Nhật Ký Tuần Tĩnh Tâm Năm 2005 của các linh mục Huế

(từ 21-25 tháng 2 năm 2005)

Ngày thứ nhất (Thứ Hai, 21.02.2005)

Năm 2005 nầy, tuần Tĩnh Tâm Năm của các linh mục Huế được tổ chức vào ngày thứ hai (21-02-2005) cho đến ngày thứ sáu (25-02-2005) sau Tuần Thứ Hai Mùa Chay. Địa điểm tĩnh tâm là Nhà Trung Tâm Mục Vụ của Tổng Giáo Phận Huế. Nhà Trung Tâm nầy tuy chưa được hoàn thành dứt điểm, nhưng cũng đã được tạm thời đem ra sử dụng cho những hoạt động mục vụ của Tổng Giáo Phận Huế.

Đúng 16giờ chiều ngày thứ hai, 21.02.2005, Đức Cha Têphanô Nguyễn Như Thể, TGM Tổng Giáo Phận Huế, Đức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, Giám Mục Giáo Phận Qui Nhơn, Tổng Thư Ký HĐGMVN, cũng là Đức Cha Giảng Phòng, Đức Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, Giám Mục Phụ Tá TGP Huế, Cha Tổng Đại Diện TGP Huế, linh mục Stanitxlaô Nguyễn Đức Vệ, cùng với 85 linh mục Huế, có mặt đông đủ tại Nhà Nguyện Trung Tâm Mục Vụ để khai mạc Tuần Tĩnh Tâm.

Sau phút cầu nguyện với Đức Chúa Thánh Thần, Đức TGM Huế nói:

“Trọng kính Đức Cha Qui Nhơn,

Chúng con rất vui mừng vì được Đức Cha đến sống giữa chúng con, giúp anh em linh mục chúng con tĩnh tâm năm. Chúng con cám ơn Đức Cha rất nhiều.

Chúng con biết Giáo Phận Qui Nhơn là Giáo Phận Mẹ của Giáo Phận Huế chúng con. Giáo phận Qui Nhơn thể hiện trách nhiệm thiêng liêng đối với người con, dù là người con khôn lớn mấy, nhưng người mẹ vẫn còn đó.

Hôm nay, Đức Cha đến để thể hiện tình mẫu tử đối với những người con của Giáo Phận Qui Nhơn, mặc dù Đức Cha rất bận rộn với những công việc của địa phận, của Giáo Hội Việt Nam, của chức vụ Tổng Thư Ký HĐGMVN. Lại nữa, Giáo Phận Qui Nhơn vừa chịu cái tang lớn, là Cha Tổng Đại Diện qua đời. Dù vậy, Đức Cha vẫn sắp xếp để đến với chúng con. Chúng con hết lòng cám ơn Đức Cha.

Thưa anh em linh mục, chúng ta rất vui mừng trong dịp nầy, vì cách đây hai ngày, chúng ta được tin rất trọng đại là Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng, làm Giám Mục Phụ Tá Giáo Phận Huế. Chúng ta chào mừng Ngài.

Chúng ta cũng vui mừng vì một người anh em xa chúng ta trên ba năm, bây giờ được đoàn tụ với chúng ta, là Cha Tađêô Nguyễn Văn Lý. Kỳ cấm phòng trước, ngài không có mặt nhưng chúng ta vẫn cầu nguyện cho ngài. Ngài ở trong tù nhưng ngài vẫn coi đó là nhiệm sở của ngài, và ngài đã cầu nguyện cho Giáo Phận và Giáo Hội chúng ta rất nhiều.

Chúng ta cũng chào Cha Trần Văn Lộc ở Saigon về với chúng ta. Ngoài ra, có một số anh em vắng mặt, Cha Khôi đau bệnh, Cha Mỹ, Cha Hiển ở Tây Linh cũng đau nặng, đi không được, phải nằm một chỗ, đầu gối và mắt cá bị khớp nặng lắm.

Trong kỳ tĩnh tâm nầy, xin anh em không làm gì cả ngoài việc tĩnh tâm. Xin cố gắng giữ thinh lặng để giữ bầu khí cho nhau, đó là việc bác ái. Hãy coi Nhà Nguyện là chỗ ưu tiên để chúng ta cấm phòng.

