫm trong 45 phút hay nửa giờ. Chúng con không nghĩ là phải suy ngắm gì nữa cả.” Rồi anh ta tiếp tục dẫn giải: “khi chúng con đi ra thành phố để làm việc mục vụ, thỉnh thoảng chúng con đi một mình, thỉnh thoảng chúng con đi thành toán. Khi chúng con đi một mình, chúng con suy nghĩ điều chúng con sắp làm khi đến đó. Khi chúng con đi thành toán, chúng con tranh biện với nhau điều chúng con sẽ làm khi xuống đó. Đó là kinh nguyện của chúng con. Chứ còn để ra nửa giờ trong một ngày để nói chuyện với Chúa …” Anh ta nhún vai!

Các cha thấy đối với người này, cầu nguyện như là một thái độ đến gần Chúa đã hoàn toàn nhường chỗ cho sự chăm lo cho đồng loại. Đến mức đó thì cán cân thăng bằng lệch hẳn về bên kia, và sự lệch lạc ấy cũng có hại không kém gì thái độ trước - thái độ trốn đời - mà chúng ta đang cố gắng sửa chữa.

ĐỨC KYTÔ

Điều quyết liệt đối với chúng ta trong tất cả vấn đề này là Đức Kytô. Khi chúng ta bàn đến vấn đề như liên quan với Chúa, với đồng loại, với thế giới, thì nguồn cảm hứng sâu xa của chúng ta phải là Đức Kytô. Đó cũng là điều chính Đức Kytô và Phúc Âm đề cập đến.

Trong Đức Kytô, chúng ta thấy chiều dọc và chiều ngang hòa hợp với nhau một cách tuyệt diệu!

Không ai tiếp xúc đồng loại như kiểu Chúa Giêsu. Ngài yêu dân chúng, thông cảm với họ, dành thời giờ cho họ, không quan tâm đến điều họ thuộc hạng người gì, giàu nghèo, già trẻ, học thức dốt nát, bạn hay thù. Chúa không nề hà gì cả. Sẵn sàng hy sinh cho người khác. Ngài chết trên Thập giá vì họ. Tất cả những gì giới trẻ tìm kiếm, đòi hỏi; tất cả những gì mà họ nâng niu gói ghém trong câu: “Một người vì tha nhân”, chúng ta gặp thấy một cách tuyệt hảo trong Đức Kytô.

Chưa hết, còn có một chiều hướng khác trong đời sống của Chúa, đó là tình yêu Ngài đối với Đức Chúa Cha. Ngài luôn hướng về Cha Ngài. Ngài năng cầu nguyện biết bao! Không những trước những biến cố quan trọng: 40 ngày trong rừng vắng, trước lúc khai mào cuộc sống công khai, trước khi chịu phép rửa, trước lúc chọn các Tông đồ, trước khi biến hình, trước giờ phút thụ nạn và chịu chết - mà còn như là một điều dĩ nhiên. Hãy nghe Thánh sử thuật lại việc Chúa cầu nguyện một cách tự nhiên, như là việc không thành vấn đề:

Chổi dậy sáng sớm trước rạng đông, Ngài ra đi, đến nơi thanh vắng, và ở đó Ngài cầu nguyện. Simon cũng như những kẻ cùng ở với Ngài, đi theo Ngài, và họ gặp Ngài, họ thưa: “Mọi người đang tìm Thầy” (Mc. 1,35).

“Đám đông tụ họp để nghe Ngài và để được Ngài chữa bệnh. Nhưng Ngài rút lui vào rừng vắng, và cầu nguyện” (Lc. 5, 15-16).

“Xảy ra lúc Ngài đang cầu nguyện, các môn đệ đang ở với Ngài, Ngài bảo họ: ‘người ta bảo Ta là ai?” (Lc. 9,18).

“Xảy ra Ngài đang cầu nguyện một nơi nọ, lúc Ngài nguyện cầu xong, một trong các môn đệ thưa Ngài: “Lạy Thầy xin dạy chúng con cầu nguyện”
(Lc. 11,1).

Ngay cả ngoài giờ cầu nguyện chính thức, Đức Chúa Cha đối với Ngài là một thực thể gần gũi. Với một sự dễ dãi và thân mật, Đức Kytô có thể quay sang Đức Chúa Cha giữa lúc đang làm việc, giữa đám đông.

Con ca tụng Cha, Chúa trời đất, Cha đã giấu ẩn những điều này đối với những kẻ khôn ngoan thông thái, và đã mạc khải cho những kẻ bé mọn. Vâng, lạy Cha, Cha ưng như vậy đó.” (Lc. 10, 21).

Lạy Cha, con cảm đội ơn Cha vì Cha đã nghe con, mà con biết Cha luôn nghe con, nhưng vì dân chúng đang đứng quanh con, con nói để họ tin là Cha đã sai con.” (Ga. 11,42).

Chúng ta thấy hai bình diện nơi Đức Kytô, và giữa hai bình diện này, bình diện hàng dọc quyết định cho bình diện hàng ngang, nghĩa là tương quan đối với Cha Ngài định đoạt cho liên hệ Ngài đối với đồng loại. Đức Chúa Cha là trung tâm xuất phát mọi điều khác. Điều Đức Kytô làm trên bình diện hàng ngang, điều Ngài làm cho đồng loại, khi nào và cách nào - tất cả đều do Đức Chúa Cha quyết định cho Ngài.

CÁC LINH MỤC

Các linh mục hiện thân của Chúa Kytô ở trần gian phải, bắt chước Đức Kytô làm như vậy. Bổn phận đặc biệt của mỗi người chúng ta là tiếp tục công trình Cứu Chuộc của Đức Kytô. Chúng ta đang dấn thân vào những sinh hoạt ngoại giới khác nhau như Đức Kytô: rao giảng Tin mừng, cử hành Bí Tích, thiết lập những cộng đoàn Kytô hữu, xây cất trùng tu thánh đường, cải tiến những điều kiện kinh tế và xã hội, dạy học và làm nhiều việc khác. Tất cả những sinh hoạt này chỉ là những cách khác nhau nhằm thực hiện mục tiêu cơ bản của chúng ta: “Đem Đức Kytô và những phong phú của Ngài đến cho con người”. Như vậy chưa đủ các linh mục phải là những nhà thuyết giáo hay, những nhà giáo dục giỏi, những người tổ chức xã hội tài, những chuyên viên cơ giới lành nghề. Các Ngài còn phải là những người có kinh nghiệm về Đức Kytô. Các Ngài phải là những người để cho tình yêu Đức Kytô tác dụng nơi mình những gì mà các Ngài có thể mang ra thi hành cho người khác. Đức Kytô phải là trung tâm xuất phát mọi hoạt động của các linh mục. Như Chúa Cha là thực thể tối cao trong đời sống Đức Kytô, cũng thế Chúa Kytô phải là thực tại tối hậu trong đời sống của mỗi linh mục. Linh mục phải có khả năng nói về Đức Kytô, ở trong Đức Kytô, như Đức Kytô có khả năng nói và ở trong Đức Chúa Cha vậy. Nói ngắn gọn, các linh mục phải là những người cầu nguyện.

Một mục sư Tin lành đã phát biểu một cách chí lý:

Tôi tin rằng trước sự căng thẳng lớn giữa cách chú giải Phúc Âm hàng dọc như là cốt yếu chú trọng đến tác động cứu rỗi của Thiên Chúa trong đời sống mỗi cá nhân, và sự chú giải theo hàng ngang như cốt yếu chú trọng đến những tương quan nhân loại trong thế giới, tốt hơn là chúng ta vượt ra khỏi vòng xao động tiên khởi từ thái cực này sang thái cực khác. Một Kytô giáo nếu mất hết bình diện hàng dọc, tức là mất muối, trở nên lạt lẽo vô vị không còn sinh lợi ích gì cho ai. Nhưng một đạo Kytô muốn dùng chiều hướng dọc như một phương thế trốn thoát trách nhiệm cho và trong đời sống con người, thì đó là đạo khước từ nhập thể, khước từ chính tình yêu Thiên Chúa đối với thế giới thể hiện nơi Đức Kytô.

