Chúa Nhật III Phục Sinh Năm A

Cần Chúa giải phóng

Hai môn đệ trên làng Emmaus, có lẽ vừa mới dự lễ Vượt qua tại Giêrusalem, bây giờ, sau khi tan lễ, họ trở về làng mình.

Khác mọi cuộc hành hương hàng năm, hành hương Giêrasalem năm nay, các môn đệ trở về, mang theo cả một tâm trạng ngỗn ngang, run rẫy. Bởi Thầy của họ vừa mới bị giết chết thê thảm.

Họ trở về, nhưng tâm tưởng vẫn vươn đầy hình ảnh tàn khốc về tất cả những gì mà những nhà lãnh đạo đã dành cho Thầy. Họ trở về, nhưng chắc chắn, bên trong cõi lòng, vẫn còn đó những nỗi bàng hoàng, xao xuyến, sợ hãi, đau buồn, chán nản…

Khác mọi cuộc hành hương trong đời họ, lần hành hương này mang tính vĩnh biệt, vì Chúa đã chết. Có thể họ sẽ còn những lần hành hương khác, nhưng đấy chỉ là hành hương theo nghi thức tôn giáo và vì lòng đạo đức. Nó sẽ thiếu niềm hy vọng, niềm vui, sự háo hức vì có Chúa, nguồn tin tưởng của họ…

Chính những biến cố xảy ra bên ngoài cùng những tâm tư đầy thất bại bên trong tâm hồn như thế, làm bước chân hai môn đệ trên làng Emmaus trĩu nặng. Họ bước bên nhau lầm lũi, tương lai xa vắng. Trước mắt, sự tối tăm của cuộc đời như đang giăng mắc, chẳng khác một ngày của họ đang khuất và bóng chiều đang đổ.

Họ bước bên nhau nhưng không chút niềm vui, trái lại, nỗi buồn của cả hai như cộng vào nhau, làm tăng thêm, làm mạnh hơn. Đã buồn, càng buồn!

Những bước đi của họ là những bước của kẻ dại khờ: Trước đây từng tự trói buộc mình vào ước mơ đổi đời hảo huyền, không tưởng. Nay lại tự trói buộc mình vào nỗi ám ảnh thất bại, nỗi ám ảnh của kẻ đi tìm ánh sáng, nhưng chỉ đối diện sự tối tăm của đoạn cuối con đường hầm.

Nghĩ như thế mà thấy hai môn đệ đáng thương. Thấy họ càng điêu đứng, càng thất thỉu, càng quay quắt…

Nghĩ như thế mà thương cho thân phận của những ai mải miết rong ruỗi trong đời chỉ để thực hiện giấc mơ trần thế, một giấc mơ rẻ rúng đến độ chỉ có cơm-áo-gạo-tiền, chỉ có quyền-lực-danh cho một kiếp “quán trọ-trần gian”. Đó là một sự trói buộc đầy nô lệ.

Nhưng Đấng Phục Sinh không đứng bên lề cuộc đời con người. Người là Đấng giải phóng. Người yêu chuộng sự giải phóng. Người tìm đến để có thể giải phóng tất cả những gì trói buộc, những gì gây nên nỗi áp bức và nô lệ.

Cũng như xưa, Thiên Chúa đã từng đi tìm Adong, Evà trao lời hứa cứu độ. Người tìm Cain, kẻ sát hại em ruột để ngỏ với Cain rằng, người tôn trọng sự sống và không muốn bất cứ ai xúc phạm sự sống. Người tìm dân riêng và trao sự lãnh đạo toàn dân cho Môsê, để Môsê có thể trực tiếp liên đới với dân và với chính Người. Sau này, Người lại tiếp tục dẫn dân trở về quê cha đất tổ của họ để lập quốc, để ổn định đời sống sau thời gian lưu đàu khổ ải...

Đó là những hành trình giải phóng, Thiên Chúa thực hiện để cởi bỏ mọi trói buộc, mọi ách nô lệ mà con người, hoặc vì hoàn cảnh, hoặc tự mình mang vào. Vô số những bằng chứng từ Lời Chúa, Thiên Chúa cho thấy Người trung thành với ơn giải phóng mà từ ngàn xưa Người đã thực hiện…

Cũng vậy, Đấng Phục Sinh đồng hành để lắng nghe tâm tư nặng trĩu của môn đệ, để giải phóng họ khỏi những trói buộc, mà vì mê muội, khiến họ tự chuốc lấy. Giữa lúc ề chề, thất vọng, yếu đuối, và bất ngờ nhất, họ được Chúa tìm thấy. Chúa không muốn họ chìm sâu trong tuyệt vọng.

Phương thế Chúa dùng để giải phóng họ, cởi trói họ là Thánh Kinh, là bí tích Thánh Thể:

- Bằng Thánh Kinh, “bắt đầu từ ông Môsê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông tất cả những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”. Chúa Giêsu mở trí để môn đệ hiểu kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Chúa giúp họ nhận ra, đau khổ là nhịp cầu để Chúa vượt qua, tiến về vinh quang. Đau khổ không là chuyện may rủi, nhưng có vị trí trong chương trình cứu độ.
Chính nhờ Lời Chúa mà các môn đệ được cởi trói. Tin Mừng mà Đấng Phục Sinh trao tặng là Tin Mừng ngọt ngào, khiến nỗi đau dịu đi và cõi lòng được hâm nóng, trở nên ấm áp diệu kỳ. Sự giải phóng thiêng liêng khiến họ hạnh phúc thốt lên: “Khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao?”.

- Bằng hành động của buổi chiều thứ năm tuần Thánh khi lập bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cử hành lại nghi thức bẻ bánh, sau khi đã giảng dạy Lời của Chúa, đã thêm sức cho các môn đệ. Họ đã thực sự được giải phóng khỏi tất cả những gì mà chỉ trước đây ít phút, họ từng bị cột trói.

Giờ đây, họ phục hồi niềm tin. Họ tìm lại được Chúa, tìm lại Đấng luôn giải phóng trên suốt dọc đường đời của họ. Chúa vẫn tiếp tục ở cùng họ. Người tỏ mình cho họ qua những dấu chỉ của lòng tin. Người tiếp tục lôi kéo họ vào mầu nhiệm phục sinh của Người.

Từ đây, họ vững vàng hơn, tin tưởng hơn, can đảm hơn để có thể ra đi, không phải chỉ quay về Giêrusalem, nhưng là vươn ra mọi nẻo đời để công bố tin mừng phục sinh, công bố tình yêu cứu độ, tình yêu giải phóng của Thiên Chúa.

Chắc chắn, không ai là không có ước mơ. Chúng ta hãy để ước mơ trường sinh chi phối đời mình, chứ đừng để “mộng vàng” trần thế trói buộc.

Bởi biết bao nhiêu lần, ta chỉ loay hoay với mưu sinh, với việc kiếm tiền, mà tấm thân thành ra phờ phạc, xót xa.

Biết bao nhiêu lần ta phạm tội vì thói tham lam, vì muốn vượt quyền, đoạt chức, nên tâm trí mù tối, cuộc sống diễn ra nhiều bi thương.

Biết bao nhiêu lần vì tranh giành, tranh chấp, ta mất hết lẽ sống, mất nghĩa ân.

Bị trói buộc nhiều thứ, mà lẽ ra phải cảnh giác để không bị trói buộc, vì thế, ta chẳng còn khám phá Chúa đang hiện diện, chẳng còn nhận thấy tình thương quan phòng của Chúa.

Kinh nghiệm của hai môn đệ trên làng Emmaus cũng là kinh ghiệm của chúng ta: Do bị cột trói bởi nhiều thứ, mà đời ta cứ mãi bất hạnh. Chúa có đến, ta không ngờ. Chúa có đi, ta chẳng biết mà giữ lại. Chúa ở lại với ta mà ta không cảm được, không nhìn thấy. Lúc tưởng Chúa vắng mặt, thì Chúa ở gần bên. Lúc nhận ra Chúa gần bên, thì Chúa đã biến mất.

Hãy trở về với nguồn mạc khải là Lời Chúa và với nguồn sống thần linh là Thánh Thể, ta sẽ tìm lại năng lực sống, để từ nay, Chúa giải phóng cõi lòng ta, giải phóng những u tối vây bũa ta.

Hãy cầu nguyện nhiều, hãy suy niệm Thánh Kinh bền bỉ, siêng năng kết hợp với Thánh Thể, để chính khi ta tưởng Chúa biến mất, sẽ là giây phút ta cảm nghiệm sâu hơn sự hiện diện của Chúa.

Bởi những lúc ta tưởng mình phải đi một mình, càng là lúc ta được Chúa đồng hành. Chỉ có cảm nghiệm thiêng liêng như thế, ta mới thực sự mở ngỏ để Chúa chạm đến cõi tâm hồn. Chỉ có mở lòng lãnh nhận ơn được giải phóng, ta mới thuộc trọn về Chúa, mới không vướng bận cõi đời.