Chúng ta biết rằng các giáo xứ, các dòng tu đang cầu nguyện cho chúng ta rất nhiều. Chúng ta hãy tận dụng ơn Cấm Phòng nầy để khỏi phụ lòng Dân Chúa.

Xin chúc anh em cấm phòng sốt sắng và đạt được nhiều kết quả thiêng liêng bền vững lâu dài.

Xin cám ơn tất cả.”

Trong phần đáp từ, Đức GM Qui Nhơn nói:

“Trọng kính Đức Tổng,

Kính thưa Đức Cha Phụ Tá,

Kính thưa Cha tổng Đại Diện và Quí Cha,

Hôm nay vẫn còn trong mùa Xuân. Điều đầu tiên là con xin kính chúc Đức Tổng, Đức Cha, Quý Cha một Năm Mới khang an hạnh phúc, tràn đầy Ơn Thánh, dồi dào sức khoẻ. Điều thứ hai nữa, là con rất vui mừng khi nghe tin Toà Thánh đã bổ nhiệm Cha Phanxicô Xavie Lê Văn Hồng làm Giám Mục Phụ Tá cho Giáo Phận Huế. Đó là một tin rất vui mừng, làm cho chúng con phấn khởi. Con ước mong là qua sự bổ nhiệm nầy, Giáo Phận Huế sẽ thăng tiến nhiều hơn, Giáo Hội Việt Nam sẽ nhờ đó mà thành đạt nhiều hơn.

Hôm trước, Đức Tổng bảo con giảng cho Giáo Phận Huế. Con thưa rằng con cũng hơi lúng túng. Nhưng Đức Tổng nói rằng là phải trả nợ bởi vì hôm trước, Đức Tổng đã vào giúp chúng con rồi. Hôm nay, chúng con phải trả nợ.

Thật ra, Đức Tổng với con có một tình nghĩa sâu đậm bởi vì Đức Tổng đã truyền chức cho con. Con xem Đức tổng như là cha ruột của con vậy, cho nên con vâng lời.

Con cũng rất vinh dự được ra đây để tiếp xúc với hàng giáo sĩ của Cố Đô rất danh tiếng. Con cũng nghĩ con không biết phải nói cái gì đây. Tuy Qui Nhơn là địa phận mẹ, nhưng bà mẹ già cỗi rồi, không có chia sẻ được cái gì, chỉ chia sẻ sự yếu nhọc của mình thôi. Nhưng con nghĩ rằng nếu mà đã có những món ăn mỹ vị ngon rồi, thì bây giờ ăn mắm ăn muối chắc có lẽ hợp với khẩu vị, cho nên con xin trình bày những gì con có thể làm được, xin Quý Cha, xin Đức Tổng bù trừ vào đó nếu thiếu sót.

Hôm nay là bài khai mạc cấm phòng. Sau những lời trên đây, Đức Cha giảng phòng bắt đầu bài khai mạc. Sau đây là nguyên văn Bài Khai Mạc.

Bài Khai Mạc (ngày thứ nhất)

Trước hết chúng ta cám đội ơn Chúa đã ban cho chúng ta hồng ân là được sum hợp nhau đây: “sung sướng thay anh em sống trong một nhà.”

Chúng ta về đây, tuy thời gian không là bao, nhưng cũng là tạm đủ để chúng ta được bồi dưỡng cả tinh thần lẫn thể xác. Vậy hãy tạm gát mọi lo âu, mọi bề bộn của giáo xứ hay nhiệm sở để cho thể xác, trí lòng, được thư thái, để bước vào phòng trọn vẹn, để suy gẫm, cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa, xin Chúa đổi mới chúng ta, ban cho chúng ta sức sống mới, hầu chúng ta phục vụ dân Chúa đắc lực, hữu hiệu hơn.

Michel Quoist, một nhà tu đức học, đã nêu lên một ý tưởng khá gợi hình: “Nếu bạn muốn kiều diễm, thì mỗi ngày bạn hãy đứng trước gương một phút, trước tâm hồn bạn 5 năm phút và trước Thiên Chúa 15 phút”. Trước tấm gương, chúng ta thấy gương mặt chúng ta; trước tâm hồn, chúng ta biết rõ lòng mình, và trước Thiên Chúa, chúng ta biết chúng ta yếu hèn như thế nào, biết ân sủng Chúa cao dày như thế nào.