Tất cả bí quyết Đức tin Kytô giáo là sở dĩ có sự hướng về con người, vì lấy Chúa làm trung tâm điểm. Chúng tôi không thể nói Đức Kytô như một Người hy sinh cho tha nhân, nếu không nói về Ngài như Người đến từ Thiên Chúa và sống vì Thiên Chúa
” (W.A.Visser’t Hooft, address at Uppsala, 1969).

Chúng ta cũng không nói về một linh mục như một người hy sinh cho người khác, nếu vị linh mục ấy không phải là người đến từ Chúa và sống vì Chúa.

THỜI THẾ HIỆN TẠI

Một số người bảo có sự ươn ái trong đời sống cầu nguyện trong Giáo Hội hiện nay. Càng ngày càng thấy rõ điều này trong những năm vừa qua. Những phúc trình do các cuộc điều tra trong các giáo xứ và các dòng tu xác nhận là đúng. Những câu đại để như loại sau đây lặp đi lặp lại trong các bản Phúc Trình:

-
  • Sự cầu nguyện rõ ràng và chắc chắn đang xuống dốc.
  • - Ít người chịu đi dự Thánh lễ.
  • - Rõ ràng sự suy ngắm và những việc thiêng liêng khác như đọc sách thiêng liêng, nguyện riêng, viếng Mình Thánh đang suy sút.
  • - Ít có hào hứng trong sự suy gẫm, tĩnh tâm, xưng tội.
  • - Chúng tôi đang lo buồn vì thiếu sự cầu nguyện.
  • - Những điều khoản trong hiến pháp nói về cầu nguyện không được biết đến.
  • - Rõ ràng là thiếu tinh thần cầu nguyện.
  • - Còn có ai suy gẫm và đọc sách thiêng liêng nữa đâu.
Hình ảnh trên vừa phác họa, có người cho là quá bi quan và hơi cường điệu, họ lên tiếng bảo: “sự thực đâu có đến nỗi bệ rạc như vậy, rằng cầu nguyện ít, nhưng sốt sắng và thành thực hơn”. Nhưng những tiếng ấy là luật trừ. Đa số sẵn sàng cho rằng có vấn đề thực sự trong lĩnh vực cầu nguyện và những hậu quả của vấn đề hiện rõ giữa những khía cạnh khác nhau của đời sống chúng ta.

Chúng ta có thể thêm vào đây hai nhận xét nữa:

1. Tình trạng xuống dốc trong sự cầu nguyện không những ở nơi giới trẻ, giữa lứa tuổi 20 hoặc 30; vấn đề xem ra cũng trầm trọng ở vào lứa tuổi sồn sồn, cuối 30 trong 40.

2. Vấn đề không phải xảy ra đúng vào phạm vi việc thiêng liêng cộng đoàn hay nhật tụng như kinh sáng, kinh chiều. Xem ra có sự có sự bệ rạc trong lĩnh vực kinh nguyện riêng: nguyện gẫm, đọc sách thiêng liêng, viếng Mình Thánh.

PHÂN TÍCH

Lúc hỏi tại sao chúng ta gặp nhiều khó khăn, khi bàn cãi với những người trong cuộc, khi xét xem các bản phúc trình từ các nơi gởi về để biết lý do tại sao có vấn đề, thì người ta biết được nhiều lý do và nhận được nhiều câu trả lời. Đại khái những câu trả lời được xếp làm 4 loại như sau:

1. Làm việc tông đồ là cầu nguyện:

Người ta đang viết nhiều về vấn đề đại để nói rằng dấn thân vào đời tức là cầu nguyện, rằng chúng ta chỉ gặp được Đức Kytô và Thiên Chúa nơi tha nhân mà thôi. Tĩnh tâm là nghĩ đến người anh em láng giềng. Có số người nói về sự tách đôi không lành mạnh giữa cầu nguyện và làm việc tông đồ, giữa sự dấn thân vào đời và sự rút lui khỏi thế gian hoặc: Tôi là một người truyền giáo hay một ông thầy tu?

2. Những hình thức mới cho kinh nguyện:

Đặc biệt giới trẻ đưa ra điểm này vì họ rất thành thực, họ nói: “chúng tôi hiểu cầu nguyện là cần, nhưng những hình thức cầu nguyện hiện có không hấp dẫn chúng tôi gì cả. Chúng tôi thu thập quá ít với những hình thức ấy. Chúng tôi cảm thấy cần phải có những hình thức mới”.

3. Tự động cầu nguyện:

Vấn đề này đặc biệt cũng đến từ giới trẻ. Họ cảm thấy cầu nguyện phải là một động tác tự động. Họ muốn cầu nguyện khi họ có thể đặt hết tâm hồn vào đó, khi tất cả con người họ bị thu hút vào đó. Cầu nguyện phải là một vui thích, một kinh nghiệm. Bất cứ kinh nguyện nào không phải như vậy đều là một thứ hình thức, một sự giả đò, chẳng mang lại lợi ích gì cả. Họ nghi ngờ kinh đọc hàng ngày, cả đến Thánh lễ hàng ngày, vì quá dễ dàng trở thành máy móc.

4. Đặt trọng tâm mới trên nhân phẩm và tự do riêng của mỗi cá nhân:

Cầu nguyện là một điều hoàn toàn riêng từng người, không do động lực bên ngoài bắt phải cầu nguyện. Phải để cho cá nhân định đoạt cách cầu nguyện và mức độ cầu nguyện. Không thể ép ai cầu nguyện.

Thiết nghĩ cần phải ghi nhận rằng những điều chúng ta xếp vào 4 điểm trên là những áp dụng vào phạm vi cầu nguyện, nhưng đó cũng là những giá trị chung chung được người hiện đại đề cao: người hiện đại rất chú ý đến thế giới và đồng loại (Tông đồ là cầu nguyện), người ngày nay cảm thấy cần có những cơ cấu mới trong mọi lĩnh vực của đời sống (tìm những hình thức mới); người ngày nay say tìm đích thực (cầu nguyện phải được bộc phát, đó mới là đích thực). Người hiện đại chú trọng nhiều đến nhân phẩm con người (cầu nguyện là vấn riêng từng cá nhân).

NHẬN CHÂN GIÁ TRỊ

Hiện tại chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét về những điểm trên. Tại sao dùng từ: “hiện tại?”. Vì khoa tu đức học đang đi tìm và muốn để cửa ngõ mở rộng đón nhận ánh sáng khai quang khả dĩ đưa đến chỗ kiện toàn quan điểm sau này:

Thứ nhất: Làm việc tông đồ là cầu nguyện:

Chúng ta đã bàn vấn đề này ở trên. Chúng ta đồng ý với khoa thần học mới về thế giới và đồng loại. Nhưng thiết tưởng chúng ta không có thể giúp nhiều cho thế giới và cho đồng loại, nếu chúng ta không liên lạc mật thiết riêng tư với Đức Kytô và qua Ngài, với Đức Chúa Cha. Nếu có ai muốn gọi việc Tông đồ là “cầu nguyện”, chúng tôi không phản đối (nhưng vẫn có sự hàm hồ). Tuy nhiên, trong trường hợp này, phải nói rõ rằng chúng ta cần loại cầu nguyện được Chúa Giêsu mạc khải - rút lui khỏi những hoạt động xã hội và trực tiếp liên lạc với Đức Chúa Cha. Chúng ta đừng để quá dễ bị lung lạc “do xu hướng muốn tách rời một cách dễ dãi và lần lần của những người không có kinh nghiệm về kiến thức về lịch sử: họ muốn tách rời tình yêu Thiên Chúa khỏi tình yêu đồng loại, cầu nguyện khỏi hoạt động, đời sống nội tâm với sự hiện diện trong thế giới”. (Henri De Lubac, S.J., The Church Paradox and Mystery, tr. 123, 1969). Không có sự bất nhất thiếu lành mạnh như thế nơi Đức Kytô.

