Máy yếu hay Internet chậm xin nhấn vào nút Play bên dưới đây
Ngài đưa ra lời kêu gọi trên đây trong cuộc gặp gỡ hàng ngàn giới trí thức và sinh viên Ðại học Bologna, bắc Italia, chiều Chúa Nhật mùng 1 tháng 10 năm 2017 trong khuôn khổ chuyến viếng thăm mục vụ dài 13 tiếng đồng hồ tại hai giáo phận Cesena và Bologna.
Lúc 4 giờ rưỡi chiều, Ðức Thánh Cha từ nhà thờ chính tòa thánh Phêrô của Bologna đến quảng trường trước Vương cung thánh đường Thánh Ðaminh. Ngài tiến vào Vương cung Thánh Ðường thánh Ða Minh, chào thăm hàng chục tu sĩ Ða Minh trong nhà thờ, rồi đến cầu nguyện trước mộ của thánh Ða Minh.
Tại đây, ngài cũng ghi vào sổ vàng lưu niệm những hàng chữ bằng tiếng Tây Ban Nha:
"Trước mộ Thánh Ða Minh, tôi đã cầu nguyện cho dòng Anh em Thuyết Giáo. Tôi đã cầu xin cho các phần tử của Dòng ơn trung thành với gia sản đã lãnh nhận. Tôi đã cám ơn Chúa vì tất cả những điều tốt lành mà các con cái Chúa đã làm cho Giáo Hội và tôi đã cầu xin như một món quà là sự gia tăng nhiều ơn gọi. Anh em Ða Minh thân mến: xin Chúa chúc lành cho anh em, và xin Ðức Trinh Nữ Thánh bảo vệ anh em, và xin anh em vui lòng đừng quên cầu nguyện cho tôi".
Sau đó, Ðức Thánh Cha mới tiến ra quảng trường bên ngoài, để gặp gỡ hàng ngàn người gồm các giáo sư, sinh viên, đại diện cho 85 ngàn sinh viên các ngành thuộc đại học kỳ cựu này.
Lên tiếng sau lời chào mừng của giáo sư viện trưởng, Ðức Thánh Cha nói:
"Từ gần 1 ngàn năm nay, Ðại Học Bologna là "một phòng thí nghiệm thuyết nhân bản: tại đây cuộc đối thoại với các khoa học đã mở ra một thời đại và hình thành thành phố này. Vì thế Bologna được gọi là "thông thái": thông thái nhưng không kiêu hãnh, chính nhờ Ðại học luôn cởi mở, giáo dục các công dân của thế giới và nhắc nhớ rằng căn tính của đại học này là căn tính căn nhà chung, universitas.
Ðức Thánh Cha cũng nhận xét rằng Ðại học Bologna cũng nổi tiếng vì sự tiếp đón dành cho các sinh viên đến từ những môi trường xa xăm và khó khăn, và đó là một dấu chỉ tốt đẹp: "ước gì Bologna là ngã tư ngàn đời của các cuộc gặp gỡ, đối chiếu và tương quan, và gần đây là chiếc nôi của dự án Erasmus, luôn luôn có thể vun trồng ơn gọi này!"
Ngài nhắc đến sự kiện Ðại học Bologna hình thành với việc nghiên cứu luật, và nói: điều này chứng tỏ Ðại học ở Âu Châu có những căn cội sâu xa nhất trong chủ thuyết nhân bản, mà các tổ chức dân sự và Giáo Hội, qua những vai trò khác nhau, đã góp phần vào. Chính Thánh Ða Minh cũng ngưỡng mộ sức sinh động của thành Bologna, với số sinh viên đông đảo đến đây để học dân luật và giáo luật. Bologna với Ðại học ở đây đã biết đáp ứng những nhu cầu của xã hội mới, thu hút những sinh viên muốn tìm hiểu. Thánh Ða Minh thường gặp gỡ họ. Theo một tường thuật, một học giả, ngạc nghiên về kiến thức của thánh nhân về Kinh Thánh, đã hỏi Người xem đã học từ những sách nào. Câu trả lời thời danh của Thánh Ða Minh là: "Tôi đã học trong cuốn sách bác ái hơn là trong những cuốn sách khác; cuốn sách này dạy mọi sự".
Ðức Thánh Cha đã đề nghị với mọi người 3 thứ quyền mà ngài thấy rất thời sự.