Để trả lời câu hỏi “cấm phòng là một nhu cầu hay một thói quen”, Thánh Bênađô đã nêu lên những điểm tiêu cực sau đây, giải thích tại sao đã bao nhiêu lần ta cấm phòng mà cũng dẫm chân tại chỗ, cũng như cũ, có khi còn tệ hơn, lý do là vì:

  • 1. Hay chuyện trò lo ra;
  • 2. Hay buồn giận, phê bình chỉ trích;
  • 3. Không chú tâm suy gẫm lời Chúa;
  • 4. Chiếu lệ, coi thường việc cấm phòng;
  • 5. Xưng tội không chân thành;
  • 6. Ngã lòng, nguội lạnh, không quyết tâm tu sửa;
  • 7. Không sốt sắng cầu xin Chúa.
Vậy trong kỳ phòng này, chúng ta hãy phá bỏ thói quen đó, thói quen làm trì trệ đời sống thiêng liêng và mục vụ, và hãy quyết tâm đổi mới: Ra phòng, sẽ sống tích cực hơn trên con đường hoàn thiện và hy sinh cho các linh hồn.

Hoặc là hiện nay chúng ta cảm thấy rã rời mệt mỏi sau những năm tháng chiến đấu lâu dài? Hãy nhìn vào gương tiên tri Elia: Elia vất vả khó nhọc chiến đấu cho sự tinh ròng của Đức Tin, bị hoàng hậu Ysabel ruồng bắt, ông chạy trốn lên Núi Horeb. Mệt lả, buồn chán, ông muốn chết, cầu xin Chúa: “Nay đã đủ rồi, lạy Giavê, xin đến cất mạng con đi, con cũng không hơn gì tổ tiên con”. Nói rồi, ông ngủ dưới gốc cây Kim Tước. Nhưng ngay sau đó, một thiên sứ đến lay ông dậy và bảo: “Dậy mà ăn”. Ông ăn, rồi ngủ tiếp. Thiên sứ lại nhắc bảo: “Dậy mà ăn, vì đường còn dài”. Ông đã ăn và bắt đầu lên đường. Lúc bấy giờ, con đường bôn tẩu của ông trở thành con đường leo đỉnh trọn lành. (1V. 19, 1-8)

Elia là hình ảnh mỗi người chúng ta trên con đường tu đức. Chúng ta đã theo Chúa từ lâu, người thì gần trọn cuộc đời, người thì ít nhất cũng vài ba năm: chiến đấu mãi rồi cũng mòn mỏi. Bây giờ thì muốn rút lui, rút vào vỏ để chuẩn bị cuộc sống an phận. Thời giờ Chúa ban hôm nay, quý báu để chúng ta xét lại cuộc đời mình. Hãy biết biến đổi con đường chạy trốn thành con đường leo Núi Thánh. Hãy lãnh lấy thần lương Lời Chúa, hãy rước lấy Mình Chúa là của ăn nuôi hồn để kiên trì dấn bước, kiên trì leo dốc.

Trong bài suy niệm đầu tiên này, xin đề nghị chúng ta lần dở Kinh Thánh Luca 24, 13-35: câu chuyện hai môn đệ đi làng Emmaus: Hai môn đệ này, vào một buổi chiều, bị lung lay tinh thần vì đặt hy vọng vào Chúa Giêsu và kinh sợ trước lòng thù ghét đi đến bách hại của các kỳ mục và luật sĩ, nên đã âm thầm rời bỏ Yêrusalem để trốn về làng Emmaus, cách thành thánh 11 cây số. Vừa đi, hai ông vừa bàn bạc với nhau về sự việc mới xảy ra. Đó là đối tượng luôn ám ảnh hai ông. Bị treo lơ lửng giữa sợ hãi và hy vọng, hai ông áy náy và do dự. Trong lúc hai ông còn bàn bạc và trao đổi, thì Chúa Giêsu đến gần hai ông, như một khách bộ hành đi cùng một đường. Người không hiện ra với họ dưới dạng quen thuộc vì họ đã không nhận ra Người. Người nói với họ: “Dọc đường, hai ông bàn bạc gì với nhau mà buồn quá vậy?”. Câu hỏi này làm cho hai môn đệ ngạc nhiên. Một người tên là Cleophas trả lời: “Có lẽ ông là người khách lạ duy nhất không hay biết sự việc vừa xảy ra mấy ngày nay tại Yêrusalem”. Người hỏi: “Việc gì vậy?”. Họ trả lời: “Việc Đức Giêsu thành Nazareth, một tiên tri có uy quyền trong lời nói và việc làm trước mặt Thiên Chúa và trước mặt toàn dân. Vậy mà mới đây, các thượng tế và các kỳ lão đã nộp Người để xử án và đóng đinh Người. Chúng tôi đã từng hy vọng Người giải phóng Israel! Tuy nhiên sự việc đã xảy ra đến ngày thứ ba. Chúng tôi thật không biết lối nào nữa. Một ít người đàn bà ở chỗ chúng tôi đã thuật lại những điều kinh hãi. Tảng sáng, họ đến mồ, không còn thấy xác Người, họ trở về nói các thiên thần hiện ra với họ báo tin là Đức Giêsu đã sống lại. Nhiều người trong chúng tôi đã đến mộ và thấy mọi sự như các bà thuật lại, còn Người thì họ không gặp thấy. Phần chúng tôi, chúng tôi không biết tính sao đây”.