Thứ hai: Tìm những hình thức cầu nguyện mới:

Thiết tưởng có những khía cạnh chính đáng trong đề nghị này. Qua dòng thời gian, Giáo Hội thay đổi những hình thức tu đức và kinh nguyện. Những thay đổi này đều do những phần tử của Giáo Hội. Không vì lý do gì ngày nay lại thôi không thay đổi nữa. Tuy nhiên điều làm chúng ta lo âu là quá nhiều hình thức bị bỏ phăng mà có quá ít hình thức mới được đem thay vào. Nói hình thức cầu nguyện này nọ không còn hợp thời nữa, thì dễ hơn là bảo hình thức này hay, có ý nghĩa hơn. Nhiều nơi trong Giáo Hội những hình thức cầu nguyện bị bỏ: chuỗi Môi Khôi, Đàng Thánh Giá, Chầu Mình Thánh, Kinh Chiều, Viếng Thánh Thể v.v… Ta thấy rất ít hình thức được thay vào để nuôi lấy sự sùng kính của người Tín hữu. Có một chỗ trống. Người Công giáo hiện nay đang hướng về phong trào Hiện Xuống, chỉ vì quá cần sự dinh dưỡng thiêng liêng.

Có lẽ đa số chúng ta cũng cảm thấy hạnh phúc hơn nếu kinh nguyện không giữ hình thức cố hữu nào cả. Chẳng hạn người ta không thể nói hình thức suy ngắm trong các chủng viện không hấp dẫn gì cả, vì thực ra ngày nay các chủng viện không định ra một hình thức suy ngắm nào. Hình thức đã được để cho cá nhân hoàn toàn tự do định lấy, nhưng rồi thì xem ra cũng ít có hứng thú trong việc suy gẫm!

Thứ ba: cầu nguyện phải bộc phát tự động, phải là một việc vui thú:

Về điểm này chúng ta thấy rõ giới trẻ quá ư lý tưởng, xa rời với thực tế của điều kiện con người. Cầu nguyện là một nguồn vui đơn thuần sẽ chỉ có ở đời sau. Ở trần gian này cầu nguyện là một điều khó khăn, nhọc nhằn, buồn tẻ. Vì sao vậy? Có hai lý do:

-lý do thứ nhất là vì giới hạn của con người. Chúng ta nhận thức sự vật qua giác quan. Chúng ta tiếp xúc dễ dàng với đồ vật và con người chúng ta có thể thấy, cảm, nghe. Chỉ có khó trong vấn đề bắt liên lạc được với Đức Kytô và Đức Chúa Cha, Đấng Siêu Việt, vượt khỏi thế giới của giác quan.

-Thứ hai: kinh nguyện khó khăn là do nhân tính sa đọa của chúng ta, nhân tính ấy đặt bao chướng ngại vật giữa ta và Chúa. Trong đời này chỉ có một điều khác cũng khó khăn như cầu nguyện là “tình yêu”, loại “yêu” mà Chúa Giêsu đã dạy. Ta nên dừng lại một chút để xem kỹ thử hai thứ ấy giống nhau như thế nào. Có phải yêu thương là một cái gì bộc phát và thích thú không? Thỉnh thoảng có như vậy. Một thanh niên yêu một cô thiếu nữ có kinh nghiệm như thế. Một cộng đoàn một họ đạo cũng có thể có kinh nghiệm như vậy đôi khi. Đó là những cao điểm và chúng ta cám đội ơn Chúa. Nhưng khi Đức Kytô nói đến tình thương, Ngài nói về một điều quá vượt các điểm kia. Ngài bảo: “Các con yêu kẻ nghịch, làm lành cho những kẻ ghét các con, chúc lành cho những kẻ nguyền rủa các con, cầu nguyện cho những kẻ vu oan các con… Nếu con yêu thương những kẻ yêu thương các con, thì có công nghiệp gì?” (Lc. 6, 27-32). Ở đây Chúa không nói một việc xuất phát tự đáy lòng và vui thú. Chúa đang nói cho ta biết yêu thương là một điều khó khăn, cực khổ và buồn tẻ, đòi phải cố gắng hàng ngày. Không có cố gắng như vậy thì không đi đến đâu cả. Những giây phút bộc phát phấn khởi của tình yêu một người dành cho vợ anh ta sẽ trở thành hiếm hoi và có lúc sẽ không còn, nếu anh ta không cố gắng cần cù nhẫn nại sống đúng theo những đòi hỏi của đời sống hôn nhân.

Đời sống cầu nguyện chúng ta cũng thế. Có những cao điểm hứng thú khi nó là một điều tự động bộc phát vui vẻ. Nhưng nếu những cao điểm này không đi đôi với những cố gắng hàng ngày để bắt liên lạc với Đức Kytô, và qua Ngài với Đức Chúa Cha, thì cầu nguyện dầu cho khó khăn và cần cù đến đâu đi nữa, cũng không khi nào đạt được tích sự gì cả.

Thứ tư: Đặt trọng tâm mới trên nhân phẩm và tự do cá nhân của từng người một:

Có điều đáng ngạc nhiên là sự đặt nặng này lại đi đôi với sự đặt nặng khác, về cộng đoàn. Chúng ta muốn có những cá nhân tự do, nhưng chúng ta cảm thấy họ chỉ có thể phát triển được khi hội họp trong cộng đoàn. Hiện giờ có sự giằng co cần thiết giữa cá nhân và cộng đoàn. Sự giằng co này tốt và sáng tạo, nếu chúng ta tìm thấy sự cân bằng đúng mức giữa hai bên. Nếu không, sẽ đổ vỡ. Nếu chúng ta quá nhấn mạnh về phía cộng đoàn, thì cá nhân thiệt thòi. Nếu chúng ta quá thiên về cá nhân, thì đời sống cộng đoàn không thể thực hiện được. Chúng ta chưa tìm ra sự cân bằng đúng mức.

Nếu thật đúng như chúng ta đã nói trước rằng các linh mục phải có kinh nghiệm về Đức Kytô, phải ở trong Đức Kytô, như Đức Kytô đã ở trong Đức Chúa Cha, nếu đúng được như vậy, thì Giáo Hội phải có khả năng đòi hỏi các phần tử linh mục đoàn thực hiện điều đó. Giáo Hội không thể để mặc cho cá nhân và không thể hy vọng rồi ra cá nhân sẽ tìm thấy đường lối riêng họ. Đó là tất cả điều Giáo Hội quan tâm đến. Nếu không Giáo Hội không có lý do tồn tại. Không phải là nghịch với nhân phẩm cá nhân trong khi bỏ đi một phần tự do. Người ta không thể ngồi xuống chơi một ván bài với người khác mà không hy sinh một ít tự do. Người ta phải theo đúng luật chơi bài. Người ta không thể bước vào đời sống hôn nhân, gia nhập bất cứ cộng đoàn nào, mà lại không hy sinh một ít tự do - nhưng làm như thế người ta chú tâm hưởng lấy một sự tự do to lớn hơn, sự tự do thực hiện những mục đích của đời sống hôn nhân, của cộng đoàn hay của toàn Giáo Hội.

Đang khi cố gắng duy trì sự cân bằng trong đời sống kinh nguyện giữa chiều dọc và chiều ngang, chúng ta hãy lắng nghe lời chứng đơn sơ của Cha Thánh Gioan Maria Vianney, bổn mạng của các cha sở. Người đã bộc lộ như sau: “Các con thân mến, kho tàng của người Kytô hữu không phải ở dưới đất, nhưng ở trên trời. Thế thì lòng trí chúng ta phải hướng đến nơi có kho tàng của chúng ta.

Con người có một bổn phận cao đẹp là cầu nguyện và yêu mến... Các con cầu nguyện, các con yêu mến: Đó là hạnh phúc của con người trên trần gian.

Cầu nguyện không là gì khác hơn là kết hợp với Thiên Chúa. Khi có tâm hồn trong sạch và gắn bó với Thiên Chúa, ta thấy nơi mình một thứ hương thơm dịu dàng ngây ngất, một luồng ánh sáng rực rỡ chói chan. Trong mối kết hiệp mật thiết này, Thiên Chúa và linh hồn tựa hai khối sáp nóng chảy hòa vào nhau, không thể tách rời nhau nữa. Thiên Chúa kết hợp với thụ tạo bé nhỏ của Người: đẹp đẽ biết bao! Hạnh phúc này, không sao hiểu thấu.

Xưa kia chúng ta chẳng xứng đáng cầu nguyện, nhưng Thiên Chúa đã thương cho chúng ta được thưa chuyện với Người. Lời cầu nguyện của chúng ta là làn hương thơm rất đẹp lòng Người.

Các con thân mến, trái tim các con nhỏ hẹp, nhưng lời cầu nguyện sẽ khiến nó mở rộng và có sức yêu mến Thiên Chúa... Cầu nguyện là nếm trước hạnh phúc trời cao, là làm cho phúc lộc thiên đàng tuôn đổ. Không bao giờ cầu nguyện mà không thấy dịu êm. Cầu nguyện là mật chảy vào hồn, biến tất cả nên êm ái ngọt ngào. Buồn phiền cực nhọc sẽ biến tan khi cầu nguyện sốt sắng, tựa tuyết tan dưới ánh mặt trời.

Cầu nguyện làm cho thời gian đi rất mau và đầy hứng thú, khiến ta không cảm thấy lâu...

Cha biết có những người đắm chìm trong cầu nguyện như cá trong nước. Họ thuộc trọn về Thiên Chúa nhân lành. Họ không bị chia trí... Thánh Phanxicô Assisi và thánh Colette trông thấy Chúa và chuyện vãn với Người như chúng ta vẫn trò chuyện với nhau. Còn chúng ta biết bao lần chúng ta đến nhà thờ mà chẳng biết mình đến để làm gì... có những người như muốn nói với Thiên Chúa nhân lành rằng: “Con đến nói mấy câu cho xong chuyện với Chúa đây...” Cha thường nghĩ rằng: Khi đến tôn thờ Chúa, chúng ta sẽ được mọi điều như sở nguyện, với điều kiện là lời cầu xin của chúng ta đi đôi với một đức tin sống động và một tấm lòng thật trong trắng”
(Trích bài đọc 2, Lễ Thánh Gioan Maria Vianney, Tập 4, Mùa Thường niên: XVIII-XXXIV,tr. 512-513).

Hãy bắt chước Thánh Thomas More khi cầu nguyện, thưa với Chúa: “Lạy Chúa xin cho con biết thực hiện điều con cầu xin”.

Hãy cầu nguyện kết hợp với Chúa Kytô, vì:

“Lạy Thầy, chúng con biết chạy đến cùng ai, Thầy có lời tác phúc trường sinh?” (Ga. 6, 69).

Để kết thúc bài suy niệm này, tôi xin giới thiệu với quý cha câu chuyện về lời cầu của ẩn sĩ Mirone:

Thuở đó có một ông sĩ quan cao cấp rất độc ác tên là Gordien, ông ta thường tróc nã và tàn sát những người lành. Người mà Gordien ghét nhất là nhà tu hành Mirone, một ẩn sĩ đầy bác ái, làm việc thiện mà không bao giờ sợ hãi và luôn cầu nguyện.

Vị tướng Gordien gọi tên đầy tớ trung thành của ông ta là Yvan le Guerrier sai anh này đi sát hại nhà ẩn sĩ Mirone.

Yvan tuân lệnh ra đi nhưng lòng rất xót xa. Anh ta tự nhủ mình vì bắt buộc mà phải đi làm việc này, chứ mình đâu có muốn. Phải tin rằng đây là số mệnh trời đã định cho mình. Rồi anh ta giấu thanh gươm dưới áo choàng ra đi. Đến nơi, anh cúi chào nhà ẩn sĩ:

-Tiên sinh có được mạnh khỏe không?

-Thiên Chúa luôn gìn giữ che chở tiên sinh đó chứ?


Nhưng nhà đạo sĩ sáng suốt mỉm cười và từ miệng lưỡi khôn ngoan của người, thốt ra những lời sau đây: “Yvan đừng nói dối nữa, ta biết anh đến để làm gì rồi. Thiên Chúa biết hết mọi sự, người lành cũng như người ác đều nằm trong tay Thiên Chúa. Ta biết vì sao hôm nay anh đến đây”.

Yvan hổ thẹn nhưng không dám làm trái lệnh của viên sĩ quan bất nhân, anh đã rút gươm ra khỏi bao da và chùi thanh gươm trên áo choàng của mình: “Này đạo sĩ Mirone, tôi đến đây để giết ông trước khi ông thấy được lưỡi gươm của tôi, nhưng bây giờ thì ông hãy cầu nguyện Thiên Chúa lần chót đi. Ông hãy cầu nguyện cho xong, cầu cho tôi cho cả nhân loại sau đó tôi sẽ chặt đầu ông".

Nhà tu hành liền quỳ xuống trước một gốc cây sồi và mỉm cười nói với Yvan: “Yvan, con sẽ đợi lâu lắm vì lời cầu bàu cho cả nhân loại sẽ rất dài. Hay nhất là con hãy giết ta ngay bây giờ để khỏi phải chờ lâu vô ích”. Nghe vậy Yvan nhăn mày và đáp: “Không được, tôi đã nói gì là không bao giờ rút lời lại. Tôi đợi đạo sĩ cầu nguyện, dầu có lâu một thế kỷ cũng được”.

Nhà ẩn sĩ cầu cho đến chiều tà. Rồi từ chiều tà đến bình minh hôm sau, người tiếp tục cầu xin. Rồi mùa hè qua cho tới mãi mùa xuân, lời cầu ông không hề dừng một chút. Rồi mùa này đến mùa nọ. Năm này đến năm khác. Mirone vẫn cầu xin. Rồi cây sồi mọc lên cao gần tới chân mây. Nhưng lời cầu của nhà ẩn sĩ vẫn chưa ngừng, cho đến ngày hôm nay môi đan sĩ Mirone vẫn mấp máy những lời xin cứu độ, xin Thiên Chúa thương xót nhân loại, xin Đức Nữ Đồng Trinh cứu giúp loài người.

Thời gian trôi qua, Yvan vẫn đứng nguyên bên cạnh nhà đạo sĩ. Thanh gươm của y rơi từng mảnh như bụi nát. Xuân qua, đông lại Yvan vẫn đứng đó dù cho tuyết phủ, mặt trời thiêu, anh ta vẫn còn đó. Các bầy chó sói và gấu đi ngang qua cũng chẳng thèm nhìn đến anh ta.

Nhưng lời cầu nguyện của vị đạo sĩ lão thành cho những người tội lỗi là chúng ta đây vẫn tuôn chảy, vì con người vẫn còn phạm tội. Lời cầu khẩn đó tuôn ra như một giòng sông trong đang tưới mát mặt địa cầu, ưu ái và dịu dàng như lòng từ bi của Thiên Chúa.”

Hôm nay là ngày Lễ THÀNH LẬP TÔNG TOÀ THÁNH PHÊRÔ. Thánh Lễ đồng tế được cử hành lúc 10 giờ 15. Sau bài Tin Mừng,

Lm. Augustino Hồ Văn Quý, Quản xứ An Đôn, chia sẻ Lời Chúa như sau:

“Sau khi nghe Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”, Chúa Giêsu đã đặt Phêrô làm nền tảng Giáo Hội, cùng lúc dạy cho các tông đồ chân lý nầy: nền tảng đó được vững chắc do ơn của chính Chúa Giêsu, không hề do sức người phàm, bởi vì “không phải xác thịt mặc khải cho con, mà chính Cha Thầy ở trên trời”.