- Trước hết là: Quyền được văn hóa. Ðây không phải chỉ là quyền được học hành, nhưng còn là bảo vệ sự khôn ngoan, nghĩa là một kiến thức nhân bản và nhân bản hóa. Quá nhiều khi người ta bị ảnh hưởng của những lối sống tầm thường và phù du, thúc đẩy con người theo đuổi thành công rẻ tiền, coi rẻ hy sinh, nuôi dưỡng ý tưởng cho rằng việc học hành nghiên cứu là vô ích nếu không mang lại ngay những gì cụ thể. Không phải vậy, việc học giúp đặt những câu hỏi, nó giúp ta không bị tê liệt vì sự tầm thường, và giúp tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.
Ðức Thánh Cha cũng nhắc nhở giới sinh viên và trí thức đại học đừng chiều theo khán thính giả, không theo những kịch bản gây phẫn nộ, thường che đậy những ích kỷ lớn, trái lại cần tận tụy hăng say với công tác giáo dục, nghĩa là rút ra những điều tốt đẹp nhất của mỗi người để mưu ích cho tất cả. Cần chống lại thứ ngụy văn hóa biến con người thành đồ phế thải, biến việc nghiên cứu thành lợi lộc và biến khoa học thành kỹ thuật. Cùng nhau chúng ta khẳng định một nền văn hóa xứng với con người, một nghiên cứu nhìn nhận những công lao, tưởng thưởng hy sinh, và một kỹ thuật không tùng phục những mục tiêu thương mại, một sự phát triển trong đó không phải tất cả những gì tiện dụng đều là điều hợp pháp".
- Thứ hai là: Quyền được hy vọng. Bao nhiêu người ngày nay đang cảm thấy cô đơn, bất an, cái vẻ nặng nề của sự bỏ rơi. Vì thế cần dành chỗ cho quyền hy vọng: đó là quyền không bị xâm chiếm hằng ngày vì những lời tuyên bố gây sợ hãi và oán ghét. Ðó là quyền không bị tràn ngập vì những lời mị dân hoặc phổ biến những tin tức giả dối gây lo âu và nhắm thủ lợi. Ðó cũng là quyền được thấy có những giới hạn hợp lý được đề ra cho những thứ tin tức đen, làm sao để để cả những tin tức tốt đẹp cũng được nói tới. Ðó là quyền của người trẻ được tăng trưởng, không phải sợ hãi về tương lai, được biết rằng trong cuộc sống có những thực tại đẹp đẽ và lâu bền, đáng được chúng ta dấn thân. Ðó là quyền tin rằng tinh yêu chân thực không phải là "dùng rồi vứt bỏ" và công ăn việc làm không phải là một ảo tưởng không đạt tới được, nhưng là một lời hứa cho mỗi người, cần phải được duy trì.
Thật là đẹp dường nào nếu các phòng học của các đại học trở thành những công xưởng hy vọng, nơi làm việc cho một tương lai tốt đẹp hơn, nơi mà người ta học để trở thành những người trách nhiệm về bản thân và thế giới!
- Sau cùng là: Quyền hòa bình. Ðây là một quyền và nghĩa vụ được ghi khắc trong tâm hồn của nhân loại, vì "sự hiệp nhất trổi vượt hơn xung đột)) (E.G. 226).
Ðức Thánh Cha khẳng định rằng: Ðứng trước hòa bình, chúng ta không thể dửng dưng hoặc trung lập. Ðức Hồng Y Lercaro ở đây đã từng nói rằng: "Giáo Hội không thể trung lập đứng trước sự ác, bất kỳ từ đâu tới: sự sống của Giáo Hội không phải là trung lập, nhưng là lời ngôn sứ (Bài giảng 1-1-1968), không trung lập, nhưng là đứng vào hàng ngũ bênh vực hòa bình!
Vì thế, chúng ta kêu gọi quyền hòa bình như quyền của tất cả mọi người được giải quyết các cuộc xung đột mà không bạo lực. Ðể được vậy, chúng ta lập lại: không bao giờ chiến tranh nữa, không bao chống lại người khác, không bao giờ không có người khác! Hãy đưa ra ánh sáng những lợi lộc và âm mưu, thường là tối tăm, của những kẻ gây ra bạo lực, nuôi dưỡng sự chạy đua võ trang, chà đạp hòa bình bằng những nghiệp vụ. Ðại học được nảy sinh ở đây để học luật, để tìm kiếm những gì bảo vệ con người, điều hành cuộc sống chung và bảo vệ chống lại những lý lẽ của kẻ mạnh hơn, của bạo lực và độc đoán. Một thách đố rất thời sự là khẳng định các quyền con người và các dân tộc, các quyền của những người yếu thế hơn, người bị gạt bỏ, quyền của thiên nhiên, căn nhà chung của chúng ta.
Và Ðức Thánh Cha kết luận rằng:
"Anh chị em đừng tin những kẻ nói với anh chị em rằng chiến đấu cho những điều ấy là vô ích và chẳng có gì thay đổi! Ðừng hài lòng với những giấc mơ bé nhỏ, nhưng hãy mơ ước những điều vĩ đại... Cùng với anh chị em, tôi mơ ước "một thuyết nhân bản mới của Âu Châu, để được vậy cần có ký ức, can đảm, một ước mong lành mạnh và nhân bản", tôi mơ ước một Âu Châu là người mẹ tôn trọng sự sống và cống hiến hy vọng sự sống, một Âu Châu trong đó người trẻ hô hấp không khí trong lành của sự lương thiện, yêu vẻ đẹp của văn hóa và một đời sống đơn giản, không bị ô nhiễm vì những nhu cầu tiêu thụ vô cùng.
Hoạt động sau cùng của Ðức Thánh Cha trong ngày 1 tháng 10 năm 2017 tại Bologna là thánh lễ ngài cử hành lúc 5 giờ chiều tại sân vận động Dall'Ara, ở khu ngoại ô, cách trung tâm thành này hơn 2 cây số. 40 ngàn tín hữu đã ngồi chật thao trường này để tham dự thánh lễ với Ðức Thánh Cha.
Ðồng tế với Ðức Thánh Cha có 24 Giám Mục thuộc 15 giáo phận ở miền Emilia Romagna và hàng trăm Linh Mục.
Trong bài giảng thánh lễ chiều ngày 1 tháng 10, Ðức Thánh Cha Phanxicô phê bình lối sống giả hình, và nhắn nhủ các tín hữu đừng quên 3 yếu tố quan trọng của đời sống Kitô: Lời Chúa, Thánh Thể và người nghèo.
Ðức Thánh Cha đã diễn giải ý nghĩa bài Tin Mừng của Chúa Nhật thứ 26 thường niên năm A, kể lại dụ ngôn 2 người con được cha yêu cầu đi làm việc trong vườn nho của ông: người thứ I từ chối, nhưng rồi đã nghĩ lại và đi làm; người con thứ hai nhận lời, nhưng rồi lại không đi làm.
Ngài nói:
"Qua dụ ngôn này, Chúa Giêsu đặt trước chúng ta hai con đường mà chúng ta cảm nghiệm, nhưng không luôn sẵn sàng xin vâng bằng lời nói và việc làm, vì chúng ta là người tội lỗi. Nhưng chúng ta có thể chọn lựa giữa một bên là người tội lỗi đang tiến bước, tiếp tục lắng nghe Chúa, và khi sa ngã, thì thống hối và trỗi dậy, như người con thứ I; hoặc chúng ta là những ngừơi tội lỗi ngồi lỳ, luôn sẵn sàng biện minh cho mình và chỉ có những lời nói xu thời.
Chúa Giêsu dạy dụ ngôn này và áp dụng cho một số lãnh tụ tôn giáo thời ấy, họ giống như người con có đời sống hai mặt, trong khi dân thường thì cư xử như người con thứ I. Các thủ lãnh tôn giáo ấy biết và giải thích mọi sự, không chê được, như những nhà trí thực tôn giáo đích thực. Nhưng họ không khiêm tốn lắng nghe, không có can đảm tự hỏi mình, không có sức để thống hối. Và Chúa Giêsu rất nghiêm khắc: ngài nói cả những người thu thuế cũng đi trước họ vào Nước Chúa. Ðó là một lời trách cứ nặng nề, vì những người thu thế thời ấy là những người thối nát, phản bội tổ quốc. Vậy đâu là vấn đề của các thủ lãnh tôn giáo ấy? Họ không sai lầm về điều gì, nhưng sai lầm trong lối sống và suy tư trước mặt Chúa: qua lời nói và với những người khác, họ là những người quyết liệt gìn giữ các truyền thống của con người, nhưng không có khả năng hiểu rằng cuộc sống theo Thiên Chúa là một hành trình và đòi phải có sự khiêm tốn cởi mở, thống hối và bắt đầu lại.
Ðức Thánh Cha đặt câu hỏi:
"Vậy điều ấy nói gì với chúng ta? Thưa rằng không có một đời sống Kitô ở bàn giấy, ở bàn học, được kiến tạo một cách khoa học, trong đó chỉ cần chu toàn vài giới luật là được an tâm: đời sống Kitô là một hành trình khiêm tốn của một lương tâm không bao giờ cứng nhắc và tín thác nơi Chúa trong sự thanh bần, không bao giờ tự phụ, tự mãn cho bản thân. Nhờ đó, chúng ta vượt thắng những điều đã xảy ra và tái diễn sự ác xưa kia, như Chúa Giêsu tố giác trong dụ ngôn: đó là sự giả hình, lối sống hai mặt, óc duy giáo sĩ, có kèm theo thái độ vụ luật, xa cách dân chúng. Chìa khóa chủ yếu ở đây là thống hối: sự thống hối giúp ta không cứng nhắc, biến thái độ từ khước Thiên Chúa thành vâng phục, và biến sự chấp nhận thành sự phủ nhận tội lỗi vì tình yêu đối với Chúa. Thánh ý Chúa Cha, Ðấng hằng ngày nói với lương tâm chúng ta, chỉ được thể hiện trong hình thức thống hối và hoán cải liên tục. Xét cho cùng, trong hành trình của mỗi người có hai con đường: một là người tội lỗi thống hối hay là những người tội lỗi giả hình. Nhưng điều đáng kể không phải là những lý luận biện minh và toan tính cứu vãn thanh danh, cái vẻ bề ngoài của mình, nhưng là một con tim hằng ngày tiến bước với Chúa, chiến đấu mỗi ngày, thống hối và trở về cùng Ngài. Vì Chúa tìm kiếm những con tim thanh khiết, chứ không tìm những kẻ thanh sạch "bề ngoài".
Tiếp tục bài giảng thánh lễ chiều Chúa Nhật mùng 1 tháng 10 năm 2017 ở Bologna, Ðức Thánh Cha nói:
"Anh chị em thân mến, chúng ta thấy rằng Lời Chúa đào sâu, "phân định những tâm tình và tư tưởng của tâm hồn" (Dt 4,12). Nhưng Lời Chúa cũng thời sự: dụ ngôn này cũng nhắc nhở chúng ta về những tương quan không luôn dễ dàng giữa những người cha và người con. Ngày nay, giữa những thay đổi nhanh chóng giữa các thế hệ, chúng ta nhận thấy rõ hơn nhu cầu độc lập với quá khứ, nhiều khi đến độ nổi loạn. Nhưng sau những khép kín và im lặng dài của phía này đối với phía kia, nên phục hồi cuộc gặp gỡ, cho dù còn những xung đột, có thể kích thích một sự quân bình mới. Giống như trong gia đình, trong Giáo Hội và xã hội cũng vậy: đừng bao giờ từ chối gặp gỡ, đối thoại, tìm những con đường mới để đồng hành với nhau.
Và Ðức Thánh Cha để lại cho các tín hữu 3 điểm tham chiếu, bắt đầu bằng 3 chữ P theo tiếng Ý:
- Trước tiên là "Parola", Lời Chúa, là địa bàn để tiến bước trong khiêm tốn, để không bị lạc mất con đường của Thiên Chúa và rơi vào thái độ trần trục.
- Thứ hai là "Pane", Bánh, Bánh Thánh Thể, vì từ Thánh Thể mọi sự bắt đầu. Chính trong Thánh Thể chúng ta gặp Giáo Hội, chứ không phải trong những chuyện tầm phào hoặc trong những tin tức thời sự, nhưng là tại đây, trong Mình Chúa Kitô được những người tội lỗi và túng thiếu chia sẻ, nhưng họ cảm thấy được yêu thương và ước muốn yêu mến.
- Thứ ba là "Poveri", những người nghèo. Ngày nay vẫn còn bao nhiêu người thiếu những điều cần thiết. Nhưng cũng có bao nhiêu người nghèo tình thương, những người neo đơn, và nghèo Thiên Chúa. Nơi tất cả những người ấy chúng ta tìm thấy Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu trong thế giới đã đi theo con đường nghèo khó, tự hạ, như thánh Phaolô đã nói trong bài đọc thứ hai ngày lễ hôm nay... Từ Thánh Thể đến người nghèo, chúng ta đi gặp Chúa Giêsu. Anh chị em đã ghi lại câu nói mà Ðức Hồng Y Lecaro thích thấy được khắc trên bàn thờ: "Nếu chúng ta chia sẻ bánh thiên quốc, làm sao chúng ta không chia sẻ bánh trần thế?". Chúng ta luôn nhớ đến điều ấy. Lời Chúa, Thánh Thể và người nghèo. Chúng ta hãy xin ơn không bao giờ quên những yếu tố cơ bản này, những yếu tố nâng đỡ hành trình của chúng ta".
Kết thúc thánh lễ vào lúc gần 7 giờ chiều, Ðức Thánh Cha đã đáp trực thăng trở về Vatican.