Bấy giờ Người khách lạ mới nói với họ: “Ôi, hỡi những ông bạn ngớ ngẩn, sao lòng các ông chậm tin những điều đã được các tiên tri loan báo trước. Chớ thì Đức Kytô không phải chịu mọi đau khổ như thế để bước vào cõi vinh quang sao?” Bấy giờ, bắt đầu từ Môisen và lần lượt duyệt qua các tiên tri, Người cắt nghĩa cho họ tất cả mọi điều Kinh Thánh nói về Đức Kytô.

Đang khi ba người đàm đạo với nhau như thế, thì họ đến làng Emmaus. Tại đó, Chúa Giêsu xem ra muốn rời bỏ các ông để tiếp tục cuộc hành trình của Người. Người muốn ở lại với điều kiện họ phải minh nhiên mời Người. Đó là thử thách cuối cùng Người đưa ra cho họ trước khi mở mắt họ nhận ra Người. Sự Khôn Ngoan muôn thuở đã nói qua miệng Chúa Giêsu. Hai môn đệ đã được thuyết phục: từ chỗ nghi ngờ, lo âu, họ cảm nghiệm được một niềm vui êm dịu, niềm vui vừa biết được sự thật… Niềm vui ấy xâm chiếm tâm hồn họ. Họ không chịu để sẩy mất Người, đang khi họ nếm được niềm vui ngọt ngào ấy. Họ nài ép Người và thưa: “Xin Thầy hãy ở lại với chúng tôi, vì trời đã xế chiều và ngày sắp tàn”.

Chúa Giêsu nhận lời thỉnh nguyện của họ và vào nhà với họ. Khi ngồi bàn, Người cầm lấy bánh với tư cách người được kính trọng nhất, vì lúc bấy giờ các môn đệ bái phục Người. Chúa Giêsu đọc lời chúc tụng như Người quen làm, và sau khi bẻ bánh, Người ban phát cho họ. Lúc bấy giờ mắt họ mở ra và họ nhận biết Người. Nhưng Người vội biến mất.

Nhận ra Chúa và không còn thấy Người, đó là việc trong nháy mắt, nhưng trái tim họ tràn đầy niềm vui và họ bảo nhau: “Phải chăng lòng chúng ta bừng cháy trong chúng ta khi Người đàm đạo với chúng ta ở dọc đường và cắt nghĩa Kinh Thánh cho chúng ta đó sao?” Khi còn tại thế, Người vẫn gây cảm giác mạnh cho những ai nghe Người, và không ai thấy hoặc nghe Người mà không xúc động.

Chổi dậy ngay giờ đó, họ trở về Yêrusalem, dù màn đêm đã bao phủ, dù hiểm nguy có thể đang chờ họ, vì họ cảm thấy bị thúc bách bởi nhu cầu thông truyền niềm vui.

Bây giờ chúng ta hãy thử hội nhập vào cuộc đàm thoại trên con đường Emmaus này và hãy cố gặp cho bằng được Chúa Giêsu. Xin đề nghị ra đây 5 điểm:

1- Trước hết là đón nhận sự kiện Chúa đồng hành với mình như Chúa đã hứa: “Thầy hằng ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Trong khi cùng đi với Chúa, Chúa sẽ hỏi chúng ta: “Cái gì đang ở trong con ? Con đang trải qua những tâm tình gì? Buồn vui thế nào? suy nghĩ gì ? thắc mắc gì? Con có những khát vọng, những toan tính nào? Tại sao lại buồn khổ…”. Hãy đối thoại với Chúa về những biến cố trong cuộc sống của mình và hãy trình bày những ảnh hưởng của Ơn thánh nơi bản thân ta. Chúa đang hiện diện và lắng nghe ta. Người ghi nhận tất cả những gì chúng ta thầm kín trình bày hay chia sẻ với Người.

2- Chặng thứ hai là lời mời gọi chúng ta, đến lượt mình, biết lắng nghe những gì Người nói với chúng ta, những Lời Người soi chiếu bước đường chúng ta đi, tác động trí lòng chúng ta. Lời ấy phản ánh cái nhìn của Người trên cuộc sống của chúng ta, giúp chúng ta nhận ra các dấu chỉ Người đang hiện diện và tra cứu toàn bộ Kinh Thánh, từ Môisen, Thánh vịnh và các tiên tri hướng chúng ta đến trung tâm điểm là Đức Giêsu. Nhưng Chúa giả vờ như muốn đi thêm nữa, đó là Chúa kính trọng tự do chúng ta, dành cho chúng ta cơ hội làm việc lành là mời Chúa, là tự nguyện chọn lựa Người.

3- Chặng thứ ba là lấy đi, cất đi những ngăn trở khiến mắt chúng ta không nhận ra Người: Người mà lúc nãy hai môn đệ coi như một vị khách ngoại bang ân cần thiện cảm, thông thạo Kinh Thánh, và luôn giải đáp các thắc mắc một cách sáng suốt, nhưng vẫn là một người vô danh xa lạ, thì bây giờ được họ nhận diện. Đây là một cuộc hiện ra dưới bức màn, làm cho họ linh cảm được một sự hiện diện trong dấu chỉ: “Tấm bánh bẻ ra”, nhắc lại Tiệc ly và Thập giá, một sự hiện diện của Đấng Hằng Sống nay sống lại do quyền năng của Thiên Chúa.

4- Chặng thứ tư lúc các môn đệ nhận ra sự hiện diện của Đức Kytô cũng chính là lúc họ đối diện một cách ý thức với những gì đang xảy ra trong nơi sâu thẩm nhất của tâm hồn họ, như một biến chuyển sâu xa, một cuộc phục sinh nội tâm, một ngọn lửa bừng cháy: “Nào trong chúng ta đã chẳng thấy nóng bừng ngọn lửa hun đốt đó sao?”. Chính chặng thứ tư này làm cho chúng ta nhận thức được sự hiện diện nội tâm mà hiệu quả giống như một ngọn lửa. Đó là thành quả đẹp nhất do sự hiện diện của Đấng Phục Sinh mang lại.

5- Cuối cùng, vì mang trong mình ngọn lửa thiêng liêng như thế, họ quay lại Yêrusalem để gặp các môn đệ khác, để cùng chia sẻ niềm vui về kinh nghiệm nhận ra Chúa.

Họ trở thành những người đầu tiên xây dựng kinh nghiệm sống Giáo Hội: cách họ liên kết với các môn đồ khác làm tăng thêm sự hiệp thông, vì trước khi gặp được Chúa, hai ông tranh luận với nhau mà không đi đến nhất trí. Một tế bào Giáo Hội sống động phản ánh sự hiện diện của Đấng Phục Sinh và có khả năng tiếp nối sứ mạng của Người, là làm cho Nước Thiên Chúa trị đến. Dấu chỉ của Nước ấy là sự hiệp thông huynh đệ và chia sẻ của cải, đến không còn ai phải thiếu thốn.

Hai môn đệ làng Emmaus đã sống kinh nghiệm Vượt Qua cách sâu sắc. Lúc khởi hành, họ sống trong bóng tối, nản chí và tuyệt vọng; dần dần ánh sáng lóe ra nhờ đối chiếu với Lời Chúa mà họ hiểu rõ hơn. Mắt mở ra và họ nhận được Đấng Phục Sinh đang ở giữa họ từ lúc đi đường và họ cảm thấy mình bị xâm chiếm bởi một niềm phấn khởi lôi cuốn họ vươn lên: trung tâm điểm kinh nghiệm của họ là hành động đơn giản: bẻ bánh.

Dù chúng ta sống trong tâm trạng nào thì việc chúng ta đồng hành với Đấng Phục sinh vẫn có thể tạo ra được hiệu quả làm cho chúng ta cảm thấy một ngọn lửa thiêu đốt nội tâm chúng ta, đó là điều kiện cơ bản để ngọn lửa ấy thiêu đốt cả môi trường hoạt động của chúng ta, cả giáo xứ chúng ta, v.v…

Đấng Phục sinh lưu tâm những gì chúng ta sống, trong công cuộc dấn thân phục vụ tha nhân, trong khát vọng thâm sâu của chúng ta trong những giây phút nặng nề của đau khổ, của cám dỗ, của chiến đấu, trong dự tính hiến dâng triệt để cho Thiên Chúa, trong sự tìm kiếm hiệp thông, trong niềm hy vọng hướng về tương lai.

Không những Đấng Phục sinh ao ước nghe chúng ta nói về cuộc sống cụ thể của chúng ta mà Người còn muốn hướng dẫn chúng ta trên đường đời, soi sáng chúng ta với Lời của Người, thổi bùng ngọn lửa trong trái tim chúng ta, làm cho chúng ta trở thành những người chịu trách nhiệm về các linh hồn và sai chúng ta đi truyền giáo, đến với những người anh em nghèo khổ nhất mà Người hằng quan tâm, ưu ái.

Chớ gì thánh lễ chúng ta dâng, Mình Máu Chúa chúng ta rước lấy hằng ngày giúp chúng ta nảy sinh một ước muốn cơ bản, ước muốn này là lời cầu trước sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Thánh Thể: Tất cả mọi người linh mục, tín hữu đều gặp nhau trong Thánh Thể, điểm hẹn dễ tới này, Chúa Giêsu sẽ lôi kéo tất cả đến cùng Người.

Sau đây là chứng từ của Cha Jacques Loew trước kia là một người vô tín, rồi trở thành người Công giáo, làm linh mục dòng Đaminh, sáng lập Hội Truyền Giáo Thánh Phêrô và Phaolô và trường Đức tin Fribourg, đã đưa ra trong kỳ giảng phòng tại Vatican năm 1970 trước Đức Thánh Cha và Giáo triều Rôma. Ông đã viết thế này:

“Con xin phép trình bày với quý Ngài, lúc đó con là người không tin, con đã xin các cha dòng Chartreux vui lòng cho con ở đó ít hôm để tìm kiếm. Con thật tình ước ao biết có Chúa hay không, và tại Valsainte, con đã bị dồn vào Mầu Nhiệm Thánh Thể. Trước đó, con chưa biết gì về điều này, và hôm nay con được diễm phúc ở với các ngài thì cũng chính nhờ Mầu Nhiệm Thánh Thể. Cha nhà khách đã đón tiếp con nồng hậu. Con đợi ngài giảng cho con để biện minh cho đạo giáo. Con tự nhủ: “Đến nhà các ông cha đạo, mày sẽ được dạy hết cuốn giáo lý”. Nhưng ngài chỉ nghe con nói và chỉ nói với con một câu: “Được, anh đang ở trên con đường tốt, cứ tiếp tục mà đi”. Và chỉ cho con nhà nguyện, nếu con muốn vào đó thì cứ vào. Con vào nhà nguyện mà không hiểu gì cả. Giờ cử hành Phụng vụ khởi sự và con quỳ vì nghĩ rằng đó là cách cung kính nhất, nhưng cử hành quá dài, con lại mỏi gối và ngồi lên, nhưng chính lúc đó lại là lúc dâng Mình Thánh Chúa, mọi người quỳ mà con thì làm điều trái cựa.

Đó là Thánh Lễ Thứ Năm Tuần Thánh. Con thấy các cha và các thầy cấm phòng đang tiến đến gần Bàn Thờ. Con quỳ một mình trong xó góc, xa hết mọi người, trong lúc người ta rước lễ. Ở đó, thật sự con cảm thấy hoặc là những người này điên đi nuốt một cái gì, con không biết, giống như một viên thuốc, hoặc là con đui mà không thể hiểu điều gì đang xảy ra. Và con xem các ông Chartreux này bình thường và quân bình có khả năng sống thinh lặng trong sa mạc, không thể nói là các ông ấy điên được. Cho nên con bó buộc phải suy nghĩ có một cái gì ở đó mà con không biết, vượt quá tầm hiểu biết của con, một sự hiện diện thần thánh ngoài khả năng giác quan.

Từ điểm này, con đi tìm với niềm xác tín rằng Đấng vô hình có thể có. Sau đó, con tìm đọc thấy Kinh Thánh có câu: “Này là Mình Ta. Này là Máu Ta.” Con lại thấy mình đang ở trong nhà nguyện Valsainte và cảm thấy từ thời Chúa Giêsu đến nay, tất cả đều nói: “Này là Mình Ta. Này là Máu Ta.” Đó là một sự trung thành với truyền thống 2000 năm và cung kính rước lấy Mình và Máu Thánh Chúa. Rồi con thực sự trở thành người Công giáo là do kho tàng quý báu duy nhất là Thánh Thể mà Giáo Hội Công giáo luôn luôn trung thành với cái “Này là Mình Ta. Này là Máu Ta.” Điều này mạnh hơn hết mọi thắc mắc của con. Vì như một người vô tín, được dạy dỗ trong một gia đình xã hội, đối với con, Giáo Hội Công giáo là một miếng khó nuốt với vụ án Galilê, với gương xấu của các giáo hoàng thời Phục hưng, còn biết bao chuyện khác… Nhưng tất cả những điều đó, sau cùng, không còn ký lô nào trước sự trung thành của Giáo Hội Công Giáo đối với lời “Này là Mình Ta. Này là Máu Ta.” Không có gì suy giảm sự xác quyết 2000 năm về kho tàng quý báu này, một kho tàng nâng đỡ và tăng cường Đức tin cho chúng ta.”

Chớ gì Bí tính Thánh Thể, mà năm nay chúng ta đặc biệt sùng kính, đối với chúng ta, là nguồn mạch sự sống, là của ăn nuôi hồn và còn là chứng tích hùng hồn cho tình yêu Chúa đang hoạt động giữa chúng ta và trong nhân loại. Đời còn có nhiều chướng ngại và khó khăn ư? Hãy yêu mến Chúa, rồi mọi sự sẽ trở nên dễ dàng.

Sau khi nghe xong bài giảng khai mạc đầu tiên của Đức Cha giảng phòng, Cha Tổng Đại Diện và anh em linh mục Huế chúc mừng Đức Tân Giám Mục Phụ Tá. Đáp từ, Đức Tân Giám Mục Phụ Tá nói như sau:

“Được tin làm Giám Mục Phụ Tá GP Huế, con rất lo lắng, ăn ngủ không được nhiều ngày nhiều đêm. Con có cảm giác là con thấy mình quá yếu đuối, quá bất lực, và không có tài năng gì để đáp trả lại ước vọng hay kỳ vọng của những người khác, của Đức Tổng, của anh em linh mục đối với con. Nhưng rồi, với tinh thần vâng phục và nhất là phó thác, làm cho con ăn ngon, ngủ ngon lại. Con đặt tin tưởng vào Đức Kitô, nhất là vào sự phù trợ của Đức Maria. Và có lẽ hôm nay, Chúa cũng quan phong cho con được tham dự ngay cái tuần tĩnh tâm năm vào kế tiếp những ngày được thông báo. Có lẽ đây là thời điểm tốt nhất cho con tìm lại được sự an vui, nhất là phó thác vào tình thương yêu của Thiên Chúa, của Đức Kitô và của Mẹ Maria.

Con rất tâm đắc với lời của Chúa Giêsu nói với các tông đồ: “Nầy, Thầy ở giữa các con như một người phục vụ”. Vì thế, con chọn câu châm ngôn cho đời sống linh mục của con bây giờ: “Sicut qui ministrat”, “Như một người phục vụ”.

Với tư cách là một giám mục phụ tá, con thấy không có gì hơn là một con người đứng bên cạnh Đức Tổng để giúp Ngài, cộng tác với Ngài, và tuỳ theo khả năng, làm bất cứ cái gì Ngài sai bảo để cùng đóng góp cho phần thăng tiến của Giáo Phận nói riêng, và của Giáo Hội nói chung, như Đức Cha giảng phòng vừa nhắc đến.

Con xin đặt tất cả niềm tin vào sự yêu thương và sự cầu nguyện của Đức Tổng, của Quý Cha, cho con trong những ngày nầy, và nhất là cho suốt cuộc đời còn lại của con.

Xin chân thành cám ơn.”

(còn tiếp)

Linh mục Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang