THÁNH CLARA ASSISI
MỘT BÀI CA CHÚC TỤNG


Thư Anh Tổng Phục Vụ Giacômô Bini, Ofm.
Rôma 2002
Lạy Chúa, con xin chúc tụng Chúa vì Chúa đã dựng nên con.

Nhập đề

Nhân Danh Chúa!
Tôi chào thăm các chị em nghèo khó của thánh Clara!
Tôi chào thăm các chị em sống đời chiêm ngưỡng và gắn bó với linh đạo thánh Phanxicô và thánh Clara!

Tôi chào thăm tất cả anh chị em là những người yêu mến thánh Clara và thánh Phanxicô.
Trong tư cách là người Phục vụ và tôi tớ của mọi người, tôi cầu chúc cho anh chị em được “bình an bởi trời và tình yêu chân thật của Chúa” (T Th II,1).

“Nhờ ơn Chúa soi sáng, chị em đã hiến mình để trở thành ái nữ và nữ tì của Đức Vua rất cao cả, là Chúa Cha trên trời và hiền thê của Chúa Thánh Thần, khi chọn đời sống hoàn thiện theo Tin mừng. Cho nên, tôi quyết tâm và xin hứa rằng, anh em tôi và tôi sẽ ân cần săn sóc và đặc biệt lo lắng cho chị em như là cho chính anh em chúng tôi vậy” (L Cl 6,3-4; x. Ql Cl)

Được gợi hứng từ những lời trên đây và vâng theo lời ấy, tôi, người anh em của chị em, quyết định viết thơ này cho chị em là những người có một chỗ đứng đặc biệt trong số các môn đệ của thánh Phanxicô và thánh Clara. Nhân danh mọi thành phần trong gia đình phan sinh, những người ấp ủ dự phóng sống theo Tin mừng của thánh Clara và thánh Phanxicô, tôi cám ơn chị em vì gia sản thiêng liêng phong phú mà chị em đang bảo toàn và phát huy: đó là phần đóng góp đặc biệt của chị em cho đoàn sủng chung của chúng ta. Chúng tôi biết ơn chị em vì mối hiệp thông sâu xa với chúng tôi trong Thánh Thần: sự hiệp thông ấy nâng đỡ chúng tôi, khi chúng tôi rao truyền Tin mừng trên các nẻo đường của thế giới. Chúng tôi cám ơn chị em vì lòng trung tín không lay chuyển đối với ơn gọi làm “những tuần canh buổi hừng đông” âm thầm, tỉnh thức chiêm ngưỡng và phát hiện giữa đêm tối của các biến cố nhân loại, những chồi non của sự sống mới đã nẩy mầm trên mặt đất. Chị em giúp chúng tôi làm sáng tỏ ơn gọi mà chúng tôi chia sẻ với chị em và tìm thấy niềm vui trong đó. Khởi đầu Di chúc, thánh nữ Clara đã ngây ngất cất lên lời ca tạ ơn: “Trong các ơn chúng ta đã nhận được và vẫn còn tiếp tục nhận được hằng ngày từ vị Đại Ân nhân của chúng ta, là Chúa Cha đầy lòng thương xót, thì ơn mà chúng ta phải cảm tạ tôn vinh Người hơn cả, đó là ơn kêu gọi chúng ta. Ơn ấy càng hoàn hảo và càng cao trọng bao nhiêu, chúng ta lại cần phải hết lòng tri ân Người bấy nhiêu” (DC Cl 2-3). Vì thế, chúng ta bị đòi buộc phải tấn tới trong việc hiểu biết và quý trọng ơn gọi, đồng thời trung thành và quảng đại đáp lại ơn gọi ấy.

Năm sau chúng ta sẽ kỷ niệm 750 năm ngày mẹ và chị Clara chúng ta qua đời. Đó sẽ là thời gian hồng ân đặc biệt để chúng ta làm sinh động trong chúng ta mối tình “phu thê” vốn đã chi phối trọn cuộc sống thánh Clara. Khi viết những lời này, tâm trí tôi hướng về những lời nói và cử chỉ tuyệt vời của thánh Clara trong những ngày trước cuộc Xuất hành cuối cùng của thánh nữ. Bấy giờ, chiếc gường đơn sơ của thánh Clara tại đan viện San Đamianô đã trở nên nơi tập trung của các mối tương giao và gặp gỡ giàu ý nghĩa nhân bản và thiêng liêng sâu xa.

Tôi tưởng nghĩ rằng ngay cả một lá thư như lá thư này cũng có thể trở thành một nơi chốn để hiệp thông và chia sẻ huynh đệ, nơi mà chúng ta cũng có được cơ hội khám phá ra “một cái gì mới mẻ về Đức Chúa” mà thánh nữ Clara chờ đợi nơi anh Giuniphêrô. Đó chính là điều mà con người thời nay nóng lòng hy vọng sẽ nhận được từ nơi chúng ta: “Một điều gì mới mẻ về Đức Chúa”.

Khi thăm viếng anh em trên khắp thế giới, tôi cũng được vinh dự thăm viếng chị em: lắng nghe chị em, chia sẻ và cùng cầu nguyện với chị em. Tôi luôn luôn hết sức xúc động khi cảm nghiệm tình huynh đệ thiết tha đã liên kết chị em với anh em và toàn thể gia đình phan sinh, cũng như khi tôi nhận thấy nỗi khát khát Thiên Chúa nồng cháy đã thúc đẩy cộng đoàn chị em và chị em muốn chia sẻ với chúng tôi. Là những anh chị em lữ hành trên thế giới, chúng tôi chắc chắn có nhiều điều phải học hỏi từ kinh nghiệm thần giao của chị em, triệt để và tuyệt đối tới mức chỉ người nào được Tình yêu chiếm ngự mới có thể thấu hiểu hay ước đoán được.

Các anh Raynanđô, Lêô, Angêlô và Giuniphêrô đã có mặt bên cạnh chị Clara trong những ngày cuối đời. Anh em lắng nghe, trò chuyện với chị, và những lời họ nói với nhau làm bùng lên ngọn lửa say mê tìm kiếm Thiên Chúa. Qua lá thư này, tôi hy vọng chúng ta cũng có thể gặt hái được kết quả như thế, như thể nó kéo dài đến ngày hôm nay tình huynh đệ thiết tha của buổi ban đầu, vốn đã hằng nâng đỡ các Anh Em Hèn Mọn và Chị Em Nghèo Khó trong cuộc lữ hành trần thế.

Những suy tư này trực tiếp gởi đến Chị Em Nghèo Khó thánh Clara nhân dịp kỷ niệm 750 năm ngày qua đời thánh Clara. Thật vậy, tất cả các bản văn tôi trích dẫn đều quy chiếu về Thánh nữ. Tuy nhiên đó cũng là sứ điệp huynh đệ gởi đến các chị em phan sinh sống đời chiêm ngưỡng trên khắp thế giới; tôi hẳn đang nhớ tới họ khi viết thư này và tin tưởng rằng các lời đề nghị và mời gọi của tôi có thể giúp ích cho họ.

Sau hết, tôi hy vọng anh chị em trong đại gia đình phan sinh trên thế giới sẽ có dịp đọc thư này, vì việc xây dựng tính bổ trợ và hỗ tương là một nhiệm vụ được uỷ thác cho tất cả chúng ta.

I. Sứ vụ chung
của các huynh đệ đoàn chúng ta


Có hai yếu tố bất khả phân ly trong mọi mối tương giao cá vị với Chúa và trong mọi đoàn sủng tu trì. Đó là ơn gọi và sứ vụ, “hãy theo Ta” và “ hãy ra đi”, làm chứng cho người ta biết điều anh em đã thấy. Chúa kêu gọi chúng ta để biến chúng ta thành môn đệ Người và sai chúng ta đi làm chứng nhân khắp cùng thế giới. Chấp nhận sứ vụ ấy, chúng ta trở thành “ký ức” sống động của Tin mừng Đức Giêsu Kitô trong thời đại chúng ta, luôn sẵn sàng đưa ra những hình thức phù hợp hơn để làm chứng và công bố Nước Thiên Chúa đã hiện diện giữa chúng ta. Là anh chị em của thánh nữ Clara và thánh Phanxicô, chúng ta có một sứ điệp rõ ràng và đặc trưng phải công bố, dù chúng ta thực hiện theo những cách thức khác nhau. Luật dòng cung cấp cho chúng ta những chỉ dẫn rõ ràng nhằm nêu bật những yếu tố cơ bản trong hành trình tu trì của chúng ta.

Sống và làm chứng cho Tin mừng

“Tôi cũng thấy rằng, với lòng khiêm nhường, sức mạnh của niềm tin và vòng tay vững chắc của đức nghèo khó, Bà đã ghì chặt lấy kho tàng vô giá chôn dấu trong thửa ruộng thế gian và trong cõi lòng con người; với kho tàng ấy, Bà đã mua được Đấng đã tạo thành mọi sự từ hư vô. Để nói bằng chính những lời của thánh Tông đồ, tôi xem Bà như “cộng sự viên” của chính Thiên Chúa, và như người nâng đỡ những chi thể yếu đuối trong thân thể khôn tả của Người” (3 T Ag 7-8).

Luật sống của mọi thành viên gia đình phan sinh là “sống thánh Phúc âm của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (X. L 1,1; L Cl 1,2; Luật Dòng Phan sinh Tại thế 4). Trên hết mọi sự, họ ao ước “được Thần khí Chúa tác động nơi mình” (L 10,8; L Cl 10,9). Họ dành vị trí ưu tiên tuyệt đối cho việc cầu nguyện và chiêm ngưỡng trong đời sống của họ. (X. L 5,2; L Cl 7,2). Con đường họ theo đuổi cũng là một đối với mọi người và đã được vạch rõ: đó là sự khiêm hạ và nghèo khó của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta và của Mẹ thánh Người. Thánh nữ Clara diễn tả một cách đơn sơ: “Con Thiên Chúa đã trở nên Con Đường cho chúng ta” (DC Cl 5). Cuộc sống nghèo hèn của Chúa Giêsu thành Nadarét, từ làng Bêlem đến tận đồi Canvê, như một cuộc thần hiện, đã thu hút và biến đổi toàn thể đời sống của thánh Phanxicô và thánh nữ Clara. Lòng mộ mến nồng nàn đã thôi thúc các ngài trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong mọi sự. Cho đến tận cuối đời, các ngài không hề cho phép châm chước lời cam kết hay chấp nhận nới lỏng các đòi hỏi của lời cam kết đó. Khi người ta đề nghị với thánh Phanxicô những cách thức khác để phụng sự Chúa, những Luật dòng khác đã được chứng nghiệm là tốt và thiết định sáng sủa, thánh nhân trả lời trước sau như một: “Chúa đã tỏ cho tôi biết Thánh Ý Người là muốn tôi trở nên một người điên rồ như Người trước mặt thế gian, và đó là sự khôn ngoan duy nhất mà Người muốn chúng ta quan tâm” (x. H Per 114). Và khi đức Giáo hoàng đề nghị thánh nữ Clara giảm bớt sự khắt khe của đức nghèo tuyệt đối, thánh nữ đã trả lời, vượt xa hơn các đòi buộc của lời khấn hứa: “Lạy Đức thánh cha, từ nay cho đến muôn đời, con không bao giờ muốn được miễn chuẩn khỏi việc đi theo Đức Kitô vì bất cứ lý do gì” (H Cl 14).

Vậy, đây là ơn gọi của chúng ta, đây là “khoa học” và phận vụ của chúng ta: đó là chuyên chăm lắng nghe và trung tín thi hành Lời Thiên Chúa, hết lòng chiêm ngưỡng và triệt để đi theo Đức Kitô nghèo khó. Từ căn tính nền tảng và cụ thể ấy, các cách thức phúc âm hoá tuy khác biệt, nhưng bổ túc cho nhau và các sứ vụ đặc thù khác của gia đình phan sinh - clara, đã vì Nước Thiên Chúa mà nẩy sinh giữa lòng Giáo hội của Người.

“Anh em hèn mọn” toả ra khắp thế giới như là “tu viện” của anh em (x. G Lt 63), tức là nơi anh em cam kết sống mối tương giao huynh đệ và chiêm ngưỡng (x. L Ksd 16). “Chính vì thế mà (Chúa) sai anh em đi khắp thế giới, để bằng lời nói và việc làm, anh em làm chứng cho tiếng nói của Người và làm cho mọi người biết không có Đấng toàn năng nào khác ngoại trừ Người” (T TD 9).

“Các Chị em nghèo khó”, từ bên trong “nội vi” là đời sống nội tâm, noi gương Đức Maria (x. 3 T Ag 19) bằng cách biến mình trở thành nơi tiếp đón, nơi trú ngụ và bởi thế, hình ảnh của Thiên Chúa tình yêu. Chứng tá này được “phản ánh” và chiếu toả trên khắp thế giới. Nội vi trở thành nơi chốn mở rộng cho toàn thể vũ trụ và biến thành không gian và nơi chốn của các mối tương giao, cũng giống như mảnh vườn nhỏ bé tại đan viện Xan Đamianô đã biến thành một thị kiến và một bài ca các tạo vật đối với một Phanxicô đang đau đớn và hầu như mù loà. Người ta không vào tu viện để tìm chỗ ẩn náu nương thân hay trốn tránh những vấn nạn của thế giới, nhưng để đắm chìm trong mầu nhiệm tiếp đón: chia sẻ cuộc sống con người sâu xa hơn bằng cách tiếp cận với những khát vọng sâu kín và ít ý thức nhất của họ, đồng thời góp phần làm cho lịch sử nhân loại diễn tiến phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa, mà chỉ các thánh nhân và ngôn sứ mới có thể nhận ra.

Vì mang một chiều kích hoàn vũ như thế, nội vi đối với thánh nữ Clara trở thành một thực tại được biến đổi bởi một năng động thiêng liêng vô hạn. Trước khi ngã bệnh, thánh nữ đã nhiều lần khao khát trẩy sang Marốc, nơi các anh em đầu tiên đã “chịu tử đạo”, để làm chứng cho đức tin (x. PT Va 6:6). Suốt 30 năm cuối đời, dù “chịu tử đạo” vì bệnh tật, thánh nữ vẫn duy trì các mối tương giao đa dạng. Đức giáo hoàng, các hồng y, anh em, những người hèn hạ và không quyền lực, và những bậc quyền thế đã viếng thăm chị... Chính ngọn lửa tình yêu đã bừng sáng trong “đan viện” và đã khiến cho các cuộc giao tiếp chan chứa một sức nồng ấm (x. BHN 15), vượt xa những giới hạn mà nội vi đặt ra. Thánh Clara quả thực là một nhà “huyền bí” đích thực, bị thiêu đốt bởi một nỗi đam mê duy nhất là trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Mọi điều khác đều “tương đối”. Mọi sự xoay quanh “trung tâm” đó.

Biết bao sinh lực và thiện chí bị lãng phí như ta thấy trong một vài đan viện, khi mọi sức lực không tập trung vào việc tìm kiếm sự hiệp nhất và Điều cốt yếu! Một trong những nét nổi bật nhất của thiên tài nữ tính là khả năng nắm bắt được điều cốt yếu và đặt điều thứ yếu vào trúng chỗ của nó.

Trên con đường thánh giá

“Nếu Bà cùng chịu đau khổ với Người, Bà sẽ cùng hiển trị với Người; nếu Bà buồn khổ với Người, Bà sẽ vui sướng với Người; nếu Bà cùng chết với Người trong những nỗi gian truân của thập giá, Bà sẽ chiếm được lâu đài Thiên quốc trong sự huy hoàng rực rỡ của các thánh” (2 T Ag 21).

“Khi tôi được nâng lên khỏi mặt đất, tôi sẽ lôi kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Được nâng cao trên Thánh giá, Đức Giêsu đã trở nên hồng ân cứu độ được Thiên Chúa ban tặng cho toàn thể loài người. Khi chúng ta bước theo vết chân thánh Phanxicô trên các nẻo đường truyền giáo, chúng ta được dẫn đến La Vécna và biến cố Năm Dấu; khi bước theo vết chân thánh Clara trong cuộc đời ẩn tu, chúng ta được dẫn đến bên giường bệnh của chị, vì chị nhuốm bệnh trong khoảng thời gian thánh Phanxicô được in năm dấu và kéo dài suốt nửa cuộc đời còn lại. Một lần nữa, chúng ta có thể vạch ra một sự tương ứng lạ lùng giữa hai đoàn sủng: cả hai con đường đều có tính “truyền giáo”, cả hai cách thức, lưu động rao giảng và sống ẩn tu đều đạt tới cùng một đỉnh cao là Thánh giá. Những người tình này không chỉ ước ao sống thân mật với Người mình yêu trên con đường nghèo khó, mà còn trong đau khổ (x. 2 T Ag 19), muốn mang vào thân thể những gì còn thiếu trong cuộc khổ nạn của Đức Kitô (x. Cl 1,24). Quả chưa đủ, nếu chỉ vâng theo Đức Giêsu và tự nguyện làm người tôi tớ, mà hơn thế nữa, cần phải đi theo số phận của Người, bằng cách nhận lấy thánh giá của Người làm của mình (x. Lc 9,23-24).

Cái lô-gích của Tin mừng không ngừng gây sốc nơi chúng ta, bởi lẽ hình như nó đề cao cái không hiệu năng, cuộc sống chẳng chút ngoạn mục, và những kết quả không tỏ lộ bên ngoài. Các môn đệ của Chúa Giêsu không thể thấu hiểu cái lô-gích đó, và nó mãi mãi là tảng đá vấp ngã đối với các tín hữu. “Thế gian” không thể chấp nhận cái lô-gích như thế, vì xã hội chúng ta làm nô lệ cho khái niệm hiệu năng, và khái niệm đó lần lượt sinh ra một loạt những “rối loạn tinh thần”, lo lắng đến kết quả, việc làm, vẻ bên ngoài, tìm bảo đảm cho hiện tại và tương lai, thành công trong mọi lãnh vực: nghề nghiệp, tình cảm, kinh doanh, danh tiếng… Tiếc thay chúng ta không được miễn trừ khỏi những rối loạn tinh thần đó: đối với chúng ta, người có giá trị là kẻ có thể tạo ra và cung cấp nhiều của cải nhất.

Thật tương phản biết bao với “phép lạ” của thánh Clara và thánh Phanxicô, hai môn đệ trung tín của Tin mừng! “Thành công” của các ngài nằm nơi việc tận hiến hoàn toàn bản thân cho Đấng không ngừng tín nhiệm chúng ta cách lạ lùng. Các ngài lấy tình yêu nồng nàn đáp lại tình yêu say mê mà Thiên Chúa trao ban cho con người chúng ta. Các ngài dám liều mất mọi sự. Các ngài hoàn toàn tự do lao mình vào cuộc sống nghèo khó triệt để, dù biết rằng cuộc sống đó sẽ dẫn đến cây thánh giá, tình trạng cô thế và bị khinh miệt. Cái lô-gích của các ngài là lô-gích của Tin mừng về hạt giống phải thối đi, ngõ hầu trổ sinh hoa trái - và đó là cái lô-gích duy nhất mà bất cứ công cuộc truyền giáo nào cũng phải chấp nhận.

Hiệu quả “truyền giáo” của thánh Phanxicô đạt tới đỉnh cao trong giai đoạn cuối đời, khi ngài hoàn toàn trở nên một với Đức Kitô trên núi La Vécna: dưới chân thánh giá, ngài đặt gia sản kinh nghiệm thiêng liêng của ngài trong bàn tay Giáo hội, và dâng trả về lại cho Chúa Cha cuộc sống mạo hiểm do Tin mừng linh hứng, đồng thời trao phó kinh nghiệm đó như một “quà tặng” để gợi hứng và hướng dẫn sứ vụ của đông đảo anh chị em bị lôi cuốn bởi gương mẫu của ngài và quyết chọn đi theo ngài suốt những thế kỷ sau đó. Thánh Phanxicô tìm lại được sự tự do này chính vào lúc bị “thử thách nặng nề”, khi ngài không còn biết phải làm gì nữa. Lúc ấy, ngài quyết định dâng trả về cho Chúa dự phóng sống Tin mừng đã được thành hình xuyên qua chính đời sống của ngài, nhưng nay ngài hiểu rõ nó chẳng thuộc về ngài nữa. Ngài dâng trả về cho Chúa các anh em không thuộc về ngài và cuộc sống cũng không thuộc về ngài…

Ta có thể nói gì về thánh Clara? - về những năm tháng cuộc đời của thánh nữ, nếu dựa trên thành quả mà đánh giá, thì có vẻ vô ích, nhưng dưới con mắt Thiên Chúa, thì đó lại là những năm tháng vô cùng phong phú và đầy ý nghĩa. Giả sử khi thánh Phanxicô bị cất đi khỏi anh chị em ngài quá sớm mà thánh Clara vẫn còn tráng kiện và khoẻ mạnh, thì thánh nữ hẳn đã có thể “làm được khối chuyện” cho gia đình phan sinh tiên khởi! Chị có thể thành lập khá nhiều đan viện và huấn luyện khá nhiều chị em… Tuy thế, Chúa đã “làm khối chuyện” xuyên qua sự nghèo khó, bệnh tật và tình trạng thiếu hoạt động của ngài! Và luôn có nhiều chị em đã được thánh nữ Clara và thánh Phanxicô sai đến những miền khác nhau trong những năm đầu của Hội dòng.

Thật khó mà thấm nhuần các giá trị ấy, khi thế giới chung quanh chúng ta đang nói một thứ ngôn ngữ khác và ra sức lôi cuốn chúng ta bằng những quyến rũ của nó! Tuy nhiên, chúng ta biết rõ thành quả công việc chúng ta làm tùy thuộc sự phong phú của Thiên Chúa, và những tác vụ, cơ cấu và công việc tông đồ của chúng ta phải biểu hiện ơn gọi làm ký ức sống động về Tin mừng của Chúa Giêsu. Đó là việc phục vụ đầu tiên mà chúng ta phải thực hiện cho Giáo hội và thế giới trước bất cứ công việc nào khác. Chính phẩm chất đời sống chúng ta mang lại ý nghĩa cho khối lượng hoạt động, và khi đảm nhận những hoạt động đó, chúng ta phải ý thức tất cả chúng ta thật sự là “những nhà truyền giáo”, những người “được sai đi”, dù chúng ta sống trong tu viện hay lữ hành trên các nẻo đường của thế giới, dù chúng ta cầu nguyện hay rao giảng, dù chúng ta mạnh khoẻ hay đau ốm. Tôi hằng luôn ghi nhớ những khuôn mặt rạng rỡ của các chị trẻ cũng như các chị lớn tuổi mà tôi đã gặp trong những lần thăm viếng, những khuôn mặt hồn nhiên bộc phát sự hiện diện của Thiên Chúa đang ngự trị trong các chị. Tôi cũng nhớ khuôn mặt của các chị đau ốm, nhờ thanh luyện trong đau khổ như thánh nữ Clara, các chị đã trở nên những hình tượng sống động của nhân tính đau khổ nhưng đã được biến hình và vinh hiển, giống như hình ảnh Chúa chịu đóng đinh tại nhà nguyện thánh Đamianô. Niềm khao khát đón đợi Đấng phu quân đã đến ngoài ngưỡng cửa thu hút toàn thể cuộc sống và thân xác của các chị, một thân xác hao gầy như tàu lá, nhưng đã phản chiếu ánh hào quang của sự hiện diện có sức giải phóng của Thiên Chúa. Sứ mạng kỳ diệu biết bao!

Tôi tưởng nhớ chị Catơrin thành Bôlônha, một chị nghèo khó Clara ở thế kỷ 15. Cuối đời, khi chị vật vã vì đau đớn, thì trong một thị kiến, chị được lệnh phải chơi đàn vĩ cầm. Từ thời thanh xuân, khi chị rời bỏ cung điện Bôlônha để đi vào đan viện, chị đã không còn chơi đàn, nhưng vì vâng theo ý Chúa, chị đã xin mang đến cho chị một cây đàn. Rồi chị sáng tác một bản thánh ca dựa trên lời của ngôn sứ Isaia: “Gloria eius in te videbitur” (Vinh quang Người sẽ hiển thị trong bạn). Nhờ bản thánh ca này, chị đã dạy cho chị em biết vinh quang của Đấng tối cao cũng được tỏ lộ nơi sự yếu đuối của người bệnh tật. Cây vĩ cầm mà đan viện Mình Thánh Chúa lưu giữ như một gia bảo là một kỷ vật nhắc nhở cho chúng ta rằng cuộc sống mỗi người, dù mang đầy yếu đuối, cũng có thể trở thành nhạc khí để ca tụng sự cao cả của Thiên Chúa.

Chị em thân mến, tôi tin chắc chị em có thể giúp chúng tôi tìm lại ý nghĩa thâm sâu của sứ vụ và giá trị “tương đối” của các hoạt động của chúng tôi, bằng cách giúp chúng tôi ý thức rằng người ta chỉ thành đạt khi khám phá lại khuôn mặt đích thật của mình, bằng cách “phản ảnh” khuôn mặt Đức Giêsu Nadarét trong Tin mừng của Người và trong đời sống chiêm ngưỡng như ưu tiên hàng đầu. Khi nỗ lực tìm lại căn tính, chúng ta có khuynh hướng quay về quá khứ và có nguy cơ đóng kín bản thân, hơn là hướng về tương lai mà đời sống chúng ta đang vươn tới. Mối bận tâm về sự tồn tại có thể làm tiêu tan niềm hy vọng, óc sáng tạo và sự cởi mở đối với Thánh thần Chúa.

Chúng ta đừng xem tuổi già chỉ như một giới hạn, vì tuổi già cũng có thể làm chứng cho một tổng hợp về đời sống thiêng liêng và các mối tương giao, một sự hoà hợp các giá trị đã được sống cách thanh thản. Giai đoạn này của đời sống cũng phải được phúc âm hoá và được đồng hành để trở thành một biểu thị về Thiên Chúa, tương tự như mọi hình thức nghèo khó khác.

Ngay cả khi chúng ta đứng trước nguy cơ phải đóng cửa đan viện (nói cho cùng, chúng ta đâu sống đời đời kiếp kiếp!), thì thái độ thanh thản của chúng ta cũng là bằng chứng của một đức tin trưởng thành và niềm trông cậy sống động.

Câu hỏi suy tư

1. Chúng ta xây dựng sự thống nhất nội tâm và các chọn lựa của huynh đệ đoàn trên những giá trị hay khát vọng tin mừng nền tảng nào? Chúng ta có sẵn sàng dấn thân một cách thật sự nghiêm túc không? Để thay đổi điều gì? Thay đổi làm sao? Với ai?

2. Vì chị em được kêu gọi để làm chứng cho nhau về Tin mừng qua công việc cụ thể mỗi ngày, thế thì chị em có ý thức rằng “vùng đất” phải loan báo Tin mừng chính là bản thân chị em không?

3. Sự phong phú của Thiên Chúa trên đời sống chúng ta có thể toả sáng ngay trong những hoàn cảnh yếu nhược của con người, ví như tuổi già và bệnh tật, và làm cho chúng ta trở nên dấu chỉ trong sáng hơn về niềm hy vọng của chúng ta. Làm thế nào để có thể chuẩn bị cách tốt nhất cho giai đoạn “truyền giáo” hết sức hệ trọng và quan yếu ấy trong đời sống chúng ta?

4. Chị em cũng là một huynh đệ đoàn dấn thân truyền giáo như chúng tôi, nhưng trong bầu khí tĩnh lặng của chiêm ngưỡng. Vào mỗi giai đoạn của cuộc đời, chị em quả thật là sứ điệp của Lời hằng sống, qua việc say mê gắn bó với Tin mừng hầu trở nên một với Đức Kitô. Chúng ta có thể làm gì cùng với toàn thể gia đình phan sinh để truyền đạt và công bố kinh nghiệm đó một cách cụ thể cho thế giới hiện tại?

II. Hỗ tương và bổ trợ

“Vì Chúa đã đến rất gần, đã đứng ngay trước cửa, nên thánh Clara mong muốn các anh linh mục và các anh em thánh thiện đến bên cạnh để đọc cho chị nghe Cuộc Thương khó của Chúa cũng như những lời rất thánh của Người. Trông thấy Anh Giuniphêrô, anh hề ưu tú của Chúa, thường cất giọng sôi nổi khi nói những lời nóng bỏng của Chúa, lòng chị tràn ngập một niềm vui mới, rồi chị hỏi anh có điều gì mới về Chúa không. Anh mở miệng lên tiếng và từ lò lửa bừng cháy của con tim tuôn ra những lời nói bừng bừng như tia lửa, và người trinh nữ của Chúa đã tìm thấy một nguồn an ủi lớn nhờ các chuyện ngụ ngôn của anh” (H Cl 45)

Sự bổ túc quy hướng về Thiên Chúa

“Thật vậy, hầu như ngay sau khi trở lại, khi còn chưa có anh em hay bạn đồng hành, trong thời gian xây dựng nhà thờ thánh Đamianô, là thời điểm mà ngài được Chúa viếng thăm an ủi và thúc đẩy từ bỏ thế gian hoàn toàn, chính lúc ấy, trong niềm hân hoan và sự soi sáng của Chúa Thánh Thần, ngài đã nói tiên tri về chúng ta và sau này Chúa đã thực hiện” (DC Cl 9-11)

Đó là một bức tranh có ý nghĩa sâu xa: nó diễn tả cách tuyệt vời, đặc biệt vào những giây phút cuối đời của Thánh nữ Clara, mối giây thiêng liêng nối kết anh em hèn mọn với các bà nghèo sống đời chiêm ngưỡng Thiên Chúa. Con đường Tin mừng và lịch sử cá nhân thánh Phanxicô và thánh nữ Clara phụ thuộc lẫn nhau. Nếu Thánh Clara tự nhận là “cây nhỏ” của thánh Phanxicô, thì truyền thống cũng cho chúng ta thấy rằng, vào những giờ phút khó khăn nhất của cuộc đời, thánh Phanxicô đã tìm đến với thánh nữ để thỉnh ý, chia sẻ với chị những hoài nghi và ưu tư của mình và đôi khi ngài nhờ chị săn sóc anh em của ngài (x. PT Va 2,15). Thánh Phanxicô khơi mào ơn gọi của thánh nữ Clara và chị em; Clara yêu cầu sự giúp đỡ của anh em, dám phản đối đức giáo hoàng Grêgôriô IX khi ngài nghiêm cấm anh em thăm viếng đan viện các bà Clara nghèo nếu không có phép (x. H Cl 37).

Thánh nữ Clara thích thú ghi nhận rằng đời sống chiêm ngưỡng của các Bà Nghèo thuộc về đoàn sủng của chúng ta ngay từ đầu, từ khi thánh Phanxicô “chưa có anh em hay bạn đường” (DC Cl 9). Sau khi thánh Phanxicô mất, chính thánh nữ Clara trở thành người giữ gìn dự phóng sống theo Tin mừng nguyên thủy, bởi vì “cũng một Thánh thần duy nhất đã lôi kéo anh em và các Bà Nghèo nhỏ bé ra khỏi thế gian” (2 Cel 204). Thánh Phanxicô là trung tâm gợi hứng cho ơn gọi chung của chúng ta, còn thánh nữ Clara, nhờ lòng trung tín, bảo đảm cho dự phóng nguyên thủy của thánh Phanxicô được tiếp tục. Từ nội vi đan viện Xan Đamianô, chị và chị em nâng đỡ và cổ võ tất cả các môn đệ sống theo lối sống phan sinh.

Trong những năm gần đây, khởi đầu từ sự đổi mới do Công đồng Vaticanô II khuyến khích, chúng ta đã tìm lại được nhiều điều từ sự phong phú của mối mối tương giao ấy, mối tương giao mà tôi xem như một yếu tố không thể thiếu trong căn tính đoàn sủng của chúng ta.

Trung tâm của mối quan hệ này là “những lời rất thánh” của Chúa, hay như cách nói kỳ lạ của truyện ký Những Bông Hoa Nhỏ khi mô tả bữa ăn của thánh Clara và thánh Phanxicô tại Nhà nguyện Đức Mẹ các Thiên thần: “nói về Thiên Chúa” (x. BHN 15). Điều này quy chiếu về một sự thông hiệp “xuất thần” lôi kéo chúng ta ra khỏi bản thân và hướng chúng ta về phía trên, “trên cao”. Chính từ “trên cao” mà tính bổ trợ và hỗ tương mang lại cho ơn gọi chúng ta sự phong phú nhân bản và thần thiêng. Kinh nghiệm về sự hiệp thông cao độ này thì vượt xa mọi hình thức “bù trừ tình cảm”. Chúng ta gặp nhau không phải để tổ chức việc “cổ võ ơn gọi”, hay vì nhu cầu cần “nâng đỡ” lẫn nhau, hay vì “cảm thấy dễ chịu” vì được ở bên nhau. Chúng ta gặp nhau để chia sẻ “điều gì mới về Chúa” và thúc đẩy chúng ta mau mắn bước theo Người. Chúng ta cùng nhau bước đi trên đất thánh, tuy kinh hãi nhưng vẫn hằng tin tưởng, để tìm kiếm Đấng Duy Nhất, mà lòng từ bi của Người đã kêu gọi chúng ta và tầm nhìn của Người là mục tiêu của chúng ta. Bởi đó, lời lẽ của chúng ta không nhằm trao đổi các chuyện vui đùa, nhưng trở thành một cơn mưa “những tia lửa bừng cháy” phát xuất từ những con tim đã trở thành “lò lửa” của tình yêu Thiên Chúa. Chính Thiên Chúa nói trong và qua chúng ta, để biến cuộc đối thoại của chúng ta thành một cuộc thần hiện, một mạc khải trực tiếp hơn về sự hiện diện và thánh ý Người.

Đây là một lý tưởng rất cao cả mà không phải lúc nào cũng đạt được. Trong Luật dòng, thánh Phanxicô cảnh cáo anh em về những lạm dụng có thể xảy ra - bấy giờ một vài lỗi lầm có lẽ đã hiển nhiên (L 11,1-2). Có lẽ người ta đã quá cứng nhắc khi chú giải câu chuyện thánh nữ Clara đã phản đối đức Giáo hoàng, để bằng mọi giá bảo đảm cho sự bổ trợ của hai hội dòng được tiếp tục (H Cl 37). Mối tương giao đó luôn luôn là một thách đố: nó đòi hỏi một sự quân bình vững chắc, một sự khôn ngoan về mặt nhân bản và thiêng liêng và một nền huấn luyện lành mạnh từ cả hai phía. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta loại bỏ mối tương giao đó: vì lẽ, đó là ý muốn hiển nhiên của thánh nữ Clara và thánh Phanxicô.

Một chứng nhân trong tiến trình phong thánh cho thánh nữ Clara kể lại câu chuyện sau đây: “Một anh em hèn mọn nọ tên là Têphanô bị bệnh tâm thần. Thánh Phanxicô gởi anh đến đan viện Xan Đamianô để được thánh Clara làm dấu thánh giá trên mình anh. Sau khi thánh nữ làm dấu thánh giá trên anh, anh nằm ngủ một lát ngay trên chỗ Thánh nữ thường cầu nguyện. Sau khi thức dậy, anh ăn một chút đỉnh rồi ra về lành mạnh” (PT Va 2,15). Câu chuyện này, các nguồn khác nhắc cũng nhắc đến (Sắc chỉ phong thánh 18; PT Va 3,12; H Cl 32), chỉ cho thấy sự cộng tác giữa hai vị thánh và hai Hội dòng vô cùng quan trọng như thế nào. Thánh Phanxicô gởi anh em ngài đến với thánh nữ Clara, khi anh em gặp những khó khăn mà có lẽ chỉ thánh nữ mới có thể chữa lành - cuối cùng, chính thánh nhân cũng đã đón nhận sự chăm sóc của thánh nữ trong những giây phút đen tối của cuộc đời. Ở đây, nhu cầu thiêng liêng “tương đối hoá” các cơ cấu thường tình - hãy ngẫm nghĩ câu chuyện anh Têphanô được chữa lành sau khi ngủ một giấc trên ca toà của thánh nữ trong ca cung!

Căng thẳng là một kinh nghiệm thường xuyên hiện nay. Căng thẳng và suy nhược là mối đe doạ thật sự cho sức khoẻ tinh thần. Một nhiệm vụ có lẽ thích hợp với con cái thánh nữ Clara hôm nay là giúp anh em chúng tôi khôi phục lại sự hài hoà giữa các giá trị phan sinh-clara, sự quảng đại hào phóng và vẻ đẹp biểu lộ trong đời sống chúng tôi, mà không bám víu vào hiệu năng. Chúng ta dễ dàng trở thành mồi ngon cho các nhu cầu tức thời và đánh mất cái nhìn toàn diện, khả năng biện biệt điều cấp bách với điều cần thiết; chúng ta vùng vẫy trong vòng xoáy của ngàn lẻ một dự án mà chúng ta đảm trách hay được áp đặt trên chúng ta bởi thế giới tiêu thụ mà chúng ta đang sống trong đó. Hậu quả cuối cùng là chúng ta quên mất sự dấn thân nguyên thủy của chúng ta - nghĩa là để cho chúng ta trở thành “dự phóng của Thiên Chúa”. Tôi xác tín rằng điều cấp thiết đối với chúng ta hiện nay là phục hồi và tiếp tục sự hợp tác giữa thánh Phanxicô và thánh nữ Clara, để ngăn chận các loại bệnh trạng “tâm thần” và “phân liệt tâm thần” đang tàn phá chính đời sống tu trì.

Tôi hằng tạ ơn Chúa, vì khi còn là một tu sĩ trẻ, tôi đã có cảm nghiệm được chữa lành khi sống bên cạnh một đan viện các bà Nghèo và đã được chị em giúp đỡ, hầu khôi phục lại sự hài hoà giữa các giá trị của Tin mừng trong ơn gọi và sứ vụ của tôi. Tôi thường lui tới các đan viện của chị em để khôi phục sức khoẻ của đời sống thiêng liêng. Chị em Clara Nghèo thân mến, tôi cám ơn chị em vì chức năng “chữa lành” của chị em, chức năng ấy rất quan trọng đối với hành trình ơn gọi của người sống đời thánh hiến.

Sự bổ trợ đặt nền tảng trên Lời Thiên Chúa

“[Thánh nữ Clara] nhờ các nhà giảng thuyết tài đức trao ban Lời Thiên Chúa làm của ăn nuôi dưỡng con cái và chị cũng đã dành riêng cho mình một phần ăn lớn” (H Cl 37)

Thánh Phanxicô không bao giờ “bưng tai đối với Lời” (2 Cel 102). Về phần thánh nữ Clara, “chị hết sức vui mừng khi nghe Lời Thiên Chúa “ (PT Va 10,8). Chị thực hành Lời Chúa, “soi mình” trong Lời Chúa và để cho mình biến đổi nhờ Lời Chúa, ngõ hầu phản chiếu ánh sáng Lời Chúa trên chị em và trên thế giới. Chị hiểu rõ đó là sứ vụ riêng của các bà Nghèo (x. DC Cl 21).

Linh đạo do thánh Phanxicô và thánh nữ Clara hun đúc, đặt nền tảng trên việc chuyên chăm lắng nghe và mau mắn vâng nghe Lời Thiên Chúa. Các ngài rộng mở cõi lòng để cho Lời Chúa gây kinh ngạc và lột trần. Các ngài để cho Lời Chúa “lôi ra khỏi sự bất động” (dé-stabiliser) để dấn thân vào những hướng đi hoàn toàn mới lạ, giống như cụ Ápraham, không biết mình đi đâu (x. Dt 11,8). Các ngài sẵn sàng để cho Lời Chúa “lôi kéo” (ad-trahere), uốn nắn, để thuận theo các đòi hỏi của Lời Chúa, không để mình bị chia trí (dis-trahere) bởi bất cứ điều gì. Rốt cuộc, các ngài đã trở thành lời sống động và có tính ngôn sứ cho thế giới bao quanh.

Một trong những dấu hiệu hiển nhiên nhất của thời đại hậu công đồng là quy hướng về Lời Thiên Chúa như là tâm điểm của mọi kinh nghiệm thiêng liêng được xem là có tính kitô giáo. Giáo hội không ngừng thúc bách chúng ta tận dụng kho báu này, bằng cách mời gọi chúng ta tự huấn luyện và đổi mới trong dòng nước hằng sống này. “Sự thánh thiện và việc cầu nguyện không thể có được chỗ đứng ưu tiên, nếu chúng ta không bắt đầu canh tân việc lắng nghe Lời Thiên Chúa “ (Bước vào ngàn năm mới, 39). Giáo dân, nhất là các phong trào thu hút người trẻ và các cộng đoàn tu trì mới được thành lập trong những năm gần đây, đã chọn cách thức lắng nghe và lượng giá bản thân dựa trên Lời Thiên Chúa như là cấu trúc cơ bản của đời sống thiêng liêng. Đối với chúng ta, việc ấy đâu có gì khác hơn là trở về nguồn cội của chúng ta. Nếu chúng ta thật sự được “nuôi dưỡng” bằng Lời, thì con tim chúng ta sẽ trở thành một “lò lửa bừng cháy” như Anh Giuniphêrô, và lời nói của chúng ta sẽ toả chiếu một sức nóng mãnh liệt.

Lời Thiên Chúa được tiếp nhận với đức tin luôn luôn bắt buộc chúng ta sắp xếp lại đời sống thiêng liêng theo một trật tự mới: chúng ta buộc phải duyệt xét lại các thói quen và não trạng. Lời Chúa làm đảo lộn đời sống chúng ta, khi tạo nên một năng động tìm kiếm và bước theo Đức Kitô, hầu sắp xếp lại tận gốc rễ lối sống chúng ta trong Thánh Thần, như thánh Phanxicô và thánh nữ Clara đã thực hiện. Có lẽ vì thế mà chúng ta thường gặp trong cộng đoàn một sự kháng cự nào đó đối với “cái mới”, vì chúng ta ưa thích đi trên đường mòn của thói thường, vốn là nấm mồ vùi lấp sự nhiệt tình. Chúng ta sợ Thiên Chúa đòi hỏi chúng ta quá nhiều - đòi hỏi mọi thứ! Chúng ta sợ đánh mất các cơ cấu quen thuộc mang lại cho chúng ta sự an toàn - ngay cả khi chúng ta thừa nhận rằng chúng ngăn chận mọi khả năng tăng trưởng trong đời sống chiêm ngưỡng. Sự thật đáng buồn là chúng ta thích thái độ bảo thủ hơn là việc chiêm ngưỡng! Và chúng ta tiếp tục tin cậy vào những phương tiện truyền thống trong tầm tay mà không bao giờ tự hỏi liệu có cần thổi vào một tinh thần mới hay không. Đây là một phạm vi mà sự giúp đỡ hỗ tương giữa anh em và chị em có thể làm bùng phát một năng động và nhiệt tình mới cho đời sống chúng ta, và nhất là nhen lại niềm khao khát muốn tìm kiếm và bám chặt vào Chúa, mà chỉ có một linh đạo thấm nhuần Kinh Thánh mới có thể cung cấp cho chúng ta. Đón nhận, cưu mang, gìn giữ và sinh hạ Lời như đức Ma-ri-a: đó là những yếu tố không thể thiếu của một đời sống thánh hiến đích thực và có chiều sâu.

Câu hỏi suy tư

Năm 1991, các Tổng phục Vụ đã gởi một lá thư cho cho các nữ tu kín phan sinh để chuẩn bị cho việc kỷ niệm 800 năm ngày sinh của thánh nữ Clara (1993). Thư có viết: “Không thể có sự giám hộ theo kiểu cha chú về phía anh em… trái lại, phải có một sự phục vụ hỗ tương trong tinh thần hèn mọn và huynh đệ, nhằm làm phong phú cho cả đôi bên…” Tại sao chúng ta không tăng cường sự trao đổi thông tin và huấn luyện mà chị em có thể cống hiến cho anh em, như chính thánh Phanxicô đã thực hiện ngay từ khi bắt đầu cuộc đời hoán cải? (Thánh Clara Assisi, Người Phụ nữ mới, 51). Trong những năm qua, chúng ta đã triển khai điều đó như thế nào?

Lời Chúa, nhất là Tin mừng, có phải là tiêu chuẩn để giúp chúng ta biện phân và trả lời cho những thách đố, những hoàn cảnh mới và những biến chuyển trong đời sống cộng đoàn chúng ta hiện nay không?

Chúng ta có thành công trong nỗ lực giải toả mối căng thẳng giữa các giá trị và cơ cấu? Chúng ta sử dụng những phương tiện nào để lượng giá sự tiến bộ?

III. Khách lạ và lữ hành

Sự gặp gỡ của Thiên Chúa với nhân loại trong Đức Giêsu Nadarét được tỏ bày cho chúng ta như một cuộc xuất hành: Ngôi Lời rời bỏ cung lòng Chúa Cha để đến trong thế gian, rồi sau khi chịu chết và sống lại, Người lại rời bỏ thế gian để trở về cùng Chúa Cha.

Chúng ta là chứng nhân và là người tham gia vào cuộc hành hương đi về nhà Cha mà Đức Giêsu đã khởi xướng. Qua việc trao ban Thánh thần, Đấng Phục Sinh đã đăt chúng ta vào trong năng động đó. Chúng ta sẽ hoàn toàn đáp trả sự thách đố làm “người lữ hành và khách lạ”, khi chúng ta được giải thoát ra khỏi mọi nô lệ cho lòng ham muốn chiếm hữu và sẵn sàng hoàn lại tất cả cho Thiên Chúa, khi chúng ta không xem cuộc sống như một món hàng để tiêu thụ, nhưng là một món quà để ban tặng: “Chúng ta hãy dâng trả mọi sự tốt lành về cho Chúa là Thiên Chúa tối cao và chí tôn, và chúng ta hãy biết rằng mọi sự tốt lành là của Chúa và hãy tạ ơn Người về tất cả mọi sự, Người là nguồn mạch mọi sự tốt lành” (L Ksd 17,17).

Nếu người tu sĩ không triệt để từ bỏ sở hữu, người đó đánh mất chiều kích ngôn sứ vốn chính là cốt lõi của đời sống thánh hiến.

“Chỉ sau khi chết, người ta mới biết rõ một con người” (Hc 11,28)

“Nhân chứng ấy cũng nói khi Mẹ thánh gần kề cái chết, thì một đêm thứ sáu nọ, Mẹ bắt đầu nói như sau: ‘Ngươi hãy an tâm ra đi trong bình an, vì ngươi sẽ có một người dẫn đường tốt: bởi lẽ Đấng tạo dựng nên ngươi đã thánh hoá ngươi rồi, và sau khi tạo dựng nên ngươi, Người đã ban Thánh Thần cho ngươi và luôn bảo vệ ngươi như người mẹ âu yếm con yêu'. Và Mẹ nói tiếp : 'Lạy Chúa, con xin chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dựng nên con!' “ (PT Va 3,20; x. H Cl 46)

Những lời thánh nữ Clara thì thầm với linh hồn mình, do các chứng nhân kể lại trong quá trình phong thánh, cho chúng ta khám phá ra nhân cách đích thực, linh đạo thâm thuý và một thứ tổng hợp về hành trình thiêng liêng của chị. Chị tự nhủ: “hãy ra đi” không chút sợ hãi; “hãy ra đi”, như cái đêm ngươi phá tung “cửa dành cho kẻ chết” của ngôi nhà thân phụ; “hãy ra đi” và không còn gì khiến ngươi bận lòng bận trí: nếu Đức Giáo hoàng chưa đồng ý phê chuẩn Luật dòng, thì ngươi cũng hãy thanh thản “ra đi”, chẳng can hệ chi; “hãy ra đi” trong sự tự do cao quý mà ngươi đã hân hoan và khẳng khái truyền dạy trong Đặc ân sống Nghèo, trong kinh nghiệm tin tưởng phó thác vào Chúa là Đấng hằng ban thưởng gấp trăm lần. Hãy ra đi và “hãy luôn nhớ đến quyết tâm của Bà… Hãy nhanh nhẹn rảo bước, nhẹ nhàng tiến lên, với đôi chân vững chãi, sao cho cả bước chân Bà cũng không hề vương bụi đường; hãy tiến lên, vững tin, vui vẻ và nhanh nhẹn, trên nẻo đường hạnh phúc đích thực; đừng cả tin điều gì, đừng thuận theo điều gì khuyên nhủ Bà xa lìa quyết tâm đó, hoặc gây cớ vấp ngã trên đường Bà đi hầu làm cho Bà không giữ được những lời khấn nguyền cùng Đấng tối cao trên con đường trọn lành” (2 T Ag 11-14)

Chiều kích Ba Ngôi đặc trưng trong linh đạo của thánh nữ Clara được biểu lộ rõ ràng trong những lời cuối cùng của chị: Chúa Giêsu, “con đường của chúng ta”, như là “người dẫn đường tốt lành”; lời tạ ơn của chị hướng về Đấng đã dựng nên chị và thánh hoá chị; Thánh Thần là Đấng bảo vệ chị với tình yêu của một người mẹ. Lời mời gọi hãy mau mắn lên đường cũng phản ánh quyết tâm sống “như người lữ hành và khách lạ” mà thánh Phanxicô và thánh nữ Clara đã thực hiện ngay từ lúc bắt đầu cuộc đời hoán cải. Cả hai vị đều nung nấu khát vọng được bắt đầu lại luôn mãi mà không chút sợ hãi hay trì hoãn. Chắc hẳn là thánh nữ Clara đã trực tiếp hoặc gián tiếp chứng kiến quang cảnh đầy ấn tượng và biểu trưng xảy ra nơi công trường Assisi, khi thánh Phanxicô đứng trần truồng trước mặt các bạn bè, đức giám mục và gia đình, rồi bắt đầu một cuộc hành trình của sự tự do, bằng cách phó thác bản thân trong tay Đấng Duy Nhất là Cha của mọi người: “Ngài trần trụi ra đi hầu có thể bước theo Chúa Chịu Đóng Đinh trần trụi trên thánh giá là Đấng ngài yêu mến” (ĐT 2,4). Chắc hẳn thánh nữ cũng đã biết nguyện ước cuối cùng của thánh Phanxicô là được đặt nằm trần trụi trên mặt đất Pócziuncola.

Ở đây, chúng ta nhận thấy có một sự đối xứng và hội tụ giữa hai cuộc “xuất hành” của hai vị thánh. Các ngài đã biến toàn thể cuộc sống thành một “sự dâng trả” trọn vẹn về cho Thiên Chúa là Đấng đã đến trong cuộc sống của các ngài và cũng là Đấng các ngài hết lòng yêu mến. Cái chết luôn gây kinh hãi. Chúng ta sợ chết, vì nó đến tước đoạt khỏi chúng ta mọi thứ và mọi người. Nhưng đối với các nhà thần giao, thì cái chết là tột đỉnh của lời tạ ơn và chân phúc. Đó là kinh nghiệm của thánh nữ Clara và thánh Phanxicô. Sống thế nào thì chết như vậy. Tất cả cuộc đời của các ngài là một cuộc đời “dâng trả” (x. L Ksd 17,17-18), một cuộc đời được giải phóng, ngõ hầu cuộc đối thoại với Người Yêu Dấu không bao giờ bị trở ngại hay lu mờ vì bất kỳ một dấu vết nhỏ nhặt nào của sở hữu (x. L 6,1-2; L Cl 8,1-2) hay vì bận tâm lo cho bản thân. Mọi thứ khép kín và tự mãn đều gây trở ngại cho mối tương giao và hiệp thông. Quan trọng nhất là đời sống thần giao, và chỉ có đời sống thần giao mới biện minh và hướng dẫn cuộc đời khổ chế cùng với tất cả những quy định của nó. Ngay cả các lời khấn, sự thinh lặng trên núi cũng như sự thinh lặng của nội vi, công việc tông đồ hay công việc âm thầm, khiêm hạ trong nhà: tất cả phải quy hướng về Lời được đón nhận như là trung tâm giúp chúng ta kết hiệp với Thiên Chúa và yêu thương anh chị em.

Mối nguy cơ nghiêm trọng luôn đe doạ chúng ta là xem là tuyệt đối những gì là thứ yếu và phải phụ thuộc vào cái chính yếu. Hậu quả là chúng ta đánh mất vẻ đẹp và sự hài hoà của ngôi nhà đời sống thiêng liêng. Đối với anh em, hoạt động mục vụ hay bác ái không bao giờ có thể trở thành mục đích tối hậu của đời sống thánh hiến. Trong nội vi đan viện, sự thinh lặng và công việc âm thầm của chị em phải mang lấy một sức sống và được biến đổi nhờ sự Hiện diện của Chúa là Đấng ngự trị trong tâm hồn chị em và nhờ cuộc đối thoại nội tâm vốn là lẽ sống của mọi sự. Chúng ta phải ý thức một thực tê có thể xảy ra, là sự thinh lặng bên ngoài và việc tuân thủ luật nội vi cách nhiệm nhặt có thể không gì khác hơn là để trốn tránh sợ hãi và trấn an những lương tâm không còn nỗ lực tìm kiếm, khao khát và yêu thương.

Đáng buồn và đau đớn biết bao khi gặp thấy những cộng đoàn, mà sự tăng trưởng bị xơ cứng bởi tinh thần vị luật cứng nhắc, vì những năm tháng dâng hiến đã nên nhạt nhẽo, thiếu vắng đặc tính nòng cốt của Tin mừng là hân hoan, sáng tạo và liều lĩnh; khi thấy những cộng đoàn nữ tu nét mặt ảm đạm, bực bội và chua cay, vì họ không còn ước mơ và tin tưởng vào điều được hứa ban cho họ!

Kinh nghiệm thiêng liêng có sức giải phóng của thánh nữ Clara và thánh Phanxicô mời gọi chúng ta tạo nên một khoảng trống “nghèo khó” cho sự thinh lặng nội tâm mỗi ngày, ngõ hầu chúng ta có thể dần dần được biến đổi nhờ Đấng chúng ta chiêm ngưỡng và để cho Thiên Chúa có cơ hội tái tạo chúng ta nên mới mỗi ngày. Bấy giờ, Thánh lễ, các giờ kinh phụng vụ và các hình thức cầu nguyện khác không còn có tính cách “bó buộc”, nhưng trở thành thời gian chị em hằng khao khát để gặp gỡ, để thể hiện mối tương giao tình yêu. Thực vậy, chính chúng ta sẽ trở thành “lễ tạ ơn”, “phụng vụ” trong mỗi khía cạnh của đời sống.

Vẻ đẹp của một ơn gọi

“Lạy Chúa, con chúc tụng Chúa vì Chúa đã dựng nên con”
(x. PT Va 3,20)


Cái nhìn của Thiên Chúa trên một tạo vật biết để cho mình được yêu thương và sẵn sàng đáp trả tình yêu ấy thì luôn là một cái gì tuyệt vời. Lời ngợi khen của thánh Clara trong giây phút cuối đời chính là sự tổng hợp của tất cả sự phong phú thiêng liêng, của một cuộc đời biết đón nhận tất cả những khía cạnh tích cực cũng như tiêu cực và dâng trả về cho Chúa không một chút hối tiếc. Ở điểm này, thánh Phanxicô khác với thánh nữ Clara: chính thánh nhân cảm thấy bất xứng hơn khi đến trước mặt Thiên Chúa để ca tụng Người. Trong hai vị, thì thánh nữ Clara tự nhiên hơn: khi nhìn lại bức tranh cuộc đời, chị lập tức khẳng định đó là tác phẩm của Thiên Chúa, một câu chuyện thánh thiêng, một câu chuyện đẹp và tích cực. “Sự hiệp thông lúc nào cũng tạo ra vẻ đẹp”. Thánh nữ Clara hoàn toàn giao hoà với chính mình, với quá khứ, với những giới hạn và chị dâng tất cả về cho Chúa với một sự tự do thanh thản. Tất cả những gì làm nên cuộc sống của chị là hoa quả của tình yêu âu yếm mà Thiên Chúa dành cho chị. Chị luôn nỗ lực phản chiếu vẻ đẹp thần linh đó cho những người chung quanh; bởi vậy, chị đã trở thành một ảnh tượng cho thế giới để mời gọi mọi người chiêm ngưỡng Thiên Chúa kiên nhẫn chăm sóc biết bao cho các tạo vật của Người. “Em hãy hết lòng yêu mến Đấng đã tận hiến bản thân vì yêu em “ (3 T Ag 15), chị viết cho Anê như thế, vang vọng lại huấn ngôn của thánh Phanxicô, ngài đã choáng ngợp và gần như không thể tin vào sự khiêm hạ của Thiên Chúa: “Anh em đừng giữ lại cho mình bất cứ điều gì, để Chúa là Đấng đã hiến trọn mình cho anh em, cũng sẽ nhận lấy toàn thân anh em” (T TD 29).

Trọn cuộc đời thánh nữ Clara đã trở thành một bài ca ngợi khen và tạ ơn Đấng đã tạo dựng, hướng dẫn và bảo vệ chị. Chị là “phản ảnh” của Đấng chị yêu dấu và được biến thành Đấng chị chiêm ngưỡng, và bấy giờ, chị đã cảm nếm niềm vui thiên đàng. Không giống như Phanxicô, chị cảm thấy không cần nài xin sự tha thứ của anh thân xác, bởi lẽ thân xác chị luôn luôn kết hiệp với lời ca ngợi khen của chị: cái thân xác ấy đã nhẫn nhục chịu đựng bênh tật nhiều năm tháng cũng là đối tượng của lời ngợi khen, vì nó là đối tượng của tình yêu của Chúa Cha: “Lạy Chúa, con xin chúc tụng Chúa, vì Chúa đã dựng nên con”. Ngay cả sự nghèo khó khắc khổ mà chị tuân giữ trong năm tháng cũng có tác dụng làm nên vẻ đẹp ấy, vì nó tạo nên khoảng trống nội tâm để tiếp đón Đấng Yêu Dấu.

Hoạ sĩ Michelangelo đã định nghĩa cái đẹp như là sự thanh lọc những yếu tố thừa thãi. Cuộc đời thánh nữ Clara là một lời tán dương vẻ đẹp: chị bước theo con đường thanh luyện, kiên trì chạm đục cho đến khi hình ảnh của Thiên Chúa, vốn hiện diện trong mỗi người chúng ta, hiện lên trong chị với một sự trong sáng tuyệt đối. Khi kinh nghiệm tôn giáo của chúng ta dần dần trở nên kinh nghiệm của một sự gặp gỡ, thì tất cả sẽ biến đổi và mọi sự sẽ trở thành một bí tích của vẻ đẹp, dấu chỉ và phương tiện của một mối tương quan cuốn hút cả linh hồn và thân xác: “Khi Anh Râynanđô ân cần khuyên chị kiên nhẫn chịu đựng nỗi đau đớn vì bệnh tật, chị trả lời rõ ràng: ‘Thưa Anh, từ khi tôi nhận biết ân huệ của Thiên Chúa nhờ tôi tớ Người là Phanxicô, thì không có nỗi đau đớn nào làm tôi khổ sở, không có việc phạt xác nhiệm nhặt hay bệnh tật nào làm tôi khó chịu cả’” (H Cl 44). “Điều trước đây làm tôi cay đắng đã trở nên dịu ngọt cho tôi cả hồn lẫn xác” (DC 3). Không cần phải khinh miệt thân xác nữa, nhưng chỉ cần đánh giá đúng và khiêm tốn yêu mến: “Khinh chê bản thân thì dễ hơn là ta tưởng. Ân sủng có nghĩa là hoàn toàn quên mình. Nhưng nếu mọi niềm kiêu hãnh trong chúng ta đã tiêu tan, thì ân sủng của mọi ân sủng có lẽ là khiêm tốn yêu mến bản thân, như một thành phần đau khổ nào đó trong thân mình của đức Kitô” (G. Bernanos).

Chúng ta làm thế nào để tô điểm cuộc sống hôm nay của chúng ta? Bằng cách hiểu rõ giá trị những khoảng không gian của chúng ta: nếu được chiếu sáng và sưởi ấm bởi một sự Hiện Diện, thì khoảng không gian nhỏ hẹp trong nội vi có thể trở thành nơi lễ hội chứ không phải là nơi đền tội. Làm tăng thêm giá trị nơi ở của chúng ta thì quan trọng biết bao trong đời sống chiêm ngưỡng nội vi! Tính đơn sơ phan sinh bao hàm một vẻ đẹp kỳ diệu có khả năng thiết lập và tăng cường các mối quan hệ. Có một sự hài hoà giúp chiêm ngưỡng qua trật tự, sự sạch sẽ và việc trang trí các phòng ốc của đan viện. Đồng thời, khi chúng ta sống trong sự hiệp thông, chúng ta sẽ có nhiều sáng kiến hơn trong việc chuẩn bị không gian và nơi chốn để gặp gỡ Đấng Yêu Dấu và gặp gỡ nhau.

Lời nói cũng quan trọng không kém. Đối với người sống đời chiêm ngưỡng, thì sự thinh lặng trở thành lời sống động “tạo nên hình dáng” và biến đổi các hoạt động và cử chỉ giản dị hằng ngày. Khi lời nói của chúng ta được thai nghén và thành hình trong thinh lặng thì chúng nắn đúc con tim và biến đổi đời sống chúng ta.

Cũng thế, thời gian chúng ta sống trở thành một yếu tố không thể thiếu được để xây dựng một đời sống hài hoà. Nhờ mầu nhiệm Nhập thể, chúng ta đã sống trong thời gian của Thiên Chúa và chúng ta viết lịch sử ngắn ngủi của chúng ta trong thời gian mà Người “đã sống”. Chúng ta không thể chiếm hữu, nhưng sống trong thời gian ấy như một ân huệ, bằng cách nhận ra sự Hiện diện trong đó và dâng trả về cho Đấng Duy Nhất, thời gian mà chúng ta nhận được từ nơi Người. Sống trong nhịp độ thanh thản của thời gian ấy tức là sống theo nhịp độ sâu lắng của Thiên Chúa, không vội vàng hay hối hả, không dai dẳng nuối tiếc hay trốn tránh trong những hình thức duy hoạt động, không khao khát “ngấu nghiến” thời gian hay để cho nó chôn vùi, làm kiệt quê hay dày vò chúng ta. Khi chúng ta sống trọn vẹn trong thời gian của Thiên Chúa, nhận ra sự thần hiện của Người ẩn dấu dưới mọi biến cố nhỏ nhặt hay cử chỉ tầm thường, thì chúng ta thật sự đang dấn thân luyện tập chiêm ngưỡng và công bố một tuyên ngôn tự do trước mặt một thế giới, vốn là nạn nhân của một quan niệm quy ngã về thời gian đã từng xô đẩy con người hôm nay đến chỗ thất vọng hay trốn tránh trong hư không. Người nữ tu chiêm ngưỡng làm chứng rằng thời giờ không phải là tiền bạc, nhưng là mối tương giao.

Con người hôm nay cần cảm nghiệm vẻ duyên dáng và vẻ đẹp của một cuộc sống trong thời gian của Thiên Chúa biết bao! Đây không phải là điều ảo tưởng hay tưởng tượng, nhưng là điều khả thi. Thánh thiện không cốt tại việc tích lũy các “việc lành”, nhưng là ở phẩm chất của một tình yêu được đổi mới mỗi ngày. Chiêm ngưỡng còn hơn là một hoạt động, nó là một cách thức đặt mình trước mặt Thiên Chúa - trong cầu nguyện hay trong cuộc sống. Chiêm ngưỡng là thái độ bao trùm toàn thể cuộc sống hằng ngày và qua đó chúng ta có thể tỏ cho biết địa vị ưu việt của Thiên Chúa. Vẻ đẹp hệ tại chính yếu ở chỗ để cho Chúa nhìn mình: “Ôi lạy Thiên Chúa, nếu Người nhìn con, thì con sẽ trở nên đẹp” (Gabriela Mistral, SFO).

Vẻ đẹp của ơn gọi chúng ta bắt nguồn từ sự hài hoà của việc xây dựng đời sống thiêng liêng của chúng ta, trong đó mọi sự đều có chỗ đứng của chúng, vì mọi sự gợi nhớ và nối kết với mối quan hệ phu thê với Thiên Chúa: thời gian, không gian, công việc, nghỉ ngơi, thinh lặng, lời nói… Chiêm ngưỡng chính là sự hài hoà không ngừng được tạo ra trong chúng ta mỗi ngày, nơi đó Đấng Duy Nhất hiện diện trong chúng ta đang chờ đợi chúng ta. Thánh Âu-tinh thường nói: “noli foras ire”: đừng đi ra ngoài, thì bạn sẽ gặp Thiên Chúa trong chính bạn. Chị em chỉ có thể đi gặp các chị em khác và gặp gỡ thế giới với con người toàn vẹn của chị em - con người đã được Thiên Chúa giải hoà và đồng hành. Bấy giờ, ngay cả những sự căng thẳng (vì sự căng thẳng sẽ không bao giờ hoàn toàn biến mất) giữa “bên trong” và bên ngoài”, đoàn sủng và cơ cấu, linh hồn và thân xác, tu viện và thế giới, đời sống cá nhân và đời sống cộng đoàn sẽ không làm xáo trộn sự hài hoà và sự bình an sâu thẳm của đời sống chị em, vì nữ tu chiêm ngưỡng luôn luôn tìm thấy con đường dẫn đến Đấng Tuyệt Đối, một con đường bình an chứ không phải con đường bối rối, lo âu và phiền muộn.

Câu hỏi suy tư

Người thanh niên giàu có trong Tin mừng “buồn bã bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mt 19,22). Chúng ta có biết cách “thưởng thức” vẻ đẹp của sự đơn sơ theo tinh thần thánh Phanxicô và Clara, vốn là hoa trái của tiến trình buông bỏ những gì không cần thiết không?

“Và Thiên Chúa ở trong tiếng thì thầm yếu ớt của sự thinh lặng” (1 V 19,12). Chúng ta đã giữ gìn, kinh nghiệm và sống sự thinh lặng chiêm ngưỡng như thế nào? Trong kinh nguyện và các mối tương quan huynh đệ, chúng ta có thể diễn tả lời nói trong sự điềm tĩnh sâu xa và thanh thản, ngõ hầu lời nói trở thành lời hằng sống và lời ban sự sống không?

“Kính chào Bà, cung điện của Chúa
Kính chào bà, nhà tạm của Chúa
Kính chào Bà, điện thờ của Chúa
Kính chào Bà, hoàng bào của Chúa
Kính chào bà, nữ tỳ của Chúa,
Kính chào Bà, thân mẫu của Chúa (K ĐM 4-5).
Chúng ta cũng là “cung điện, nhà tạm, điện thờ, hoàng bào, nữ tỳ, thân mẫu” của Người. Chúng ta sống thực tại đó như thế nào?
Làm sao để cho các cơ cấu hằng ngày (thời khoá biểu, nơi chốn, thời giờ) hài hoà với nhau để cùng quy hướng về niềm “say mê chiêm ngưỡng” ở trong chúng ta?

Sự thinh lặng bên trong và bên ngoài bảo vệ và thăng tiến đời sống nội tâm của chúng ta. Làm sao hoa hợp các giá trị ấy với sự giao tiếp “bên ngoài” (điện thoại, báo chí, internet, truyền hình và nhà khách)? Chúng ta biết cách sử dụng các phương tiện đó như thế nào để không làm phương hại đời sống chiêm ngưỡng cá nhân và cộng đoàn chúng ta không?

IV. “Lắng nghe lời chỉ dạy của Tổng phục vụ”

“Đừng cả tin điều gì, đừng thuận theo điều gì khuyên nhủ Bà xa lìa quyết tâm đó, hoặc gây cớ vấp ngã trên đường Bà đi… Để vững bước hơn trên con đường huấn lệnh Chúa, xin Bà hãy nghe theo lời chỉ giáo của cha rất khả kính chúng ta là anh Êlia, Tổng Phục vụ. Hãy coi trọng lời ngài răn dạy hơn lời những kẻ khác, và quí trọng hơn bất cứ mọi món quà nào khác” (2 T Ag 14-16)

Trong phần này, tôi muốn đề cập đến một vài vấn đề mà tôi nghĩ là có ích để bắt đầu cùng nhau khám phá qua một cuộc đối thoại giữa hai nhánh của gia đình phan sinh. Tôi đặc biệt nghĩ đến hai đề tài sau: 1) sự hợp tác giữa các đan viện độc lập và sự hợp tác trong Liên viện; 2) việc huấn luyện và mối tương quan đặc biệt mà thánh Clara và Phanxicô mong ước phải tồn tại giữa Dòng nhất và Dòng nhì. Tôi sẽ chỉ phác hoạ môt vài đường hướng khả dĩ có thể được triển khai và được sàng lọc sau này, phù hợp với các chỉ thị của Giáo hội và tiếp nối với những gì đã được thực hiện. Tôi hy vọng điều đó có thể là khởi đầu cho việc suy tư về những con đường hợp tác mới mẻ vì lợi ích của tất cả chúng ta. Chúng ta biết nhiều sáng kiến đã thực hiện thành công: chương trình huấn luyện cho các đan viện mẫu, các người huấn luyện, các khấn sinh trẻ; nhà tập chung trong các Liên viện, v.v… Tất cả những điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng của các ơn gọi trong các chiều kích nhân bản, Kitô giáo và phan sinh-clara, và rõ ràng là phải được tiếp tục. Lẽ dĩ nhiên ta có thể kể thêm vào đó việc huấn luyện cho anh em Dòng nhất, nhất là các anh tuyên uý Liên viện, để đào sâu sự hiểu biết về kinh nghiệm thiêng liêng của thánh nữ Clara và chị em. Phải thú nhận là chúng tôi chưa làm được gì nhiều trong lãnh vực này, và đó hãy còn là một biện pháp cần thiết để có thể đối thoại với chị em sống đời chiêm ngưỡng mà không mang mặc cảm tự tôn hay tự ty và não trạng cha chú, nhưng sẽ đưa đến một mối tương quan bổ túc đích thật theo Tin mừng.

Tính độc lập và các mối tương quan
trong đời sống của một đan viện


Trong những năm qua, nhất là kể từ dịp kỷ niệm 800 năm ngày sinh của thánh Clara, chúng ta thấy một sự phát triển phong phú trong lãnh vực nghiên cứu chuyên sâu về các di cảo của thánh nữ Clara và các nguồn phan sinh. Những công trình nghiên cứu này cung cấp cho chúng ta một sự hiểu biết khách quan hơn về khuôn mặt của thánh nữ Clara và linh đạo của các Bà Nghèo. Dĩ nhiên, chúng ta mới chỉ bắt đầu, và chắc chắn sẽ còn gia tăng sự hiểu biết qua sự trợ giúp hỗ tương, và nhất là nhờ sự đóng góp của chính chị em.

Ngày nay, không ai trong chúng ta còn xem thánh nữ Clara như là “bản sao” đơn thuần của thánh Phanxicô. Phải thừa nhận chị có một nhân cách phong phú và là người duy trì một tác động hỗ tương bền vững với thánh Phanxicô, xuyên qua việc trao đổi và bổ túc về mặt đoàn sủng. Thánh Phanxicô hẳn là lời sống động của Tin mừng đã gợi hứng và đồng hành với thánh nữ Clara suốt cuộc đời chị, tuy nhiên chị vẫn giữ được sự độc đáo riêng, không hề giản lược vào sự đôc đáo của thánh Phanxicô. Chính mối tương giao “đồng nhất-dị biệt” này củng cố tính chất linh hứng của đoàn sủng chúng ta.

Theo quan niệm của thánh nữ Clara, sau Lời Thiên Chúa, thì lời của thánh Phanxicô và người kế vị ngài đứng đầu Hội dòng phải được trân trọng hơn mọi lời khác. Chúng ta biết thánh nữ nhấn mạnh điểm đó trong thư thứ hai gởi cho chị Anê (17) và trong Luật Dòng (6,2). Chúng ta biết thánh nữ ám chỉ ai khi đề cập một “ai đó” có tham vọng chia tách chị em rời khỏi ơn gọi - trong khi chúng ta cũng biết rằng Anh Êlia không hẳn là một bản sao của Phanxicô! Tuy nhiên phải từ chối việc phân rẽ hai hội Dòng, dầu khi sự từ chối ấy đẩy chị em ở đan viện đến chỗ tuyệt thực (x. H Cl 37).

Qua những lần tôi được vinh dự thăm viếng các Liên viện khác nhau trong những năm qua và những lần tiếp xúc với nhiều đan viện trên thế giới, tôi càng thêm xác tín rằng quả thực có một mối giây ràng buộc chặt chẽ giữa hai hội Dòng chúng ta. Ý thức thuộc về cùng một gia đình là nên tảng vững chắc cho sự bổ trợ. Khắp nơi tôi đều ghi nhận một sự ủng hộ mạnh mẽ nhằm gia tăng sự giúp đỡ hỗ tương. Nơi đâu thiếu ý thức đó, thì hậu quả có thể trở nên trầm trọng: hoặc anh em đánh mất chiều kích chiêm ngưỡng của đời sống, hoặc chị em thiếu chú tâm vào đoàn sủng đặc thù và linh đạo của chúng ta.

Chúng ta đã có nhiều tiến bộ trong những năm qua. Nhưng con đường phải đi còn dài. Cho dù chị em Nghèo Clara không có những mối giây ràng buộc pháp lý xác định với dòng Nhất như các đại gia đình tu trì khác (như dòng Đa-minh, Các-men), nhưng điều hiển nhiên là chúng ta đang cùng nhau bước đi trong cuộc mạo hiểm sống theo Tin mừng trong tinh thần hèn mọn, và chúng ta sẽ mất mát khá nhiều, nếu chúng ta xem thường sự bổ trợ sâu sắc nối kết chúng ta lại với nhau (mà không xâm phạm sự tự trị của mỗi đan viện bất cứ cách nào). Không nên lấy sự tự trị hợp pháp để biện minh cho sự cách ly, hoàn toàn độc lập và mọi ý định hay chủ tâm tự mãn. Sự hiện hiện của một anh em phan sinh đảm trách công việc mục vụ và cử hành bí tích tại đan viện không là một bảo đảm đầy đủ cho sự trung thành với linh đạo phan sinh - clara. Cuối đời, thánh Phanxicô hứa sẽ “ân cần chăm sóc và lo lắng” (L Cl 6,4; 2 Cel 204) cho chị em, lời hứa đó hàm chứa một điều gì đó sâu xa hơn. Về phần thánh nữ Clara, chị nhấn mạnh như sau: “Tôi xin giao phó tất cả chị em tôi, hiện tại và tương lai cho đấng kế vị cha thánh Phanxicô chúng ta và cho toàn thể Hội Dòng ngài, để các đấng giúp đỡ chúng ta luôn luôn tấn tới trong việc phụng sự Thiên Chúa, và nhất là trong việc tuân giữ thánh đức nghèo khó cách hoàn hảo hơn” (DC Cl 50-51). Đôi khi có thể xảy ra là một đan viện nhìn mọi sự một cách lạc quan, vì đan viện trở nên nơi gặp gỡ cho một trong những nhóm đoàn sủng hiện đại, và còn có thể thu hút một vài ơn gọi. Điều đó có thể đem lại một bầu khí thoải mái trong đan viện, tuy nhiên có mối nguy hiểm là đoàn sủng riêng của đan viện có thể hoàn toàn bị phai nhạt hay bị thay thế bởi một linh đạo khác mà cả thánh Phanxicô lẫn thánh nữ Clara không nhìn nhận là của mình (X. H Per 114; 2 T Ag 16).

Tất cả các tu hội sống đời thánh hiến, dù sống đời chiêm ngưỡng hay hoạt động, hiện nay đang nỗ lực cải tổ nhằm tạo điều kiện cho một sự hợp tác chặt chẽ hơn. Đòi hỏi ấy phát xuất từ bản chất của Giáo hội như là một hiệp thông các đoàn sủng. Quay lưng lại với cuộc đối thoại này nhất định sẽ đánh mất sự phong phú và từ chối chia sẻ một ân ban được trao phó cho chúng ta vì lợi ích của mọi người. “Anh em đừng giữ lại cho mình bất cứ điều gì...” (T TD 29).

Trong một tương lai không xa, chúng ta sẽ phải đối diện với việc tái cơ cấu và giảm bớt con số các đan viện, ít là trong một vài quốc gia. Điều tương tự cũng sẽ áp dụng cho các hình thức khác của sự hiện diện phan sinh - clara. Viễn cảnh này làm cho sự cộng tác giữa các đan viện khác nhau và giữa Dòng Nhất và Dòng Nhì trở nên rất quan trọng vào lúc này. Nếu chúng ta có được một tinh thần huynh đệ trong sáng, thì đó sẽ là một hỗ trợ lớn giúp khắc phục các căng thẳng có thể gây tác hại và xua tan cảm nghĩ tội lỗi, vì sự đóng cửa được xem như dấu hiệu của thất bại. Nên ghi khắc trong con tim lời khích lệ sau đây của Giáo hội: “sự thất bại thực sự của đời sống thánh hiến không phải vì ơn gọi sút giảm (cũng như số đan viện!), mà vì do việc kém gắn bó với Thiên Chúa, với ơn gọi và sứ vụ riêng” (Vita Consecrata 63). Ở đây, chúng ta thấy 3 phạm vi căn bản cần được lượng giá khi thẩm định sự tiến bộ của một huynh đệ đoàn hay một đan viện: đó là sự thân mật với Chúa, sự trung tín với ơn gọi và sự kiên định trong sứ vụ. Đây là một phạm vi mà việc huấn luyện còn bất cập; kinh nghiệm hợp tác trong các Liên viện thực sự vẫn còn non yếu. Cương quyết tồn tại bằng mọi giá, mà không quan tâm đến tiến trình biện phân sáng suốt về ơn gọi, là phản bội lại sứ vụ thiêng liêng của chúng ta. Còn có những tiêu chuẩn khác phải tuân theo trong những trường hợp như thế: mỗi đan viện phải có khả năng tạo điều kiện cho chị em trưởng thành trong ơn gọi, và không phải mọi đan viện đều có khả năng đó - thật thế, vài đan viện không có điều kiện đón nhận ơn gọi mới. Mặt khác, một vài đan viện còn có ơn gọi và có điều kiện kinh tế, nhưng lại có khuynh hướng trở nên độc lập nhiều hơn; họ lẫn lộn quyền tự trị với tự mãn, cô lập và cảm thấy hoàn toàn có lý khi không quan tâm đến Liên viện và việc phát triển của Hội Dòng. Những thái độ như thế rõ ràng mâu thuẫn với tinh thần huynh đệ, vốn là cốt tủy của ơn gọi chúng ta.

Huấn Luyện

“Thánh nữ Clara quy hướng cái nhìn nồng nàn nhất của nỗi khao khát thầm kín vào Ánh sáng, và đã vượt lên trên phạm vi các nỗi lo lắng trần gian, nên chị đã mở rộng con người thâm sâu của chị để đón nhận dòng nước ân sủng” (H Cl 19)

Tất cả mọi người đều ấp ủ trong lòng một mầu nhiềm lớn hơn chính họ. Khi “quy hướng cái nhìn” về ân ban nhiệm mầu ấy như thánh nữ Clara, tôi có thể gặp được Đấng Duy Nhất mà sự hiện diện của Người khiến cho đời sống của ta trở nên viên mãn. Khi “quy hướng cái nhìn” về Ánh Sáng trở nên bản tính thứ hai của ta, thì niềm khát khao Thiên Chúa chiếm đoạt con tim và sự thôi thúc nổi trội là ước muốn dành cho Chúa một chỗ trong con tim. Bằng cách loại trừ mọi trở ngại cản ngăn sự kết hợp với Chúa, ngày qua ngày ta lớn lên trong mối tương giao thiết thân với Thiên Chúa.

Đó là để Chúa huấn luyện và huấn luyện mình cho biết vâng phục Thánh Khí. Thánh Phanxicô và thánh nữ Clara tin chắc rằng “điều anh em và chị em phải ao ước trên hết mọi sự là có được Thánh Khí Chúa hiện diện và tác động nơi mình” (L 10,8; L Cl 10,2). Chính Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta nhớ lại Lời của Chúa Giêsu và tỏ cho chúng ta biết tình phụ tử phổ quát của Thiên Chúa để chúng ta có thể sống với nhau như anh chị em. “Thánh khí Chúa, Đấng ngự trong lòng các tín hữu của Người” (Hn 1,12), giúp chúng ta mỗi ngày nhận ra các đòi hỏi của ơn gọi và ban cho chúng ta nghị lực để thực thi đức vâng lời một cách triệt để và hỗ tương. Chúng ta không thể bằng lòng với việc vâng lời các vị phục vụ hay đan viện mẫu một cách hình thức; đức vâng lời của chúng ta có nghĩa là tất cả chúng ta tuân phục Thánh Khí và đảm nhận hoàn toàn trách nhiệm. Mọi tương giao với người khác, mọi biến cố trong đời sống chúng ta nếu được đọc dưới ánh sáng của Thánh Khí, thì sẽ trở nên cơ hội để “vâng lời”, để biện phân Thánh Ý Thiên Chúa và để đón nhận kế hoạch mà Thiên Chúa dự liệu cho chúng ta.

Chúng ta phải học cách truất hữu cách triệt để. Tuân giữ Thánh Phúc Âm như thánh Phanxicô và Clara hiểu tức là sống “vâng phục, không có của riêng và khiết tịnh” (L1,1; L Cl 1,2). Cần lưu ý thánh Phanxicô không dùng từ “khó nghèo”, mà dùng kiểu nói “không có của riêng”. Đó không chỉ là thiết lập một mối tương quan quân bình với các sự vật, nhưng là có được một thái độ cơ bản là nét đặc trưng trong căn tính của chị em nghèo cũng như anh em hèn mọn. Sống “không có của riêng” là từ bỏ mọi đòi hỏi quyền lợi trên người khác, trên chức vụ uỷ thác cho ta, trên chính Thiên Chúa và Lời của Người... Mọi sự chúng ta có đều do Thiên Chúa ban và chúng ta được mời gọi dâng trả về cho Thiên Chúa, nếu chúng ta muốn không trở thành “tên trộm” chiếm giữ những điều lành thánh mà Thiên Chúa ban phát một cách quảng đại cho mọi người. Thái độ truất hữu triệt để, nhằm dâng hiến bản thân một cách không hạn chế và không chút nuối tiếc, đòi hỏi hoán cải không ngừng, canh tân mỗi ngày, phát sinh từ nỗi kinh ngạc khi chiêm ngưỡng những việc Thiên Chúa đã thực hiện cho chúng ta: “Anh em hãy nhìn ngắm sự khiêm hạ của Thiên Chúa... Đừng giữ lại bất cứ điều gì cho mình!” (T TD 28-29; x. 4 T Ag 15,19-23).

Đó vẫn phải là trọng tâm của tiến trình huấn luyện. Sẽ không sao tránh khỏi những trở ngại trên đường, mà nguy hiểm nhất là tinh thần tự mãn cho rằng mình đã đi đúng đường, sợ dấn thân trong việc lượng giá với người khác và sự lười biếng trong việc kiên trì tìm kiếm. Chúng ta có khuynh hướng đeo bám vào các mô hình dễ dãi và tưởng rằng các mô hình ấy có giá trị cho mọi thời đại. Thánh Gioan Thánh giá viết: “Lạy Chúa là Thiên Chúa, con hân hoan đón nhận mọi biến đổi, vì sự biến đổi buộc chúng con phải tìm sự ổn định nơi một mình Chúa mà thôi!” Quả thực, sự biến đổi có thể được tiếp nhận bằng hai cách: hoặc như là một mối đe doạ khiến ta sợ hãi, hoặc như là một cuộc xuất hành và hy vọng về một tương lai mà chúng ta phải cộng tác với Thánh Khí để tạo nên.

Chúng ta thường tránh né sự liều lĩnh phải xuất phát theo những hướng đi mới - nhất là khi chúng ta đã kinh nghiệm một vài thất bại - như thể chúng ta xác quyết một cách tiên thiên rằng những bước đi như thế sẽ không bao giờ trở thành cuộc thần hiện của Thiên Chúa hay những thời gian để chúng ta vươn rộng và lớn lên. Thế rồi chúng ta cũng quên (một cách tùy tiện) tự hỏi: các cơ cấu của chúng ta có tạo điều kiện thuận lợi cho việc chiêm ngưỡng không? Nếu chúng ta tự hỏi như thế, chắc chắn chúng ta sẽ nhận thấy một số cơ cấu cần được duy trì như hiện nay, một số khác cần phải được thay đổi theo định kỳ, trong khi một số khác cần phải tạo ra để có thể đáp ứng các đòi hỏi thực sự của ơn gọi của chúng ta. Không thể phủ nhận rằng sự căng thẳng giữa cơ cấu và các giá trị sẽ đi theo chúng ta bao lâu chúng ta còn sống; điều quan trọng là biết làm thế nào để chế ngự và điều khiển nó một cách khôn ngoan và kiên nhẫn. Chỉ cần trưng dẫn ví dụ sau: chúng ta đã chẳng phải liên tục học tập để thực thi quyền bính trong tình huynh đệ sao? “Về điểm này, cơ cấu của Dòng Nhì cũng tương tự như Dòng Nhất, cơ cấu đó không được quan niệm như một kim tự tháp hay như một bản sao của cơ cấu Dòng Biển Đức, trong đó cộng đoàn quy tụ chung quanh đan viện phụ hay đan viện mẫu như là một Đức Kitô khác, trái lại cộng đoàn chúng ta chỉ quy tụ chung quanh Tin mừng. Mọi người - cả đan viện mẫu lẫn chị em - phải chăm chú nhìn vào Tin mừng mà thôi và bày tỏ lòng tuân phục với Tin mừng”.

Lời trích dẫn trên là của một chị em Nghèo khó, và tôi tin rằng tất cả chúng ta có thể đồng ý với điều đó. Nhưng trong thực tế, liệu đó có phải là cách thức thực thi quyền bính trong nhiều đan viện không? Các đan viện mẫu đã quan tâm huấn luyện chị em về trách nhiệm như thế nào? Nếu không chân thành đối thoại trong tình huynh đệ, thì không một tiến trình huấn luyện đích thực nào có thể có được trong chính đan viện, giữa các đan viện với nhau hay trong các Liên viện. Sự kiện là không ít các đan viện tin chắc rằng họ không cần sự giúp đỡ của bất cứ ai…

Trong lãnh vực này, sự hợp tác giữa hai Hội Dòng chúng ta thay đổi tùy từng miền; thực tế có những khác biệt đáng kể. Trong thực hành, nhiều chuyện được phó mặc cho thiện chí của các đan viện mẫu, các giám tỉnh và các chủ tịch Liên viện. Hậu quả là các sáng kiến đôi khi được trù liệu kỹ lưỡng và có chất lượng, nhưng đôi khi cũng kém. Tổng Hiến Chương chúng ta khuyến khích sự hợp tác mà không hoạch định chi tiết nào. Tôi không hề muốn xâm phạm sự tự trị của mỗi đan viện hay tạo nên một tình cảnh lệ thuộc vào anh em, nhưng tôi nghĩ cần phải cấp bách xác định rõ ràng hơn mối tương giao hệ trọng giữa chúng ta như thánh nữ Clara và thánh Phanxicô đã vạch ra, để bảo vệ và củng cố căn tính phan sinh - clara của chúng ta. Bởi vì chúng ta được kêu gọi để sống căn tính chung nhờ mối tương giao chân thành trong sự bổ túc sinh động nhằm phục vụ Nước Thiên Chúa.

Câu hỏi suy tư

“Chúng ta là một huynh đệ đoàn chiêm ngưỡng với một sứ mạng riêng trong một thế giới đang biến chuyển”. Làm thế nào để diễn tả một cách trung thành và sáng tạo đoàn sủng của chúng ta như là những Hội dòng bổ túc cho nhau?

Chúng ta chỉ có thể bảo đảm tính xác thực của linh đạo phan sinh - clara bằng một sự dấn thân nghiêm túc, trong sự tin cậy hỗ tương, của anh em và chị em. Làm sao tăng cường sự dấn thân đó trong những nước hay miền chúng ta đang sống? Hôm nay, chúng ta làm thế nào để vâng nghe lời yêu cầu của Chúa Kitô chịu đóng đinh tại Xan Đamianô: “Hãy đi sửa lại nhà Ta”?

Chúng ta có thể giúp gì cho các đan viện đang gặp khó khăn và các đan viện quá “tự mãn”, để họ biết chăm chú lắng nghe Thánh Khí là thầy dạy đích thật của chúng ta và các dấu chỉ của thời đại?

Để trở nên đích thực, việc huấn luyện phải thay đổi cách sống của chúng ta, bằng cách đâm rễ sâu trong cuộc tìm kiếm khuôn mặt của Thiên Chúa qua lý thuyết và bằng kinh nghiệm. Về mặt này, chúng ta đã thực hiện được gì trong những năm qua, và đâu là kế hoạch huấn luyện trong những năm tới? Nói một cách chính xác, chúng ta đang huấn luyện chị em hướng tới điều gì?

V. Những thách đố

“Trèo lên bức tường ngôi nhà nguyện, ngài nói to bằng tiếng Pháp với mấy người nghèo đứng chung quanh: “Xin anh chị em đến giúp tôi xây đan viện thánh Đamianô, vì một số phụ nữ sẽ đến ở đây; danh thơm tiếng tốt và đời sống thánh thiện của các bà sẽ làm rạng danh Cha trên trời trong toàn thể Hội thánh” (DC Cl 12-14)

Lời tiên đoán này của Phanxicô về tương lai của các nữ đan sĩ Đamianô thúc đẩy cả chúng ta nữa hướng tầm nhìn của chúng ta vượt quá những chân trời hiện nay, để khám phá những khả thể do Tin mừng đề nghị nhưng chưa được hình thành rõ ràng và nắm lấy phần chủ động trong việc hình thành một chiều kích chiêm ngưỡng càng ngày càng có chiều sâu và mang tính tin mừng cho tương lai. Giữa một nền văn hoá nông cạn chú trọng những hình thức bên ngoài, phát sinh từ hiện tượng toàn cầu hoá, thì đây là điều mà thế giới hôm nay khát khao mong mỏi. Những người nam và người nữ sống đời chiêm ngưỡng đề nghị một con đường khác: đó con đường của một nền văn hoá tập trung vào đời sống nội tâm và kinh nghiệm sâu thẳm về sự cô tịch “có Chúa”, chứ không phải một sự cô đơn. Chúng ta biết rằng chiều kích chiêm ngưỡng đích thật, cắm rễ sâu trong mối tương giao với Thiên Chúa Ba ngôi, có thể có một chức năng phê phán đối với lòng đạo đức giả tạo, vốn có nhiều tương đồng với hình thức tôn giáo thực dụng hay với hình thức kitô giáo “theo kiểu đạo đức của tôi” hơn là chân thành tìm kiếm Thiên Chúa. Con người ngày nay càng ngày càng có vẻ “đạo đức” hơn, song lại kém tin hơn!

Danh sách những thách đố và những nhiệm vụ hệ trọng và cấp bách mà Thánh Khí đề nghị cho chúng ta hiện nay chắc hẳn là tương đối và chủ quan. Chúng ta đã nêu bật các đề tài cốt yếu như Lời Thiên Chúa, việc huấn luyện, thực thi quyền bính theo Tin mừng… Trong phần sau, tôi muốn xác định 3 khía cạnh khác mà tôi xem như là những thách đố cơ bản. Một cách nào đó, ba khía cạnh này là bản tóm lược những gì tôi đã nói trên đây.

Uốn nắn con tim và tính sáng tạo

Đức Kitô phục sinh khiển trách các môn đệ vì họ “cứng lòng”” (x. Mc 16,14; Lc 24). Đây là một thái độ bận tâm về bản thân khiến chúng ta bị giam hãm trong các kế hoạch và dự phóng của chúng ta: chúng có vẻ vững chắc, nhưng thật sự thì không thể cởi mở con tim chúng ta để tiếp nhận sự mới mẻ Thiên Chúa ban tặng.

Cám dỗ nguy hiểm nhất hằng ám ảnh những người kiếm tìm Thiên Chúa là giam giữ Người trong những ranh giới của những khát vọng riêng của họ - trong khi Thiên Chúa muốn vượt quá tất cả những hy vọng của chúng ta và mở rộng các chân trời của cuộc sống chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn làm cho chúng ta kinh ngạc vì Người tin cậy chúng ta và đòi hỏi nơi chúng ta một sự sẵn sàng mới mẻ. Trong khi chúng ta có khuynh hướng bám chặt vào sự nhạt nhẽo tê cứng của những việc “thường làm”, Chúa Thánh Thần lại đòi chúng ta phải mạnh dạn và sáng tạo trong việc khám phá ra điều “hôm nay chúng ta phải làm” trong những tình huống mới đang phô bày trước mặt chúng ta. Trở ngại trọng yếu của việc hoán cải bắt nguồn từ ước muốn bảo tồn truyền thống vì đó là truyền thống và duy trì một sự quân bình tầm thường, vốn biểu hiện sự khăng khăng bám víu vào các ý nghĩ riêng của chúng ta và loại trừ sự đổi mới hơn là trân trọng điều Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta. Tuy vậy, trung thành với Tin mừng luôn luôn là nguồn suối của sự sáng tạo dũng cảm - sáng tạo không có nghĩa là loại bỏ quá khứ hay gia sản phong phú mà chúng ta nhận được từ các vị thánh của chúng ta. Sáng tạo không bao giờ có nghĩa là loại bỏ cơ cấu ra khỏi đời sống chúng ta: chúng ta không thể sống mà không có cơ cấu và liên kết với một lịch sử. Theo cách nói của Tin mừng, sáng tạo tức là đổ “rượu mới vào bầu da mới” (Mc 2,22), nghĩa là làm cho các cơ cấu thích ứng với cuộc sống mới ngày qua ngày được bày tỏ cho chúng ta, để các cơ cấu ấy đáp ứng một cách thích đáng hơn với các dấu chỉ của thời đại chúng ta đang sống. Đây là sứ mạng được ủy thác cho mọi thế hệ trong mọi thời đại, sao cho sứ điệp Tin mừng luôn luôn sinh động và mang lại sự sống.

Hiện nay chúng ta đang sống trong một nền văn hoá cổ võ một căn tính tập trung vào khả năng tri thức hay biểu hiện tâm lý, cảm xúc hơn là sự uốn nắn con tim, mà Kinh Thánh xác định như là trung tâm của đời sống mới của nhân loại - “trung tâm liên kết, mở rộng và thăng hoa toàn thể nhân vị”. Con tim chai đá - tiếng hy lạp gọi là “sklerokardia” - không gì khác hơn là sự xơ cứng của các khả năng chúng ta, không có khả năng yêu thương và mở rộng bản thân để phó thác vào Thiên Chúa. Trái lại, sự mới mẻ của Thánh Khí gây ngạc nhiên nơi chúng ta và ngăn ngừa mọi hình thức co cụm để chỉ giải quyết những điều đã thường làm, và chôn dấu trong lòng đất để không mất đi nén bạc mà chúng ta đã nhận lãnh (Mt 25,18). Chống lại sự thay đổi có thể đồng nghĩa với việc chống lại sự hoán cải, là từ chối để cho Thánh Khí hướng dẫn chúng ta bước đi trên con đường mới, mà chúng ta chỉ có thể khám phá được bằng cách khởi hành (x. Dt 11,8).

Từ đó, chúng ta có thể nhận thấy nhu cầu phải đổi mới nếp sống mỗi ngày, cách sống và ngay cả thời khoá biểu - vì nếu thời khoá biểu quá nát vụn, thì có thể gây trở ngại cho chiều kích chiêm ngưỡng, vốn cần có một khoảng thời gian dài dành cho việc đối thoại và thinh lặng riêng tư với Chúa, và nhờ vậy mà cũng làm gia tăng phẩm chất của đời sống cầu nguyện cộng đoàn. Việc chuẩn bị nghiêm túc và có tính sáng tạo những không gian phụng vụ, cộng đoàn và giải trí cũng tại điều kiện thuận lợi cho việc thường huấn về mối tương giao với Thiên Chúa và với người khác. Khi cử chỉ và lời nói của chúng ta trở nên chín chắn nhờ một quảng thời gian thinh lặng thích đáng, thì nhân cách đích thực, tự do, thanh thản và thân thiện dần dần được hình thành. Sự sáng tạo thiêng liêng như thế vẫn tiếp tục ngay cả khi thân xác trở nên yếu nhược hay đau ốm: về điểm này, gương sáng của thánh nữ Clara tha thiết mời gọi chúng ta duy trì sự năng động trong tình yêu và đừng chán nản - và nhất là đừng bao giờ tìm cách lánh mình trong thói quen buồn thảm làm tê liệt và dập tắt nhiệt tình sáng tạo.

Một Linh đạo lấy Kinh Thánh, phụng vụ và đoàn sủng làm trung tâm

Chúng ta không cần liệt kê tất cả các văn kiện của Giáo hội và hội dòng - trong hơn 40 năm qua - đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc huấn luyện vững chắc về Kinh thánh và phụng vụ, cách riêng cho những người thánh hiến và nhất là cho các tu sĩ chiêm ngưỡng. Nhưng điều đó ảnh hưởng trên đời sống của các cộng đoàn chúng ta tới mức nào? Một sự tiếp xúc chăm chỉ và lâu dài với Lời Thiên Chúa không thể không thay đổi một vài “việc thực hành đạo đức” thừa hưởng từ nhiều thế kỷ đã qua và nay vẫn còn tồn tại trong một số ít đan viện. Một buổi phụng vụ sinh động, được chuẩn bị chu đáo và được mọi người tham dư tích cực thì không trái nghịch với tinh thần nội vi: trái lại, nó cũng có thể “huấn luyện” linh mục chủ sự - như tôi may mắn được cảm nghiệm trong một vài đan viện. Phải chăng chúng ta đã giới hạn vào việc lắng nghe các bài trình bày “uyên bác” về Kinh Thánh và phụng vụ và cảm thấy như thế là đã đáp ứng tất cả những đòi hỏi của Giáo hội? Tuy nhiên, một chân lý không sưởi nóng con tim và biến đổi đời sống chúng ta thì không phải là một sự hiểu thiết thực, và cũng không là việc huấn luyện đích thật.

Chúng ta đừng bao giờ quên rằng mọi cử hành phụng vụ, như ý nghĩa của hạn từ đó, là việc phục vụ toàn thể dân Thiên Chúa. Vì thế cần phải nghĩ đến việc tiếp đón các kitô hữu giáo dân muốn tham dự vào kinh nguyện của các cộng đoàn chúng ta. Tất cả mọi đan viện chị em nghèo Clara trên thế giới đều nhận các ý xin cầu nguyện của các thiện nam tín nữ xa gần; có lẽ chúng ta nên giúp đỡ hơn nữa các kitô hữu giáo dân, - khởi sự từ những người gần gũi nhất với gia đình phan sinh - nếm cảm sâu xa hơn kinh nguyện phụng vụ của các cộng đoàn chị em và anh em, như một điều gì có liên hệ mật thiết, chứ không phải là xa lạ với ơn gọi của họ.

Chấp nhận thách đố này và dấn thân trong sự biến đổi này (mà nhiều đan viện đã thực hiện) sẽ là một cuộc cách mạng Copernic thực thụ để phục hồi căn tính đích thật và phong phú của việc chiêm ngưỡng. “Các cộng đoàn chúng ta phải trở thành trường dạy cầu nguyện đích thật” (Gio-an Phao-lô II, Novo Millennio Ineunte 33).

Chúng ta thường làm cho người ta có ấn tượng là chúng ta xem ơn gọi chúng ta như một dữ kiện được thâu nhận một lần cho tất cả, quên rằng một đoàn sủng không phải chỉ là một gia sản mà ta đã lãnh nhận, nhưng tiên vàn đó là một trách nhiệm tìm kiếm trước mặt Thiên Chúa và thế giới. Chúng ta đã làm thế nào để thích nghi hay tạo nên các hình thức cầu nguyện mới để chúng có thể trở thành “một điển hình và gương mẫu” (DC Cl 19), phúc âm hoá và truyền giáo trong môi trường chúng ta?

Cảm thức thuộc về

“Tôi xin chị em là các Bà chúa của tôi và khuyên chị em hãy luôn luôn giữ lấy lối sống nghèo khó cực rất thánh thiện ấy. Chị em hãy coi chừng, đừng để ai day bảo hay khuyến khích chị em vĩnh viễn xa rời lối sống ấy bằng cách này hay cách khác” (L Cl 6,8-9)

Chúng ta thuộc về ai? Câu trả lời (được học thuộc lòng) xem ra khá dễ dàng. Chúng ta thử đặt câu hỏi cách khác: các ước vọng và quan tâm của chúng ta quy hướng về điều gì? Điều gì khiến chúng ta đau khổ? Chúng ta đang đầu tư năng lực và thời giờ cách cụ thể vào chuyện gì? Đặt câu hỏi như thế, câu trả lời xem ra khó hơn! Tôi phỏng đoán rằng chúng ta ít tập trung vào điều cốt yếu, nên bị mất hút trong mê cung các vấn đề thứ yếu - chẳng hạn như việc bảo toàn một vài cơ cấu, sự tồn tai của đan viện, việc săn lùng ơn gọi (ngay cả khi phải đưa họ từ các lục địa khác tới mà không chuẩn bị trước), bo bo giữ chặt đất đai.

Chúng ta thực sự thuộc về ai? Có thuộc về Thánh Khí Thiên Chúa là Đấng, với sự cộng tác của chúng ta, tái tạo chúng ta mỗi ngày không? Hay thuộc về một ai khác? “Trong mỗi giai đoạn cuộc đời, Chúa yêu cầu chúng ta đáp trả bằng một câu trả lời mới” (Phaolô VI). Trong tiến trình năng động này là dành cho Thiên Chúa một chỗ trong tâm hồn, chúng ta buộc phải dành vị trí ưu tiên cho Tin mừng, cho đoàn sủng phan sinh - clara, cho gia đình phan sinh hơn là cho đan viện. Sứ vụ của chúng ta có những chân trời bao la. Đó không là mơ mộng, nhưng đem lại chiều kích đích thật của ơn gọi chúng ta, và đòi hỏi chúng ta phải tự hủy và hoán cải không ngừng. Nếu chúng ta đặt mình trong những viễn cảnh thanh luyện này, chúng ta sẽ nhận thấy rõ ràng hơn nhu cầu phải làm việc chung, cùng nhau hoán cải và đồng hành với nhau. Chúng ta sẽ không trở nên thánh một cách đơn độc, từng người một; chúng ta trở nên thánh khi tất cả chúng ta cùng nâng đỡ lẫn nhau.

Huấn luyện các mối tương giao

“Các con hãy luôn yêu mến Thiên Chúa, linh hồn mình và linh hồn hết thảy mọi chị em khác, và ước gì các con luôn hăm hở tuân giữ điều các con đã đoan hứa với Chúa” (CL Cl 14)

Một yếu tố vô cùng hệ trọng trong chương trình huấn luyện ngày nay cần nhấn mạnh là khả năng tương giao của mỗi chị em: với bản thân, với lịch sử cá nhân, với những cảm xúc, với những sự thất bại và với tất cả những ân ban mà chị em phải dâng trả về cho Chúa... Chính trên nền tảng này mà các mối tương giao với người khác và với Thiên Chúa được thành hình. Trước tiên, chiều kích cảm xúc phải được nhìn nhận không chút mặc cảm, vì chỉ như thế ta mới có được sự thanh thản đích thực và sâu xa và trổ sinh một sức sống hết sức phong phú tạo điều kiện cho sự phát triển hài hoà nhân cách. Đôi khi ta nghĩ rằng chỉ cần khoác một bộ tu phục rồi mọi sự sẽ ổn. Biết bao thảm kịch ta có thể đọc được trên những khuôn mặt ẩn khuất dưới khăn lúp! Những thảm kịch không được giải quyết và gây nên biết bao căng thẳng, đến độ phá vỡ sự bình an trong ngôi nhà suốt nhiều tháng, nhiều năm... Trái lại, bầu khí cộng đoàn quả là “thiên đàng”, khi các thành viên tìm cách hiểu biết lẫn nhau và quan tâm đối thoại với nhau, với Thiên Chúa và với những người khác. “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Trách nhiệm này là của chúng ta, trong tư cách là kitô hữu và là người thánh hiến. Bởi thế, chúng ta phải đầu tư tất cả năng lực của chúng ta để đẩy mạnh việc huấn luyện về mối tương giao huynh đệ và tương giao với Thiên Chúa. Không chấp nhận miễn trừ: tuổi tác, tính khí hay quá khứ không thể miễn chuẩn cho chúng ta.

Câu hỏi suy tư

Chỉ có đức tin sáng suốt và minh mẫn, fides quaerens intellectum, mới có thể xây dựng một nền móng thích đáng cho việc chọn lựa sống theo Tin mừng. Chúng ta có nghiêm túc về vấn đề này không? Chúng ta sử dụng những phương tiện nào để đào sâu đức tin của chúng ta ? Chúng ta có sẵn lòng sử dụng các tài năng và đoàn sủng của mỗi chị em, trong đó có năng khiếu tri thức, vì lợi ích của toàn thể huynh đệ đoàn không?

“Việc đọc Kinh thánh (Lectio divina) giúp ta nắm bắt trong bản văn Kinh Thánh lời hằng sống có vai trò chất vấn, hướng dẫn và uốn nắn đời sống chúng ta” (Gioan Phaolô II, Novo Millennio ineunte 39). Chúng ta đã để mình được uốn nắn nhờ các Giờ kinh Phụng vụ, nhờ các việc cử hành phụng vụ khác và nhờ việc đọc Lời Thiên Chúa trong tâm tình cầu nguyện như thế nào?

Chúng ta “đầu tư” bao nhiêu để tạo điều kiện thuận lợi cho việc huấn luyện về Kinh Thánh, phụng vụ và đoàn sủng của chúng ta - một nền huấn luyện dính dáng đến toàn thể đời sống chúng ta?

Chúng ta dành chỗ đứng nào cho việc huấn luyện nhân bản và lượng định cảm xúc trong đời sống thường nhật của huynh đệ đoàn?

Kết luận
“Cha thánh đã nói tiên tri như thế không phải chỉ về chúng ta mà thôi, nhưng còn về những người sau nầy sẽ được Chúa gọi đến trong ơn kêu gọi thánh thiện mà Chúa đã gọi chúng ta” (DC Cl 17)

Chị em thân mến, khi kết thúc sứ điệp huynh đệ và chân thành này, tôi muốn nhân danh toàn thể anh em dòng Nhất và toàn thể gia đình phan sinh để bày tỏ một lần nữa lòng biết ơn sâu xa vì sự hiện diện của chị em bên cạnh chúng tôi. Đối với chúng tôi, chị em nhắc nhớ và kích thích chúng tôi diễn tả mạch lạc hơn chúng tôi là gì, chúng tôi đã đoan hứa những gì và điều gì đã được hứa hẹn và dành cho chúng tôi. Trong một thế giới mất phương hướng, tuy vậy vẫn còn khao khát một kinh nghiệm thiêng liêng đích thật, chị em được coi là “viên ngọc quý đính trên vương miện” của đoàn sủng phan sinh cho mọi thế hệ!

Một số người Hy lạp đã yêu cầu Philíphê: “Chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu” (Ga 12,21). Nhiều người nam nữ hôm nay đang đặt ra cho chúng ta câu hỏi tương tự. Chị em hãy giúp chúng tôi theo gương thánh nữ Clara, “phản ánh” và toả chiếu cho thế giới điều chúng tôi chiêm ngưỡng; chỉ cho thấy hình ảnh sống động mà Chúa đang khuôn đúc trong nội tâm chúng tôi và được diễn tả ra bên ngoài bằng sự thống nhất hài hoà trong đời sống thường nhật. “Lạy Thiên Chúa, một điều duy nhất chúng con có thể giải cứu được trong thời đại này… đó là một mảnh nhỏ của Người trong cõi lòng chúng con. Và có lẽ nhờ đó mà chúng con cũng có thể giải thoát Người khỏi nấm mộ ngục tù trong những con tim hoang vắng, và mở ra cho Người một lối đi...” (Etty Hillesum). Phải, điều hệ trọng là cứu vớt và giải thoát hình ảnh Thiên Chúa hiện diện trong lòng chúng ta để trao ban hình ảnh ấy cho những người khác, để được giải thoát khỏi bản thân, khỏi cái “tôi” ích kỷ và hung hãn bị mất hút trong cơn lốc của một ngàn chuyện lo âu và quên lãng sự hiện diện của Thiên Chúa. Trong một thế giới vỡ nát và buông trôi như thế, chúng ta phải “bảo vệ Thiên Chúa của chúng ta” và ra sức duy trì một chứng tá khả tín về mối tương giao huynh đệ như là một sự “thần hiện”, một diễn tả yêu thương của sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúng ta phải xác tín công bố cho mọi người biết rằng vẫn còn có thể yêu thương nhau và tìm thấy lại sự thống nhất của chúng ta trong Đức Giêsu Kitô, là đấng đã chết và sống lại từ cõi chết.

Lời của Đấng Phục sinh đang vang vọng trong lòng tôi và tôi cảm thấy cần phải nhắc lại cho chị em Lời đó: “Hãy đi báo cho anh em Thầy đến Galilê, họ sẽ được gặp Thầy ở đó” (Mt 28,9-10). Hãy đi! Tất cả chúng hãy mạnh dan ra đi và đừng sợ hãi! Chúa đang chờ đợi chúng ta. Chị em hãy khẳng khái tuyên bố: “Tôi đã thấy Chúa!” (Ga 20,18), và chỉ cho chúng tôi thấy Chúa qua đời sống gắn bó nồng nàn với Người của chị em, chị em hãy làm chứng cho Chúa bằng lối sống “triệt để theo Tin mừng” cắm rễ trong niềm tin cậy vào Người, bằng một đời sống phong phú siêu trội bùng phát từ sự tự hủy của chị em, từ sự thinh lặng có sức biến đổi và “toả hương thơm” trên toàn thế giới - “và cả nhà sực mùi hương” (Ga 12,3). Đời sống chúng ta hôm nay thật sự cần lấy lại sự dan dĩ, sự “nhiệt tình”, sự quảng đại vô hạn tuôn trào từ niềm vui vì đã tìm thấy “kho báu” và làm thay đổi mọi viễn cảnh của đời sống chúng ta. Tóm lại, chúng ta cần có niềm “hy vọng không làm chúng ta thất vọng” (Rm 5,5).

Đặc ân sống nghèo mà thánh nữ Clara bảo vệ bằng mọi giá chính là niềm vui được đi theo và chia sẻ cuộc sống của Đức Giêsu. Đó là sự bảo đảm cho lòng trung tín với ơn gọi của chúng ta. Chị em phải nhắc cho chúng tôi nhớ rằng một anh em hay chị em không nghèo và tự do theo Tin mừng sẽ bất hạnh vì cằn cỗi và buồn bã (x. Mc 10,22) - bất kể các thành tựu vẻ vang hay truyền thống phong phú.

“Vì vậy, tôi quì gối trước tôn nhan Thân phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, cậy nhờ công nghiệp của Đức Trinh Nữ Maria vinh hiển là Thánh Mẫu Người, cha thánh Phanxicô chúng ta và toàn thể các thánh, nguyện xin chính Chúa là Đấng đã cho chúng tôi khởi đầu tốt đẹp, cũng ban ơn cho chúng tôi được tăng trưởng và bền đỗ tới cùng, Amen!” (DC Cl 77-78).

Nguyện xin Chúa hằng ở cùng chị em
và ban cho chị em hằng được ở với Người.
Roma, ngày 11 tháng 8 năm 2002
Đại lễ thánh nữ Clara
Giacomo Bini, ofm
Người anh em và Phục vụ của anh chị em


chữ viết tắt
Di cảo của thánh Phan-xi-cô
DC Di chúc
Hn Huấn ngôn
K ĐM Kinh Kính mừng Đức Trinh nữ Maria
L Luật có sắc dụ (1223)
L Ksd Luật không sắc dụ (1221)
QL Cl Quy luật sống gởi chị Clara
T Th II Thư gởi các tín hữu, bản II
T TD Thư gởi Toàn Dòng
Di cảo của thánh Clara
2 T Ag Thư 2 gởi Chị Agnes
3 T Ag Thư 3 gởi Chị Agnes
4 T Ag Thư 4 gởi Chị Agnes
CL Cl Chúc lành của thánh Clara
DC Cl Di chúc thánh Clara
L Cl Luật Dòng thánh Clara
Các tài liệu nguồn khác
1 Xel Hạnh thánh Phanxicô do anh Xêlanô viết, cuốn 1
2 Xel Hạnh thánh Phanxicô do anh Xêlanô viết, cuốn 2
BHN Bông Hoa nhỏ
ĐT Đại Truyện của thánh Bônaventura
G Lt Giao ước linh thiêng
H Cl Hạnh thánh Clara
H Per Hạnh Thánh Phanxicô theo thủ bản Pêrugia
PT Va Vụ án phong thánh