Thế nhưng trải qua 20 thế kỷ, các đấng kế vị thánh Phêrô đã không ngừng bị cám dỗ tìm kiếm sự vững chắc cho Tông Tòa Phêrô ngoài sức mạnh của Thiên Chúa. Một trong những lần xảy ra như vậy là vào cuối thế kỷ 19. Kể từ khi hoàng đế Constantinô ban sắc chỉ tha đạo, các vị Giáo Hoàng đã dần dần có ý thức về Tòa Phêrô như một thế lực trần gian; từ đó phát sinh ra ý niệm: Giáo Hoàng phải đứng đầu một quốc gia có guồng máy cai trị y hệt các triều đình phong kiến trong Châu Âu. Ý niệm nầy càng ngày càng phát triển, đến nỗi nhiều vị vua chúa phong kiến đã coi việc dâng hiến đất đai cho Tòa Thánh như là một hành động bày tỏ lòng trung thành của một dân tộc ngoan đạo. Dần dà cái gọi là Nước Tòa Thánh - les Etats Pontificaux - đã bành trướng đến độ bao gồm hơn 1 phần 3 bán đảo Italia, cộng thêm rải rác những vùng đất nằm trong lòng các quốc gia khác nhưng lại thuộc về “gia sản Thánh Phêrô” - Patrimoine de Saint Pierre -, chẳng hạn vùng Avignon ngay giữa lãnh thổ nước Pháp.

Cuối thế kỷ 19, khi bùng phát phong trào thống nhất nước Ý, biết bao nhiêu con người trong cả trăm tiểu vương quốc trên bán đảo Italia, đã hướng về Đức Giáo Hoàng như là người sẽ lãnh đạo công cuộc thống nhất nước Ý. Nhưng Đức Thánh Cha thời đó là Đức Piô IX đã không đáp ứng, trái lại đã đi ngược lòng mong mỏi của tinh thần dân tộc Ý, bởi lẽ Ngài vẫn lệ thuộc quan niệm cho rằng một lãnh thổ độc lập mới bảo đảm cho quyền tự do của Tòa Thánh. Cuối cùng, khi quân Ý do vua nước Piémont lãnh đạo xâm chiếm nước Tòa Thánh, hoàn tất cuộc thống nhất nước Ý, Đức Piô IX đã ra vạ tuyệt thông cho hoàng gia nước Ý mới và tự coi mình như tù nhân trong nội thành Vatican. Thái độ và hành động nầy đã đè nặng lên tiến trình phong thánh Đức Piô IX, khiến cho mãi đến gần 130 năm sau, Ngài mới được tôn phong chân phước, cùng một lần với Đức Gioan XXIII là vị đã từng mong mỏi chính mình sẽ phong chân phước cho Đức Piô IX.

Nhưng lịch sử đã chứng minh: quan niệm cho rằng quyền lực thế gian là cần thiết cho sự độc lập của Giáo Hội, quan niệm đó hoàn toàn sai lầm. Thời Đức Giáo Hoàng Piô XI, khi Tòa Thánh ký hiệp định Latran từ bỏ những phần đất đã bị chiếm mất, đất Tòa Thánh chỉ còn hơn 1 ki-lo-mét vuông, nhưng ảnh hưởng Tòa Thánh đã bao trùm cả thế giới, vì vương quyền Chúa Kitô chịu đóng đinh ở nơi chính cây Thập Giá đã cắm lên khắp các châu lục do các thừa sai Công giáo được đấng kế vị thánh Phêrô sai đi...

Nhờ lời cầu bàu của Thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi, xin Chúa ban cho thời đại chúng ta những vị chủ chăn Giáo Hội hoàn vũ xác tín rằng: Phêrô thật là Đá tảng, chỉ nhờ quyền lực của Đấng chịu đóng đinh. Amen.”

Ban chiều, lúc 15 g., Đức Cha Giảng Phòng hướng dẫn bài thứ ba về đề tài “Hy sinh”.

“Trọng kính Đức Tổng,

Kính thưa Đức Cha Phụ Tá,

Kính thưa Cha Tổng Đại Diện và Quý Cha,

Chúng ta đã biết rằng hai khía cạnh không thể thiếu trong cuộc đời các linh mục, những người chẳng những là được gọi để bước theo Chúa, mà còn là hiện thân của Chúa ở trần gian: đó là cầu nguyện và hy sinh. Sáng nay chúng ta đã suy niệm một trong muôn ngàn khía cạnh của đời sống cầu nguyện, giờ đây chúng ta suy gẫm về sự hy sinh. Chúa Giêsu đã báo trước: “Ai muốn theo ta thì hãy vác thập giá mình mọi ngày mà theo ta”. Ai cũng thuộc lòng câu nói bất hủ của thánh Phaolô: “kẻ nào muốn sống đạo đức theo gương Chúa Kitô, ắt phải bị bách hại”.

Ngày nay người ta thường nại đến khoa học, kỹ thuật trong bất cứ lãnh vực nào, cho nên cũng có người đặt vấn đề: vác thập giá là điều dĩ nhiên trong đời sống linh mục, nhưng phải vác thập giá thế nào ? có một kỹ thuật vác thập giá hay không? làm sao vác thập giá cho đỡ nặng? cho đỡ chảy máu, đỡ sưng vai? làm sao vác nổi suốt quãng đường dài của cuộc sống mà không ngã quỵ? hay có người đạo đức hơn thì hỏi làm sao vác thập giá cho đẹp lòng Chúa hơn?

Để riêng cho chúng ta tự xoay xở thì vấn đề thật là khó, bởi lẽ tính loài người yếu đuối, cộng thêm hoàn cảnh đổi thay, khiến chúng ta e ngại hy sinh. Nhưng nếu có ai đó đồng hành với chúng ta trên con đường khổ giá, thì lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy bớt cô đơn hơn, sẽ cảm thấy mạnh dạn hơn để vác và vác một cách hăm hở.

Những người đồng hành với chúng ta không thiếu, nếu chúng ta lần giở Kinh Thánh:

Trước hết, chúng ta hãy bắt đầu với tổ phụ Abraham: Abraham được mệnh danh là cha của những kẻ tin. Tin yêu là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống hy sinh. Khi Chúa gọi Abraham, tổ phụ phải sống đời từ bỏ liên tục, từ bỏ quê hương xứ sở, đất đai phì nhiêu ở miền Lưỡng hà, để dấn thân vào nơi vô định, rồi phải tuần tự từ bỏ những người thân trên con đường theo tiếng gọi của Chúa, từ bỏ Lót người cháu yêu quý của ông, từ bỏ Agar, người đã từng là vợ ông và cho ông một mụn con là Ismael và sau cùng đã nhận lấy thập giá rất nặng, một thử thách ghê gớm đó là được lệnh Thiên Chúa phải sát tế người con duy nhất, người con thừa tự của ông, là Isaac.

Lệnh truyền của Chúa xem ra thật là gay gắt : “Hãy sát tế đứa con duy nhất, đứa con mà ngươi yêu quý”. Ta thử phân tích tâm tình của Abraham lúc bấy giờ : trí ông trải qua cơn khủng hoảng, vì ông không hiểu gì cả. Thiên Chúa đã hứa với ông là cho ông làm tổ phụ một dân tộc đông như sao trên trời, như cát bãi biển, thế mà giờ đây phải giết đứa con thừa tự. Thật là cả một màn đen bao trùm lên trí óc của ông. Con tim của ông bị xé rách vì động đến người con yêu quý nhất đời ông, thà giết ông còn hơn là thọc dao vào cổ con để sát tế. Bây giờ ta biết Chúa thử thách ông, nhưng hồi đó ông đâu có biết, ông vẫn tưởng thật mà không dám năn nỉ kêu ca, vì đó là lệnh truyền của Chúa. Cái đau đớn cùng khổ nữa là ông phải giữ riêng cho mình, cho một mình mình cái bí mật nặng nề, đau đớn mà không thể thổ lộ cùng ai, ngay cả với Isaac. Nhưng Abraham đã cam lòng vác thập giá chấp nhận thử thách trong tin yêu phó thác, ông gạt nước mắt trả lời câu hỏi hoàn toàn ngây thơ của Isaac : “Thưa cha, củi cùng lửa đã sẵn, còn của tế lễ ở đâu cha ?”. Ông trả lời : “Chúa sẽ lo liệu con ơi”. Xâu xé giữa Lời Chúa và tình phụ tử, Abraham không đi nước đôi không chạy chính sách, không hoãn binh chi kế, mà đi vào con đường độc đạo : Sống hoàn toàn tin yêu phó thác và kề vai vác thập giá trong niềm tin yêu đáng khâm phục.

Chúng ta cũng được gọi như Abraham, không phải là để làm cha già dân tộc, mà là để làm Chúa Kitô thứ hai, kế tục sự nghiệp chịu đóng đinh của Người. Chúng ta có noi gương tổ phụ Abraham theo Chúa vô điều kiện không? Như vậy tin không phải là một thái độ tín thác lạnh lùng, nhưng là cái dấn thân tuyệt đẹp đầy tình mến vào lòng Thiên Chúa. Đức tin ấy đòi ta từ bỏ liên tục, phát triển không ngừng trong ta, lôi kéo chúng ta lên đỉnh trọn lành để được hiến tế, không thụ động, nhưng chiến đấu không ngừng, khám phá bất tận. Thiên Chúa không muốn chúng ta đâm quen với ơn Ngài, Ngài muốn chúng ta luôn ở trong tư thế ý thức không ngừng tình Ngài. Chúng ta phải tôi luyện để trao lại cho Chúa từng giây từng phút những ân huệ Ngài đã ban cho và nhận lại. Chúng ta không được cư xử như người con trai hoang đàng trong Phúc Âm, không thấy ân huệ được ở trong Nhà Cha. Vậy muốn vác thập giá cách hữu hiệu, cần phải có đức tin vững mạnh, phải tin là Chúa, Người Cha nhân lành, luôn muốn điều thiện cho ta và ta mạnh dạn bước theo Ngài, dẫu theo quan điểm chúng ta, đó là sự đau khổ tột cùng hay thánh giá quá nặng đè trên đôi vai gầy yếu của chúng ta. Hiểu như thế rồi, chúng ta mới không lấy làm ngạc nhiên bao nhiêu vị thánh đã vác nổi thập giá của đời họ một cách phi thường và hiểu như thế, ta mới biết, khi nhìn lại quãng đời quá khứ của ta, có lúc ta cũng đã vác được những thập giá quá sức tưởng tượng như vậy.

Gương thứ hai đáng cho chúng ta suy gẫm, đó là gương Giuse con ông Giacóp. Ai trong chúng ta là không thích thú khi đọc chuyện ông Giuse, câu chuyện được kể lại với nhiều tình tiết lâm ly và kỳ thú như những chuyện trong tiểu thuyết. Thế mà đó là câu chuỵện có thật trong Kinh Thánh. Giuse, con người của niềm tin không lay chuyển, vào Thiên Chúa quan phòng. Từ vực sâu của đau khổ và bị khinh khi, Giuse vẫn giữ vững niềm tin vô biên vào Thiên Chúa quan phòng. Ông biết bảo toàn danh dự trước mặt Thiên Chúa, biết bàn tay Thiên Chúa bảo vệ ông và tin tưởng Chúa sẽ dẫn đưa mọi sự đến thiện hảo, nên ông hoàn toàn để mặc Thiên Chúa an bài định liệu. Là người biết sống theo Thánh linh, ông luôn an bình trước mọi bất trắc của cuộc đời. Ông bị các anh ông ghét bỏ bán cho lái buôn sang Aicập, xa quê hương, bị vu oan, bị hạ ngục, nhưng đã vui vẻ chấp nhận, không trả thù các anh, mà còn cho việc mình bị bán là việc của Chúa quan phòng. Qua cuộc đời Giuse ta thấy Kinh Thánh dạy ta ý nghĩa của sự dữ và sự thử thách đối với người công chính, đau khổ là phương cách thanh luyện, giúp ta vâng phục ý Chúa, phương cách đền tội và giúp ta chứng tỏ lòng mến Chúa, đồng thời cũng giúp ta trưởng thành và nên người hơn. Con người dù có ác đến đâu cũng không chống cưỡng được chương trình của Thiên Chúa. Quyền năng và lòng nhân ái của Thiên Chúa sẽ quy tụ mọi sự, cả sự ác về với thiện hảo. Khi đã hiểu rõ quyền năng và tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta sẵn sàng vác và vác cách hăm hở thập giá Chúa trao, vì chúng ta biết rõ đó là những dấu chỉ Chúa thương ta. Chuyện tổ phụ Giuse cũng là chuyện đời của mỗi người chúng ta.

Được chọn để làm muối đất, đèn đời, làm người lãnh đạo một số thành phần dân Chúa, không nhiều thì ít chúng ta có trách nhiệm phải đảm đương. Trong khi thi hành trách nhiệm trên những người khác, thế tất có rất nhiều thập giá, loại thập giá này rất nặng, nên chúng ta cũng rất cần người tiếp sức, cần gương lành lôi kéo. Gương Môisen trong Cựu ước rất hợp cho chúng ta. Môisen, là một em bé bị bỏ trôi sông, thân phận đáng chết nghìn lần nhưng được Thiên Chúa xui khiến công Chúa Aicập đến tắm ở sông Nilô gặp phải, vớt lên đem về nuôi coi như con ruột. Nhưng lớn lên Môisen nhận ra dòng giống mình, đã muốn dùng sức riêng để giải phóng dân tộc, ông muốn đốt giai đoạn bằng cách dùng vũ lực, nhưng đã thất bại, ông bị hiểu lầm và đã phải trốn vào sa mạc Mađian. Ở đó, ông nghiền ngẫm trong 40 năm trời phương cách giải cứu dân Chúa và cuối cùng đã được Chúa sai gặp Pharaon, lãnh đạo dân Chúa ra khỏi Aicập. Nhưng ông lại cùng dân lang thang trong rừng vắng 40 năm nữa, chịu bao cảnh gian truân, lúc thì bị Chúa quở phạt, khi thì bị dân chúng nhiều lần đả kích, ngay cả những người thân trong nhà cũng ganh tị với ông. Dầu vậy, ông vẫn liên kết với dân và khi nghe Chúa định tru diệt dân, ông đã đứng ra biện hộ và xin Chúa thà xóa tên mình khỏi sổ đời đời còn hơn là phạt dân. Lời cầu vô vị lợi đến mức độ anh hùng đã làm cho Chúa nguôi giận, thôi phạt Israel. Nhưng thập giá nặng nề nhất đã xảy ra cho Môisen là phải chết ngoài hứa địa. Môisen chỉ được đứng xa nhìn về hứa địa : một an ủi, nhưng ông không được vào : một hy sinh to lớn. Cả một đời hiến thân cho sứ mệnh, nhưng đến khi sứ mệnh sắp hoàn thành, mục tiêu sắp đạt được thì ông lại phải bị bó buộc nhường chỗ cho người khác “Không gieo mà gặt” (Yn 4,38). Người tông đồ nào, dẫu siêu nhiên đến đâu, lại không muốn thấy kết quả của công việc mình. Môisen cũng trải qua cơn cám dỗ thường tình này và ông đã năn nỉ với Chúa nhưng Chúa đã trả lời : “Thôi, đừng nói chuyện đó với Ta nữa” (Đnl 3,23-27) Môisen đã chấp nhận với lòng khiêm hạ vô biên (Ds 12,3) chính lúc sinh lực ông còn dồi dào, giữa lúc tương lai đầy hứa hẹn, Môisen đã rút lui vào bóng tối, nhường chỗ cho Yosua. Người ta hỏi tại sao Chúa gọi Môisen về trong lúc đó ? Thiên Chúa muốn tỏ Ngài không lệ thuộc vào một cá nhân nào, trong khi thực hiện chương trình của Ngài. Người được phục vụ chương trình của Chúa phải luôn nhớ mình là tôi tớ vô dụng, và công việc có thành tựu hay không không phải vì khả năng ta, mà vì chính Thiên Chúa hành động. Đàng khác cái chết của Môisen minh chứng lời Chúa Giêsu nói : “Nếu hạt lúa mì không biến thể đi”. Câu nói đó hoàn toàn phù hợp cho những ai hy sinh trong phục vụ. Môisen không hoàn toàn biến mất khỏi lịch sử Israel, trái lại ảnh hưởng của ông càng ngày càng lan rộng.

Điều chúng ta học nơi Môisen là nếu phải đóng vai trò trả lẽ trước mặt Chúa về người khác, ta phải luôn có tinh thần trách nhiệm nhân từ, cảm thông, hiểu biết, nhưng cứng rắn, cương quyết, luôn bảo vệ niềm tin vững chắc vào Giavê, không nhượng bộ những gì không thuộc thẩm quyền mình, không nhu nhược, không trốn tránh trách nhiệm, quên mình hoàn toàn, lẽ sống chính là những người dưới quyền mà Chúa giao phó. Đó là những đức tính Môisen khi vác thập giá trách nhiệm trên dân Chúa.

Cũng như Môisen nhiều khi chúng ta muốn đốt giai đoạn để đạt thành công, nhưng Chúa lại bắt chúng ta chờ. Môisen chờ 40 năm trong rừng vắng Mađian hoàn toàn cô đơn. Nhiều khi Thiên Chúa cũng bắt ta chờ, chờ đợi là một thử thách cam go, một thánh giá nặng nề. Nhưng chờ đợi cũng là trắc nghiệm lòng trung thành của chúng ta. Trong những giờ phút gay cấn nhất, chúng ta cũng phải biết cầu nguyện như Môisen, lời cầu vô vị lợi, lời cầu đón nhận hy sinh. Ngoài ra cuộc đời người theo Chúa vẫn còn giá trị vĩnh cửu nếu biết chết đúng lúc, biết ra đi, biết nhường chỗ cho kẻ khác, biết giới hạn vai trò của mình theo chương trình Chúa hoạch định. Muốn vác nổi loại thập giá này, cần phải có lòng khiêm nhường thẳm sâu như Môisen.

Một tấm gương cuối cùng trong Cựu Ước mà chúng ta cần phải chiêm ngưỡng hôm nay, tấm gương cho đại chúng, cho hết mọi người chịu đau khổ trên đời này, nhất là những người lành, những người có tình nghĩa với Chúa đó là Giob. Giob tượng trưng cho nỗi khốn cùng của con người hay đúng hơn thập giá của con người được nhân cách hóa. Giob thấy mình lần hồi bị tước lột hết nhưng những gì mang lại niềm vui cho con người. Đúng vậy, trước đây Giob có tất cả : sức khỏe, con cái, bạn hữu, sản nghiệp, danh vọng. Những cái này được xem như là những phúc lành của Thiên Chúa. Và như vậy Giob tin rằng mình đang có tình nghĩa với Chúa, Chúa đang thương mình. Nhưng Thiên Chúa vì quá yêu mến Giob nên đã không để cho Giob tìm hạnh phúc nơi những cái tầm phào bá láp đó. Chúa cất hết, bây giờ Giob bắt đầu nguyền rủa cuộc đời và tuyên bố rất ngạc nhiên trước những biện pháp ấy của Thiên Chúa.

Khi lột xác Giob như thế, Thiên Chúa đã muốn đưa Giob tới đâu ? Đó là điều chúng ta phải tìm kiếm bằng cách thám hiểm sự vô sản hóa cứu rỗi mà vị Chúa tể càn khôn đối với Giob. Thoạt tiên Giob có cảm tưởng đây là một sự hủy hoại hoàn toàn : “Ngài đã phá đổ tôi hoàn toàn và tôi đã quỵ ngã”(19,10). Thật ra Thiên Chúa đâu có muốn cho người bạn của Ngài chết, Ngài chỉ muốn làm cho ông cảm thấy không còn gì để bám víu ngoại trừ Chúa. Mất hết gia sản, ông tâm sự : “Tôi đã trần truồng khi lọt lòng mẹ, tôi sẽ về lại đó trần truồng. Chúa cho, Chúa cất đáng chúc tụng thay danh Ngài”. Mất hết con cái ông đưa mắt thâm quầng, hướng nhìn về lòng từ nhân của Chúa, nhưng ông nào có thấy, sức khỏe ông ngày càng tàn phai, yếu dần như ông đã tỏ bày : “Tôi bước đi ủ rũ không ánh sáng mặt trời”. Bạn bè xa ông, không thông cảm nỗi khổ của ông, ngay cả người vợ thân yêu cũng mắng ông : “Ông cứ tin Chúa nào có ích gì, hãy nguyền rủa Chúa đi rồi chết quách cho xong”.

Nhưng Giob vẫn đứng vững, kiên nhẫn đợi chờ Chúa trả lời cho ông. Mất hết mọi sự nhưng Giob vẫn chưa chịu buông tay danh dự, quyền lợi chính đáng của ông, ông xin Chúa nói cho ra lẽ, tại sao ông phải đau khổ. Chúa muốn ông buông tay danh dự, từ bỏ tất cả, Thiên Chúa giải phóng Giob cách dữ dội bằng cách tạo nên sự sụp đổ tất cả những yếu tố phước hạnh mà Giob có thể gán vào Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đâu phải là sản nghiệp, sức khỏe, con cái, bạn hữu... Sau khi rửa sạch Giob, bây giờ Chúa ban cho Giob một liều thuốc sửng sờ, thờ lạy, xuất thần trong khâm phục, vì Chúa ban cho ông khám phá ra những tầm vóc siêu nhiên, vô biên của ý Chúa : Giob đứng trước mặt Chúa như một kẻ không tham vọng, bị nhục nhã và không ảo tưởng nhưng sẵn sàng tin vào Đấng Tạo hóa mình và bước vào quan điểm của Ngài.

Ôn lại đời Giob, ta thấy Chúa để cho Giob vác thập giá nặng nề trong đời ông, cũng vì quá yêu thương ông. Nếu đời chúng ta có điểm nào giống Giob trong đau khổ, hãy tự an ủi mình rằng Chúa đang ôm ấp chúng ta trong cánh tay lân ái của Ngài. Trong vấn đề tình yêu kỳ lạ của Chúa này, chúng ta học biết Thiên Chúa không thể phản bội. Đêm sâu thẳm trong đó Thiên Chúa vẫn là sự cần tối hậu, sự xác tín cuối cùng và là ý nghĩa duy nhất cho cuộc đời của ta. Khi tất cả là đêm đen, thì hy vọng duy nhất tìm một tia sáng leo lét là nhờ ở sự trung thành kinh khủng với những xác tín mong manh đã có lần vất vả nhen nhúm.

Tình yêu không phải là sự rõ ràng và trong suốt. Tình yêu có hoài bão hiểu người mình yêu nhưng người ấy sẽ hết là người ấy, nếu giả sử ta hiểu được họ. Họ là vực thẳm, là tường cao, là đêm đen. Đó là huyền nhiệm khoảng cách giữa hai người muốn gặp nhau. Nếu sự nghi ngờ chợt xảy đến, nếu vẻ bên ngoài là trái ngược, thì sự không hiểu sẽ mau chóng khiến ta tưởng đó là một sự phản bội. Thảm kịch của Giob là một thảm kịch của tình yêu cảm thấy bị phản bội, nhưng vẫn đủ mãnh liệt để từ chối rằng đó là phản bội. Bởi vì Giob yêu mến Thiên Chúa làm ta bực mình và tự hỏi không có con đường nào khác ngoài sự đau khổ để khám phá được khuôn mặt đích thực của Thiên Chúa sao ? Không có lò nào khác để luyện đức tin ngoài lò thử thách và đêm tối sao? Phải chăng Đấng đi tìm tình yêu của chúng ta đang chơi một trò chơi độc ác? Thảm kịch của Giob vẫn còn là thảm kịch của chúng ta, bởi vì trước sự đau khổ tại sao Thiên Chúa lại cho phép xảy ra và tại sao con người, người Chúa yêu lại phải gánh chịu? Đó là một điều không hiểu nổi. Khi dẫn ta đi trên con đường của cái không thể hiểu, khi mở trước cho ta lối vào đức tin, Giob đã đưa ta đến dưới chân Đấng đã bị đóng đinh, ở đó lần đầu tiên trong lịch sử con người, ta cảm nghiệm rằng Thiên Chúa không phản bội, khi Ngài đến với ta để làm phát sinh sự sống từ cái chết mà Ngài đón nhận. Nếu sự đau khổ đã được ghi khắc vào số phận con người thì từ nay chúng ta biết rằng nó không xa lạ với khuôn mặt của Thiên Chúa. Chúa đã chết vì ta, để ta cùng chết với Người. Chúa đã vác thập gía, có lẽ nào ta lại đi tay không ? Như vậy kỹ thuật vác Thánh giá đã được phác họa theo gương tin yêu phó thác của Abraham, tín nhiệm tuyệt đối vào Chúa quan phòng của Giuse tổ phụ, hoàn toàn khiêm hạ trước mặt Chúa của Môisen và đầy tình người cũng như tình Chúa của Giob, quy tụ lại ở cuộc đời Chúa Cứu thế. Muốn vác thập giá, chúng ta phải sống đức tin, khiêm hạ và yêu thương. Chớ gì đời sống linh mục của chúng ta được thể hiện hằng ngày ý nghĩa trọn vẹn của hai tiếng: Sacerdos et victima.

Hay có ai trong chúng ta khó tính muốn đòi hỏi một nhân chứng của thời đại mới trong hy sinh thay vì các nhân vật cổ điển trong Cựu Ước. Xin kết thúc bài suy niệm về hy sinh bằng tấm gương của một linh mục thời đại gần đây:

Hsia, một linh mục sống ở trại tập trung miền Nam Bắc Kinh Trung Quốc, lúc tu viện của ngài bị tàn sát, ngài bận công tác vắng nhà. Những anh em trong tu viện đã bị giết sạch, khi ngài về đến nhà, ngài bị bắt và sau hai năm điều tra lại bị thêm 18 năm tù. Đây là câu chuyện do chính Gioan Pasqualini, người sống cạnh ngài kể lại. Tôi quen Hsia trong một lần di chuyển tập thể. Phòng chúng tôi có 18 người, có nhiệm vụ lau rửa chuồng heo, di chuyển phân chuồng và chôn người chết. Hsia ngủ trên ổ rơm cạnh tôi. Tôi được giao chỉ huy nhóm. Tôi không có thiện cảm với Hsia vì ông luôn nhắc nhở : “Nếu chúng ta không mất đức tin thì Thiên Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta”. Nhưng Đức Tin thì tổ chức đã giúp chúng tôi đánh mất từ lâu, dần dà rồi ông khám phá ra tôi là người công giáo. Một hôm trong lúc nghỉ, ông đến gần tôi và nói:

- Gioan, có phải từ thâm sâu ông vẫn là một người công giáo tốt ?

Tôi trả lời giọng mệt mỏi:

- Ông ơi, tôi đang học tập, hãy để cho tôi yên. Nhưng ông có vẻ như không nghe lời tôi nói

- Chúng ta có thể cầu nguyện chung, anh có thể xưng tội với tôi.

- Ông nghe đây này, nếu ông muốn ra trước đội hành quyết đó là quyền của ông, còn tôi, tôi đang cố gắng ra khỏi đây … Xin ông câm miệng lại.

- Được rồi, tôi hiểu anh, tôi luôn cầu nguyện cho anh, và hãy nhớ rằng tôi là bạn anh.

Có một lần Hsia bị báo cáo là đọc kinh ban đêm. Tôi đến gặp Hsia:

- Ông coi chừng mạng sống của ông.

- Ông điềm tĩnh : Mạng sống của tôi ư ? Đâu có gì quan trọng. Tôi còn sống là vì Chúa muốn thế. Tôi tin rằng Ngài dành cho tôi một nhiệm vụ nào đó. Nếu không, tôi thích chia xẻ số phận với anh em của tôi hơn.

Vào tháng 12, cái lạnh trở nên giá băng.

Một hôm, Hsia đến gặp tôi xin nghỉ vài phút.

- Sắp đến giờ nghỉ rồi ông không chờ được sao ?

- Không, lúc đó những người lính gác sẽ đến, ông không biết hôm nay là ngày thứ mấy sao ?

Tôi trả lời giọng bực tức : Thứ hai, ngày 25 tháng 12 và tôi bổng im ngay. Tôi chợt nhớ ra cùng một lúc, hôm nay là ngày Noel.

- Ông Hsia, ông điên rồi sao ? Ông biết nguy hiểm chứ ?

- Tôi phải cầu nguyện và tôi muốn anh phải cầu nguyện với tôi ở đây. Hôm nay là ngày thánh dành riêng cho anh và tôi.

Tôi nhìn quanh không thấy người lính nào và nói với Hsia:

- Hãy xuống hố kia, tôi cho ông 15 phút thôi.

- Còn anh ?

- Tôi không rời khỏi đây.

Trong khoảnh khắc tôi sợ tưởng chết được. Mỗi tiếng hú của gió lốc tưởng chừng như tiếng kêu của người lính gác. Cuối cùng, một cái gì đó chiến thắng sự sợ hãi của tôi và luôi cuốn tôi về phía hố, tôi quên vị chỉ huy, quên trại cải tạo và tôi nhớ cảm giác của một người sống vì một mục đích hơn là cố gắng tồn tại. Dưới đáy hố giao thông khô cằn, Hsia đang cử hành thánh lễ, nhà thờ của ông là cảnh hoang vu, bàn thờ là mỏm đá tuyết băng, áo lễ là bộ quần áo rách nát, chén thánh là một cái ca tróc sơn. Trên bàn thờ không một ngọn nến …

Bỗng dưng tôi cảm thấy cần chia xẻ đức tin của Hsia. Tôi có cảm giác rằng trong ngày lễ Noel này, không nơi nào trên thế giới, ngay cả những đền thờ tôn nghiêm nhất của giáo hội, không nơi nào có thánh lễ đầy ý nghĩa như thánh lễ này.

Thánh lễ hoàn tất, ông nói :

- Tôi xin Chúa hiểu cho rằng chúng ta không có ý xúc phạm Người, thật là bất xứng.

Tôi nghẹn lời :

- Cha không sợ bị xử bắn mà sợ xúc phạm đến Chúa. Tôi quả quyết: Con tin là Chúa hiểu chứ, thưa cha.

- Cảm ơn Gioan, xin Chúa giữ con mãi mãi.

Vài ngày sau đó có sự đổi phòng, Hsia và tôi bị tách rời. Tôi không còn gặp lại ông, nhưng ông đã cảm hóa được tôi, đã để lại trong tôi một niềm tin không ai lung lạc và cướp mất được, cho dù đó là một vị chỉ huy, là trại cải tạo, lính canh gác, hay những họng súng đen ngòm …

Cha Hsia đã dùng 20 năm chịu khổ nạn để cứu vớt một linh hồn. Tất cả chúng ta đều được mời gọi để cùng cứu rỗi thế gian. - Chúa Giêsu đã cứu rỗi thế gian bằng thập giá chứ không chỉ bằng lời rao giảng. Chúng ta cũng thế. Chúng ta không thể cứu ai nếu chúng ta không thể chết đi từng ngày cho Thiên Chúa.

(còn tiếp)

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang