Ngày thứ Bẩy, 25 tháng Sáu, sau khi viếng đài kỷ niệm diệt chủng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã đáp máy bay tới Gyumri và ở đây, ngài cử hành Thánh Lễ đầu tiên của ngài tại Armenia. Sau đó, vào buổi chiều, sau khi viếng hai nhà thờ chính toà của Gyumri, một của Chính Thống Giáo, một của Công Giáo, ngài lại đáp máy bay trở lại Yerevan và ở đây, ngài đã cùng Đức Thượng Phụ Tối Cao Karekin II của Giáo Hội Tông Truyền Armenia cử hành nghi thức đại kết cầu nguyện cho hòa bình tại Công Viên Thành Phố.
Diễn văn của Đức Karekin II
Trong nghi thức trên, Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II đã đọc bài diễn văn sau đây do chính Tòa Thánh công bố, một điều khá đặc biệt, vì Tòa Thánh thường chỉ phổ biến các bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng mà thôi:
“Phúc thay những người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9)
Kính thưa Đức Thánh Cha, người anh em thân mến trong Chúa Kitô,
Kính Thưa Tổng Thống Cộng Hòa Armenia,
Kính thưa anh em thiêng liêng đầy ơn thánh và các tín hữu thân mến
Với lời ca ngợi thánh danh Thiên Chúa Tối Cao trên môi miệng, hôm nay, tại trung tâm thủ đô Yerevan này, dưới cái nhìn diễm phúc của Núi Ararat có ý nghĩa thánh kinh, chúng ta đã tụ họp nhau để cầu nguyện chung. Từ lãnh thổ của Nôê mà từ đó Thiên Chúa đã cho mọc lên cầu vồng hòa bình, chúng ta cất cao lời khẩn nguyện của chúng ta lên trời cùng với người anh em thân yêu của chúng ta trong Chúa Kitô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cầu cho việc thiết lập hòa bình trên thế giới và cho cuộc sống an ninh và thịnh vượng. Chúng ta xúc động khi thấy cầu nguyện với chúng ta tại công viên này còn có các nạn nhân chiến tranh, nạn nhân khủng bố, và nạn nhân bạo lực vốn là người tị nạn từ Azerbaijan cũng như từ Syria, và Iraq. Với niềm hy vọng vào Thiên Chúa, họ đang chờ những ngày hòa bình để có thể trở về quê cha đất tổ của họ.
Thực vậy, một thập niên rưỡi trước đây, chúng ta đã chào mừng thiên niên kỷ thứ ba với niềm hy vọng rằng nó sẽ khởi đầu cho việc sống chung trong tình liên đới giữa các dân tộc và sự hợp tác tốt đẹp giữa các quốc gia để tạo ra một thế giới hòa bình và công lý. Ây thế mà, ngày nào, ta cũng nghe thấy các tin tức gây bối rối về các cuộc chiến tranh gia tăng, các hành vi khủng bố, các đau đớn khôn tả, các mất mát không thể nào thay thế được. Trẻ em, thiếu niên, phụ nữ, và người già tại nhiều nơi trên thế giới, thuộc các quốc tịch, các tôn giáo và tuyên tín khác nhau, đang trở thành nạn nhân của vũ khí giết người và bạo lực dã man, hoặc buộc phải chọn con đường tị nạn, vượt qua các khó khăn không thể nào giải thích được, mong tìm được nơi trú ẩn an toàn.
Đúng một thế kỷ trước đây, quốc gia chúng ta cũng đã phải bước cùng một con đường đó, cũng rơi vào một tình thế nguy kịch, trong đó, do cuộc Diệt Chủng Người Armenia, quốc gia chúng ta đã mất đa số lãnh thổ quê hương và sau khi chịu con số 1 triệu rưỡi tử đạo, đã chiến đấu đòi quyền hiện hữu. Cả hôm nay nữa, quốc gia chúng ta lại phải sống trong tình thế khó khăn của một cuộc chiến tranh không tuyên chiến, phải bảo vệ hoà bình ngay trong biên giới quê hương mình với một giá cao và quyền của người dân Nagorno-Karabakh được sống tự do trong nôi mẹ của mình. Các làng mạc Armenia từng bị đánh bom và tàn phá, binh sĩ bảo vệ hòa bình cũng như trẻ em đang độ đến trường bị giết và bị thương, các dân thường yêu hòa bình và không vũ trang từng bị tra tấn.
Khi đương đầu với các khó khăn này, nhân dân chúng ta vẫn có lòng tương cảm, đối với các đổ nát và mất mát đang liên tiếp diễn ra tại Cận Đông, đối với các hành vi khủng bố đã và đang diễn ra tại các thành phố lớn của Âu Châu, tại Nga, tại Hiệp Chúng Quốc, tại Á Châu và Phi Châu, và đối với các di sản tôn giáo và văn hóa đang bị phá hoại cách tàn nhẫn trong các vùng có tranh chấp. Biết bao địa điểm thánh thiêng đã bị xúc phạm và biết bao nghệ phẩm giá trị bị tiêu hủy tại Syria, Iraq, và tại các quốc gia Đông Phương và Phi Châu? Biết bao cây thập giá bằng đá đã bị tiêu hủy ở Azerbaijan? Vùi sâu dưới những hoang tàn, đau đớn vì mất mát và thiếu thốn ấy, là những giá trị và xúc cảm của linh hồn con người.
Trong những tình huống như thế, sứ mệnh của các Giáo Hội Kitô và của các nhà lãnh đạo tôn giáo không thể chỉ tự giới hạn vào việc giúp đỡ các nạn nhân, an ủi họ, và chăm sóc mục vụ cho họ. Các biện pháp thực tế hơn cần được sử dụng trên đường tìm kiếm hòa bình bằng cách củng cố các cố gắng của chúng ta nhằm ngăn chặn sự ác, bằng cách phát huy tinh thần yêu thương, liên đới và hợp tác trong các xã hội qua cuộc đối thoại đại kết và liên tôn, phù hợp với mệnh lệnh của Thiên Chúa, “phúc cho những người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5:9).
Kính thưa Đức Thánh Cha, hiển nhiên, việc phục vụ của ngài quả đang phản ảnh sự tận tụy hết lòng của ngài đối với mệnh lệnh của Thiên Chúa về hòa bình trên thế giới và hòa giải giữa các dân tộc. Một trong các chứng từ về điều này là Thánh Lễ long trọng của ngài, cử hành năm ngoái tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, nhân dịp một trăm năm Cuộc Diệt Chủng Armenia để tưởng niệm các nạn nhân vô tội của chúng tôi, khi, trong sứ điệp của ngài, ngài đã nói lên sự cấp thiết phải lập lại công lý và ngài đã quả quyết “Che đậy và bác bỏ tội ác là như để một vết thương cứ tiếp tục chẩy máu mà không chịu băng bó nó!”.
Năm ngoái, được hướng dẫn bởi cùng nguyên tắc trên, nhiều quốc gia và tổ chức mới, một lần dứt khoát, đã kết án cuộc Diệt Chủng Armenia, trong đó có Đức Quốc vốn là đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ thời Thế Chiến I; nước này trong những ngày gần đây đã nhìn nhận cuộc Diệt Chủng chống lại người Armenia.
Nhân dân chúng tôi biết ơn Đức Thánh Cha và mọi người bênh vực và bảo vệ công lý, và kỳ vọng rằng Thổ Nhĩ Kỳ, nghe theo sứ điệp của ngài và lời kêu gọi của nhiều nước cũng như nhiều định chế quốc tế, sẽ chứng tỏ đủ can đảm để giáp mặt với lịch sử, chấm dứt việc phong tỏa Armenia một cách phi pháp và ngưng hẳn việc hỗ trợ các vụ khiêu khích quân phiệt của Azerbaijan nhắm chống lại quyền của người Nagorno-Karabakh được sống trong tự do và hòa bình.
Quả thực, hoà bình sẽ không thể nào thực hiện được nếu không có công lý, mạng sống con người không thể trở thành đề tài cho các suy đoán và không thể bị làm ngơ. Như Thánh Tông Đồ nói, “Thiên Chúa không tỏ đầu óc phe phái, nhưng ở mọi quốc gia, bất cứ ai kính sợ Người và làm điều đúng đều được Người chấp nhận” (Cv 10:34-35). Chỉ có thứ công lý biết bám rễ trong việc bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân và của các dân tộc, mới có thể trở thành nền tảng vững chắc để ngăn ngừa tội ác chống nhân loại mà thôi, và mới là con đường thành công nhất dẫn đến một giải pháp toàn diện cho cuộc tranh chấp.
Với một trái tim tha thiết, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa để mục tiêu trên được thực hiện, ngõ hầu Người nghe thấy lời cầu nguyện của chúng ta và khi hậu hĩnh đổ tràn các ơn của Chúa Thánh Thần xuống, Người sẽ đội triều thiên cho tình thương huynh đệ và sự hợp tác của các Giáo Hội bằng nhiều thành quả phong phú. Xin Chúa hay thương xót của chúng ta tẩy rửa thế giới khỏi các thảm kịch sự ác và ban hoà bình và che chở, và như lời tiên tri từng quả quyết, người ta sẽ rèn gươm của họ thành lưỡi cày, giáo của họ thành lưỡi liềm, nước này sẽ không tuốt gươm chống lại nước kia, cả hai không còn học chiến tranh nữa (Is 2:4).
Với những trái tim tràn đầy niềm vui thiêng liêng của cuộc gặp gỡ giữa chúng ta, vốn do Chúa nhân lành ban cho chúng ta, chúng tôi van nài Chúa Cứu Thế của chúng ta ban ơn thánh và bằng an của Người cho mọi người chúng ta, và xin kính mời ngài, người anh em thân yêu của chúng tôi trong Chúa Kitô, ban sứ điệp của ngài và ban phúc lành dư tràn của ngài cho hàng ngàn tín hữu đang tụ họp tại đây.
Diễn văn của Đức Phanxicô
Kính thưa người anh em đáng kính và thân yêu, Đức Thượng Phụ Tối Cao của mọi người Armenia,
Kính thưa Tổng Thống,
Anh chị em thân mến,
Nguyện chúc phúc lành của Thiên Chúa và hòa bình ở cùng tất cả qúy vị!
Tôi vốn rất muốn viếng thăm lãnh thổ thân yêu này, quê hương của qúy vị, trước nhất để ôm hôn đức tin Kitô Giáo. Quả là một ơn phúc đối với tôi được ở đây trên các vùng cao này, nơi, dưới bóng Núi Ararat, chính sự im lặng dường như cũng đang lên tiếng. Ở đây, các khatchkar – các thập giá bằng đá– đang thuật lại lịch sử độc đáo được bảo bọc bằng một đức tin gian khổ và đau thương vô vàn, một lịch sử đầy các chứng từ tuyệt vời đối với Tin Mừng, một lịch sử mà qúy vị là người thừa hưởng. Tôi tới đây như một người hành hương từ Rôma để hiện diện với qúy vị và để nói lên tình âu yếm tận đáy lòng tôi: tình âu yếm của người anh em của qúy vị, và cái ôm huynh đệ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội rất qúy mến qúy vị và gần gũi với qúy vị.
Trong mấy năm gần đây, các cuộc thăm viếng và gặp gỡ giữa các Giáo Hội chúng ta, luôn luôn thân ái và thường đáng ghi nhớ, đã gia tăng nhờ ơn Thiên Chúa. Vào ngày kính Các Thánh Tông Đồ của Chúa Kitô này, Chúa Quan Phòng muốn chúng ta gặp nhau một lần nữa để củng cố sự hiệp thông tông truyền giữa chúng ta. Tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa vì “sự hợp nhất có thực chất và sâu xa” giữa các Giáo Hội chúng ta (xem Đức Gioan Phaolô II, Buổi Cử Hành Đại Kết, Yerevan, 26 tháng Chín, 2001: Insegnamenti XXIV/2 [2001], 466), và tôi cám ơn qúy vị về lòng trung thành thường có tính anh hùng của qúy vị đối với Tin Mừng, vốn là một ơn phúc vô giá đối với mọi Kitô hữu. Sự hiện diện của chúng ta ở đây không phải là một trao đổi tư tưởng, mà là trao đổi ơn phúc (xem Đã Dẫn, Ut Unum Sint, 28): chúng ta đang gặt hái những gì Chúa Thánh Thần đã gieo trong ta như ơn phúc cho nhau (xem Evangelii Gaudium, 246). Với niềm vui lớn lao, chúng ta đã cùng nhau tiến bước trên một hành trình từng đưa ta đi khá xa, và chúng ta tin tưởng mong tới ngày nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, ta sẽ được hợp nhất chung quan bàn hy tế của Chúa Kitô trong sự viên mãn của hiệp thông Thánh Thể. Nhờ theo đuổi mục tiêu rất đáng ước ao này, chúng ta kết hợp với nhau trong một cuộc hành hương chung; chúng ta bước đi với nhau trong “một niềm tín thác thành thực đối với những người cùng hành hương, đặt qua một bên mọi nghi ngờ và bất tín” (đã dẫn, 244).
Trên hành trình này, chúng ta đã được đi trước và cùng được đi với nhiều chứng nhân, nhất là các vị tử đạo từng niêm ấn cho đức tin chung vào Chúa Kitô của chúng ta bằng chính máu đào của họ. Các vị là những vì sao của chúng ta ở trên trời, chiếu sáng chúng ta ở dưới thế này và chỉ đường để ta tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn. Trong số các giáo phụ vĩ đại, tôi muốn nhắc đến Thượng Phụ Tối Cao thánh thiện Nerses Shnorhali. Ngài biểu lộ một tình yêu phi thường đối với dân của ngài và các truyền thống của họ, cũng như một quan tâm sinh động đối với các Giáo Hội khác. Không mệt mỏi tìm kiếm sự hợp nhất, ngài đã tìm cách hoàn thành ý của Chúa Kitô muốn những ai tin “sẽ trở nên một” (Ga 17:21). Hợp nhất không liên hệ gì tới việc chiếm ưu thế chiến lược dựa trên tư lợi. Đúng hơn, nó là điều Chúa đòi nơi chúng ta và là điều chính ta phải cố gắng đạt cho được bằng thiện chí, bằng cố gắng khôn nguôi và chứng tá nhất quán, chu toàn sứ mệnh của ta trong việc đem Tin Mừng đến cho thế giới.
Để thể hiện được sự hợp nhất cần thiết này, Thánh Nerses nói với ta rằng trong Giáo Hội, điều cần không phải chỉ là thiện chí của một ít người: mà mọi người cần phải cầu nguyện. Thành thử điều đẹp đẽ là chúng ta tụ họp ở đây để cầu nguyện cho nhau và với nhau. Trên hết, chính ơn phúc cầu nguyện mà tôi tới đây tối nay để xin qúy vị. Về phần tôi, tôi bảo đảm với qúy vị rằng khi dâng bánh và rượu trên bàn thờ, tôi sẽ không quên dâng lên Chúa Giáo Hội Armenia và nhân dân thân yêu của qúy vị.
Thánh Nerses nói đến việc cần phải lớn lên trong tình yêu hỗ tương, vì một mình đức ái đủ chữa lành ký ức và băng bó các vết thương. Một mình ký ức xóa nhòa mọi thiên kiến và giúp ta nhìn thấy rằng cởi mở với anh chị em ta sẽ tinh lọc và nâng cao các xác tín của ta. Đối với vị Thượng Phụ Tối Cao đã được phong thánh, hành trình tiến tới hợp nhất nhất thiết bao gồm việc bắt chước tình yêu của Chúa Kitô, Đấng, “dù giầu có” (2Cr 8:9), “đã hạ mình xuống” (Pl 2:8). Theo gương Chúa Kitô, ta được kêu gọi tìm được can đảm cần thiết để từ bỏ các ý kiến cứng ngắc và các tư lợi bản thân nhân danh mối tình từng cúi xuống và tự hiến mình, nhân danh tình yêu khiêm hạ vốn là chất dầu phước hạnh của đời sống Kitô giáo, chất dầu thiêng liêng qúy giá có khả năng chữa lành, tăng sức và thánh hóa. “Ta hãy đền bù các thiếu sót của ta trong việc sống hoà hợp và yêu thương”, Thánh Nerses viết như thế (Lettere del Signore Nerses Shnorhali, Catholicos degli Armeni, Venice, 1873, 316), và thậm chí, ngài còn gợi ý, phải có lòng dịu dàng yêu thương, một lòng yêu thương có khả năng làm dịu bất sự cứng cỏi nào trong tâm hồn các Kitô Hữu, vì cả họ nữa cũng thường chỉ biết quan tâm tới chính mình và các lợi thế của riêng mình mà thôi. Tình yêu khiêm hạ và đại lượng, chứ không phải tính toán lợi điểm, sẽ lôi kéo được lòng thương xót của Thiên Chúa, sự chúc phúc của Chúa Kitô và sự tuôn tràn của Chúa Thánh Thần. Nhờ cầu nguyện và “yêu thương nhau sâu xa từ trong tâm hồn” (xem 1Pr 1:22), một cách khiêm nhường và tinh thần cởi mở, ta mới sẵn sàng nhận lãnh ơn hợp nhất của Thiên Chúa. Ta hãy theo đuổi cuộc hành trình của ta một cách quyết tâm; quả thực, ta hãy thi đua hướng tới việc hiệp thông trọn vẹn!
“Ta ban cho chúng con sự bình an. Ta ban nó cho chúng con không như thế gian ban” (Ga 14:27). Chúng ta đã từng nghe những lời này trong Tin Mừng; chúng mời gọi ta khẩn thiết nài xin Thiên Chúa ban cho ta sự bình an đó, sự bình an mà thế giới đang lao đao cố gắng đạt cho được. Ngày nay, biết bao trở ngại tìm thấy trên con đường hòa bình, và các hậu quả của chiến tranh thật thảm khốc biết chừng nào! Tôi nghĩ tới mọi người bị cưỡng bức bỏ lại mọi sự, nhất là ở Trung Đông, nơi, quá nhiều anh chị em chúng ta chịu bạo lực và bách hại vì hận thù và tranh chấp khôn nguôi. Những cuộc tranh chấp này được cung cấp nhiên liệu bởi việc lan tràn và buôn bán vũ khí, bởi cơn cám dỗ muốn dùng vũ lực và bởi việc thiếu tôn trọng con người nhân bản, nhất là những người yếu đuối, người nghèo và những người chỉ mưu cầu một cuộc sống có phẩm giá.
Tôi cũng không thể không nghĩ tới các thử thách khủng khiếp mà dân tộc qúy vị đã kinh qua. Một thế kỷ đã vừa qua đi kể từ khi “Tai Ương Vĩ Đại” giáng xuống trên qúy vị. “Cuộc thảm sát lớn lao và vô nghĩa” này (Lời Chào Mừng, trong Thánh Lễ Cho Tín Hữu Nghi Lễ Armenia, 12 tháng Tư, 2015), màu nhiệm bi thảm của tội ác mà dân tộc qúy vị phải chịu trong thân xác họ, vẫn còn in hằn trong ký ức chúng ta và thiêu đốt tâm hồn chúng ta. Ở đây, tôi muốn tuyên bố một lần nữa rằng các đau khổ của qúy vị là các đau khổ của chúng tôi: “chúng là các đau khổ của các chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô” (Đức Gioan Phaolô II, Tông Thư nhân dịp Kỷ Niệm lần thứ 1,700 Phép Rửa của Nhân Dân Armenia, 4: Insegnamenti XXIV/1 [2001], 275). Không quên họ không những là một điều đúng mà còn là một bổn phận nữa. Ước chi họ là lời cảnh cáo muôn đời kẻo thế giới lại sa vào cơn lốc kinh hoàng tương tự một lần nữa!
Đồng thời, tôi cũng thán phục nhớ lại việc đức tin Kitô Giáo “ngay trong các giờ phút bi thảm nhất của lịch sử Armenia, đã là lực đẩy như thế nào trong việc khởi đầu cuộc hồi sinh của dân tộc đầy đau thương của qúy vị” (Đã dẫn, 276). Đó chính là sức mạnh thực sự của qúy vị, giúp qúy vị cởi mở đối với con đường Phục Sinh đầy mầu nhiệm và có tính cứu rỗi. Các vết thương vẫn còn đó, gây ra bởi hận thù dữ dằn và vô nghĩa, nhưng một cách nào đó, có thể đồng hình đồng dạng với các vết thương của Chúa Kitô phục sinh, những vết thương từng gây ra cho Người và thậm chí hiện nay Người vẫn còn mang nguyên trên thân xác Người. Người từng biểu lộ các vết thương vinh hiển này cho các môn đệ của Người vào tối ngày Phục Sinh (xem Ga 20:20). Các vết thương khủng khiếp, đau đớn chịu trên thập giá này, được tình yêu biến cải, đã trở nên nguồn suối tha thứ và bình an. Ngay nỗi đau lớn lao nhất, được biến cải bởi sức mạnh cứu rỗi của thập giá, điều mà người Armenia vốn là sứ giả và nhân chứng, cũng có thể trở thành hạt giống gieo hòa bình cho tương lai.
Ký ức, được tình yêu thấm nhiễm, có khả năng tạo ra những nẻo đường mới và bất ngờ, trên đó, các kế sách hận thù sẽ trở thành các dự án hòa giải, trên đó, hy vọng sẽ vươn lên đối với một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người, trên đó, “phúc thay những người kiến tạo hòa bình” (Mt 5:9). Tất cả chúng ta đều có lợi từ các cố gắng nhằm đặt nền cho một tương lai biết chống lại việc để mình bị cuốn hút vào quyền lực trả thù đầy tính ảo tưởng, một tương lai không ngừng cố gắng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hòa bình, như: việc làm xứng đáng cho mọi người, săn sóc những người túng thiếu nhất, và không ngừng tranh đấu loại bỏ tham nhũng.
Các bạn trẻ thân mến, tương lai này thuộc các bạn. Các bạn hãy trân qúy túi khôn vĩ đại của các bậc trưởng thượng và cố gắng làm những người kiến tạo hòa bình: không bằng lòng với hiện trạng, nhưng tích cực dấn thân vào việc xây dựng nền văn hóa gặp gỡ và hòa giải. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tương lai của qúy vị và “ban cho nhân dân Armenia và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ tiếp nối con đường hòa giải và xin cho hoà bình cũng bừng lên tại Nagorno Karabakh (Sứ Điệp Gửi Người Armenia, 12 tháng Tư, 2015).
Sau cùng, trong viễn ảnh trên, tôi muốn nhắc đến một chứng nhân vĩ đại nữa và là người kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô, Thánh Grêgôriô thành Narek, vị thánh mà tôi đã nâng lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài cũng được xác định là “Tiến Sĩ Hòa Bình”. Vì ngài đã viết trong cuốn sách phi thường mà tôi thích coi như “hiến pháp thiêng liêng của Nhân Dân Armenia” rằng: “[Lạy Chúa], xin Chúa cũng nhớ cả những người trong nhân loại là kẻ thù của chúng con nữa, và vì ích lợi của họ, xin ban cho họ sự tha thứ và thương xót… Xin Chúa đừng tiêu diệt những người bách hại chúng con, nhưng xin Chúa sửa đổi họ; xin Chúa phá tận gốc mọi con đường của sự ác trên thế gian này, và trồng cây điều tốt trong con và trong họ” (Book of Lamentations, 83, 1-2). Thánh Narek, nhờ “ý thức sâu xa việc chia sẻ mọi nhu cầu” (đã dẫn, 3, 2) nên cũng đã tìm cách đồng hóa ngài với những người yếu đuối và tội lỗi mọi thời và mọi nơi để cầu bầu cho tất cả (xem đã dẫn 31, 3; 32, 1; 47, 2). Ngài đã trở nên “người cầu bầu cho toàn thế giới” (đã dẫn, 28, 2). Tình liên đới phổ quát với nhân loại của ngài chính là sứ điệp hòa bình vĩ đại của Kitô Giáo, lời van vỉ tận đáy lòng xin sự thương xót cho mọi người. Người Armenia đang hiện diện tại rất nhiều quốc gia trên thế giới; từ nơi đây, tôi muốn được ôm hôn mọi người trong tình anh em. Tôi khích lệ tất cả qúy vị, ở mọi nơi, lên tiếng cho ước nguyện hiệp thông này, trở thành “các đại sứ của hòa bình” (Đức Gioan Phaolô II, Tông Thư nhân dịp Kỷ Niệm Lần Thứ 1,700 Phép Rửa của Nhân Dân Armenia,7: Insegnamenti XXIV/1 [2001], 278). Toàn thế giới cần sứ điệp này, nó cần sự hiện diện của qúy vị, nó cần các chứng tá tinh ròng nhất của qúy vị. Bình an cho qúy vị!
Diễn văn của Đức Karekin II
Trong nghi thức trên, Đức Tổng Thượng Phụ Karekin II đã đọc bài diễn văn sau đây do chính Tòa Thánh công bố, một điều khá đặc biệt, vì Tòa Thánh thường chỉ phổ biến các bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng mà thôi:
“Phúc thay những người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5:9)
Kính thưa Đức Thánh Cha, người anh em thân mến trong Chúa Kitô,
Kính Thưa Tổng Thống Cộng Hòa Armenia,
Kính thưa anh em thiêng liêng đầy ơn thánh và các tín hữu thân mến
Với lời ca ngợi thánh danh Thiên Chúa Tối Cao trên môi miệng, hôm nay, tại trung tâm thủ đô Yerevan này, dưới cái nhìn diễm phúc của Núi Ararat có ý nghĩa thánh kinh, chúng ta đã tụ họp nhau để cầu nguyện chung. Từ lãnh thổ của Nôê mà từ đó Thiên Chúa đã cho mọc lên cầu vồng hòa bình, chúng ta cất cao lời khẩn nguyện của chúng ta lên trời cùng với người anh em thân yêu của chúng ta trong Chúa Kitô, Đức Giáo Hoàng Phanxicô, cầu cho việc thiết lập hòa bình trên thế giới và cho cuộc sống an ninh và thịnh vượng. Chúng ta xúc động khi thấy cầu nguyện với chúng ta tại công viên này còn có các nạn nhân chiến tranh, nạn nhân khủng bố, và nạn nhân bạo lực vốn là người tị nạn từ Azerbaijan cũng như từ Syria, và Iraq. Với niềm hy vọng vào Thiên Chúa, họ đang chờ những ngày hòa bình để có thể trở về quê cha đất tổ của họ.
Thực vậy, một thập niên rưỡi trước đây, chúng ta đã chào mừng thiên niên kỷ thứ ba với niềm hy vọng rằng nó sẽ khởi đầu cho việc sống chung trong tình liên đới giữa các dân tộc và sự hợp tác tốt đẹp giữa các quốc gia để tạo ra một thế giới hòa bình và công lý. Ây thế mà, ngày nào, ta cũng nghe thấy các tin tức gây bối rối về các cuộc chiến tranh gia tăng, các hành vi khủng bố, các đau đớn khôn tả, các mất mát không thể nào thay thế được. Trẻ em, thiếu niên, phụ nữ, và người già tại nhiều nơi trên thế giới, thuộc các quốc tịch, các tôn giáo và tuyên tín khác nhau, đang trở thành nạn nhân của vũ khí giết người và bạo lực dã man, hoặc buộc phải chọn con đường tị nạn, vượt qua các khó khăn không thể nào giải thích được, mong tìm được nơi trú ẩn an toàn.
Đúng một thế kỷ trước đây, quốc gia chúng ta cũng đã phải bước cùng một con đường đó, cũng rơi vào một tình thế nguy kịch, trong đó, do cuộc Diệt Chủng Người Armenia, quốc gia chúng ta đã mất đa số lãnh thổ quê hương và sau khi chịu con số 1 triệu rưỡi tử đạo, đã chiến đấu đòi quyền hiện hữu. Cả hôm nay nữa, quốc gia chúng ta lại phải sống trong tình thế khó khăn của một cuộc chiến tranh không tuyên chiến, phải bảo vệ hoà bình ngay trong biên giới quê hương mình với một giá cao và quyền của người dân Nagorno-Karabakh được sống tự do trong nôi mẹ của mình. Các làng mạc Armenia từng bị đánh bom và tàn phá, binh sĩ bảo vệ hòa bình cũng như trẻ em đang độ đến trường bị giết và bị thương, các dân thường yêu hòa bình và không vũ trang từng bị tra tấn.
Khi đương đầu với các khó khăn này, nhân dân chúng ta vẫn có lòng tương cảm, đối với các đổ nát và mất mát đang liên tiếp diễn ra tại Cận Đông, đối với các hành vi khủng bố đã và đang diễn ra tại các thành phố lớn của Âu Châu, tại Nga, tại Hiệp Chúng Quốc, tại Á Châu và Phi Châu, và đối với các di sản tôn giáo và văn hóa đang bị phá hoại cách tàn nhẫn trong các vùng có tranh chấp. Biết bao địa điểm thánh thiêng đã bị xúc phạm và biết bao nghệ phẩm giá trị bị tiêu hủy tại Syria, Iraq, và tại các quốc gia Đông Phương và Phi Châu? Biết bao cây thập giá bằng đá đã bị tiêu hủy ở Azerbaijan? Vùi sâu dưới những hoang tàn, đau đớn vì mất mát và thiếu thốn ấy, là những giá trị và xúc cảm của linh hồn con người.
Trong những tình huống như thế, sứ mệnh của các Giáo Hội Kitô và của các nhà lãnh đạo tôn giáo không thể chỉ tự giới hạn vào việc giúp đỡ các nạn nhân, an ủi họ, và chăm sóc mục vụ cho họ. Các biện pháp thực tế hơn cần được sử dụng trên đường tìm kiếm hòa bình bằng cách củng cố các cố gắng của chúng ta nhằm ngăn chặn sự ác, bằng cách phát huy tinh thần yêu thương, liên đới và hợp tác trong các xã hội qua cuộc đối thoại đại kết và liên tôn, phù hợp với mệnh lệnh của Thiên Chúa, “phúc cho những người kiến tạo hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con cái Thiên Chúa” (Mt 5:9).
Kính thưa Đức Thánh Cha, hiển nhiên, việc phục vụ của ngài quả đang phản ảnh sự tận tụy hết lòng của ngài đối với mệnh lệnh của Thiên Chúa về hòa bình trên thế giới và hòa giải giữa các dân tộc. Một trong các chứng từ về điều này là Thánh Lễ long trọng của ngài, cử hành năm ngoái tại Vương Cung Thánh Đường Thánh Phêrô, nhân dịp một trăm năm Cuộc Diệt Chủng Armenia để tưởng niệm các nạn nhân vô tội của chúng tôi, khi, trong sứ điệp của ngài, ngài đã nói lên sự cấp thiết phải lập lại công lý và ngài đã quả quyết “Che đậy và bác bỏ tội ác là như để một vết thương cứ tiếp tục chẩy máu mà không chịu băng bó nó!”.
Năm ngoái, được hướng dẫn bởi cùng nguyên tắc trên, nhiều quốc gia và tổ chức mới, một lần dứt khoát, đã kết án cuộc Diệt Chủng Armenia, trong đó có Đức Quốc vốn là đồng minh của Thổ Nhĩ Kỳ thời Thế Chiến I; nước này trong những ngày gần đây đã nhìn nhận cuộc Diệt Chủng chống lại người Armenia.
Nhân dân chúng tôi biết ơn Đức Thánh Cha và mọi người bênh vực và bảo vệ công lý, và kỳ vọng rằng Thổ Nhĩ Kỳ, nghe theo sứ điệp của ngài và lời kêu gọi của nhiều nước cũng như nhiều định chế quốc tế, sẽ chứng tỏ đủ can đảm để giáp mặt với lịch sử, chấm dứt việc phong tỏa Armenia một cách phi pháp và ngưng hẳn việc hỗ trợ các vụ khiêu khích quân phiệt của Azerbaijan nhắm chống lại quyền của người Nagorno-Karabakh được sống trong tự do và hòa bình.
Quả thực, hoà bình sẽ không thể nào thực hiện được nếu không có công lý, mạng sống con người không thể trở thành đề tài cho các suy đoán và không thể bị làm ngơ. Như Thánh Tông Đồ nói, “Thiên Chúa không tỏ đầu óc phe phái, nhưng ở mọi quốc gia, bất cứ ai kính sợ Người và làm điều đúng đều được Người chấp nhận” (Cv 10:34-35). Chỉ có thứ công lý biết bám rễ trong việc bảo vệ các quyền lợi của các cá nhân và của các dân tộc, mới có thể trở thành nền tảng vững chắc để ngăn ngừa tội ác chống nhân loại mà thôi, và mới là con đường thành công nhất dẫn đến một giải pháp toàn diện cho cuộc tranh chấp.
Với một trái tim tha thiết, chúng ta khẩn cầu Thiên Chúa để mục tiêu trên được thực hiện, ngõ hầu Người nghe thấy lời cầu nguyện của chúng ta và khi hậu hĩnh đổ tràn các ơn của Chúa Thánh Thần xuống, Người sẽ đội triều thiên cho tình thương huynh đệ và sự hợp tác của các Giáo Hội bằng nhiều thành quả phong phú. Xin Chúa hay thương xót của chúng ta tẩy rửa thế giới khỏi các thảm kịch sự ác và ban hoà bình và che chở, và như lời tiên tri từng quả quyết, người ta sẽ rèn gươm của họ thành lưỡi cày, giáo của họ thành lưỡi liềm, nước này sẽ không tuốt gươm chống lại nước kia, cả hai không còn học chiến tranh nữa (Is 2:4).
Với những trái tim tràn đầy niềm vui thiêng liêng của cuộc gặp gỡ giữa chúng ta, vốn do Chúa nhân lành ban cho chúng ta, chúng tôi van nài Chúa Cứu Thế của chúng ta ban ơn thánh và bằng an của Người cho mọi người chúng ta, và xin kính mời ngài, người anh em thân yêu của chúng tôi trong Chúa Kitô, ban sứ điệp của ngài và ban phúc lành dư tràn của ngài cho hàng ngàn tín hữu đang tụ họp tại đây.
Diễn văn của Đức Phanxicô
Kính thưa người anh em đáng kính và thân yêu, Đức Thượng Phụ Tối Cao của mọi người Armenia,
Kính thưa Tổng Thống,
Anh chị em thân mến,
Nguyện chúc phúc lành của Thiên Chúa và hòa bình ở cùng tất cả qúy vị!
Tôi vốn rất muốn viếng thăm lãnh thổ thân yêu này, quê hương của qúy vị, trước nhất để ôm hôn đức tin Kitô Giáo. Quả là một ơn phúc đối với tôi được ở đây trên các vùng cao này, nơi, dưới bóng Núi Ararat, chính sự im lặng dường như cũng đang lên tiếng. Ở đây, các khatchkar – các thập giá bằng đá– đang thuật lại lịch sử độc đáo được bảo bọc bằng một đức tin gian khổ và đau thương vô vàn, một lịch sử đầy các chứng từ tuyệt vời đối với Tin Mừng, một lịch sử mà qúy vị là người thừa hưởng. Tôi tới đây như một người hành hương từ Rôma để hiện diện với qúy vị và để nói lên tình âu yếm tận đáy lòng tôi: tình âu yếm của người anh em của qúy vị, và cái ôm huynh đệ của toàn thể Giáo Hội Công Giáo, một Giáo Hội rất qúy mến qúy vị và gần gũi với qúy vị.
Trong mấy năm gần đây, các cuộc thăm viếng và gặp gỡ giữa các Giáo Hội chúng ta, luôn luôn thân ái và thường đáng ghi nhớ, đã gia tăng nhờ ơn Thiên Chúa. Vào ngày kính Các Thánh Tông Đồ của Chúa Kitô này, Chúa Quan Phòng muốn chúng ta gặp nhau một lần nữa để củng cố sự hiệp thông tông truyền giữa chúng ta. Tôi hết lòng cảm tạ Thiên Chúa vì “sự hợp nhất có thực chất và sâu xa” giữa các Giáo Hội chúng ta (xem Đức Gioan Phaolô II, Buổi Cử Hành Đại Kết, Yerevan, 26 tháng Chín, 2001: Insegnamenti XXIV/2 [2001], 466), và tôi cám ơn qúy vị về lòng trung thành thường có tính anh hùng của qúy vị đối với Tin Mừng, vốn là một ơn phúc vô giá đối với mọi Kitô hữu. Sự hiện diện của chúng ta ở đây không phải là một trao đổi tư tưởng, mà là trao đổi ơn phúc (xem Đã Dẫn, Ut Unum Sint, 28): chúng ta đang gặt hái những gì Chúa Thánh Thần đã gieo trong ta như ơn phúc cho nhau (xem Evangelii Gaudium, 246). Với niềm vui lớn lao, chúng ta đã cùng nhau tiến bước trên một hành trình từng đưa ta đi khá xa, và chúng ta tin tưởng mong tới ngày nhờ ơn phù trợ của Thiên Chúa, ta sẽ được hợp nhất chung quan bàn hy tế của Chúa Kitô trong sự viên mãn của hiệp thông Thánh Thể. Nhờ theo đuổi mục tiêu rất đáng ước ao này, chúng ta kết hợp với nhau trong một cuộc hành hương chung; chúng ta bước đi với nhau trong “một niềm tín thác thành thực đối với những người cùng hành hương, đặt qua một bên mọi nghi ngờ và bất tín” (đã dẫn, 244).
Trên hành trình này, chúng ta đã được đi trước và cùng được đi với nhiều chứng nhân, nhất là các vị tử đạo từng niêm ấn cho đức tin chung vào Chúa Kitô của chúng ta bằng chính máu đào của họ. Các vị là những vì sao của chúng ta ở trên trời, chiếu sáng chúng ta ở dưới thế này và chỉ đường để ta tiến tới sự hiệp thông trọn vẹn. Trong số các giáo phụ vĩ đại, tôi muốn nhắc đến Thượng Phụ Tối Cao thánh thiện Nerses Shnorhali. Ngài biểu lộ một tình yêu phi thường đối với dân của ngài và các truyền thống của họ, cũng như một quan tâm sinh động đối với các Giáo Hội khác. Không mệt mỏi tìm kiếm sự hợp nhất, ngài đã tìm cách hoàn thành ý của Chúa Kitô muốn những ai tin “sẽ trở nên một” (Ga 17:21). Hợp nhất không liên hệ gì tới việc chiếm ưu thế chiến lược dựa trên tư lợi. Đúng hơn, nó là điều Chúa đòi nơi chúng ta và là điều chính ta phải cố gắng đạt cho được bằng thiện chí, bằng cố gắng khôn nguôi và chứng tá nhất quán, chu toàn sứ mệnh của ta trong việc đem Tin Mừng đến cho thế giới.
Để thể hiện được sự hợp nhất cần thiết này, Thánh Nerses nói với ta rằng trong Giáo Hội, điều cần không phải chỉ là thiện chí của một ít người: mà mọi người cần phải cầu nguyện. Thành thử điều đẹp đẽ là chúng ta tụ họp ở đây để cầu nguyện cho nhau và với nhau. Trên hết, chính ơn phúc cầu nguyện mà tôi tới đây tối nay để xin qúy vị. Về phần tôi, tôi bảo đảm với qúy vị rằng khi dâng bánh và rượu trên bàn thờ, tôi sẽ không quên dâng lên Chúa Giáo Hội Armenia và nhân dân thân yêu của qúy vị.
Thánh Nerses nói đến việc cần phải lớn lên trong tình yêu hỗ tương, vì một mình đức ái đủ chữa lành ký ức và băng bó các vết thương. Một mình ký ức xóa nhòa mọi thiên kiến và giúp ta nhìn thấy rằng cởi mở với anh chị em ta sẽ tinh lọc và nâng cao các xác tín của ta. Đối với vị Thượng Phụ Tối Cao đã được phong thánh, hành trình tiến tới hợp nhất nhất thiết bao gồm việc bắt chước tình yêu của Chúa Kitô, Đấng, “dù giầu có” (2Cr 8:9), “đã hạ mình xuống” (Pl 2:8). Theo gương Chúa Kitô, ta được kêu gọi tìm được can đảm cần thiết để từ bỏ các ý kiến cứng ngắc và các tư lợi bản thân nhân danh mối tình từng cúi xuống và tự hiến mình, nhân danh tình yêu khiêm hạ vốn là chất dầu phước hạnh của đời sống Kitô giáo, chất dầu thiêng liêng qúy giá có khả năng chữa lành, tăng sức và thánh hóa. “Ta hãy đền bù các thiếu sót của ta trong việc sống hoà hợp và yêu thương”, Thánh Nerses viết như thế (Lettere del Signore Nerses Shnorhali, Catholicos degli Armeni, Venice, 1873, 316), và thậm chí, ngài còn gợi ý, phải có lòng dịu dàng yêu thương, một lòng yêu thương có khả năng làm dịu bất sự cứng cỏi nào trong tâm hồn các Kitô Hữu, vì cả họ nữa cũng thường chỉ biết quan tâm tới chính mình và các lợi thế của riêng mình mà thôi. Tình yêu khiêm hạ và đại lượng, chứ không phải tính toán lợi điểm, sẽ lôi kéo được lòng thương xót của Thiên Chúa, sự chúc phúc của Chúa Kitô và sự tuôn tràn của Chúa Thánh Thần. Nhờ cầu nguyện và “yêu thương nhau sâu xa từ trong tâm hồn” (xem 1Pr 1:22), một cách khiêm nhường và tinh thần cởi mở, ta mới sẵn sàng nhận lãnh ơn hợp nhất của Thiên Chúa. Ta hãy theo đuổi cuộc hành trình của ta một cách quyết tâm; quả thực, ta hãy thi đua hướng tới việc hiệp thông trọn vẹn!
“Ta ban cho chúng con sự bình an. Ta ban nó cho chúng con không như thế gian ban” (Ga 14:27). Chúng ta đã từng nghe những lời này trong Tin Mừng; chúng mời gọi ta khẩn thiết nài xin Thiên Chúa ban cho ta sự bình an đó, sự bình an mà thế giới đang lao đao cố gắng đạt cho được. Ngày nay, biết bao trở ngại tìm thấy trên con đường hòa bình, và các hậu quả của chiến tranh thật thảm khốc biết chừng nào! Tôi nghĩ tới mọi người bị cưỡng bức bỏ lại mọi sự, nhất là ở Trung Đông, nơi, quá nhiều anh chị em chúng ta chịu bạo lực và bách hại vì hận thù và tranh chấp khôn nguôi. Những cuộc tranh chấp này được cung cấp nhiên liệu bởi việc lan tràn và buôn bán vũ khí, bởi cơn cám dỗ muốn dùng vũ lực và bởi việc thiếu tôn trọng con người nhân bản, nhất là những người yếu đuối, người nghèo và những người chỉ mưu cầu một cuộc sống có phẩm giá.
Tôi cũng không thể không nghĩ tới các thử thách khủng khiếp mà dân tộc qúy vị đã kinh qua. Một thế kỷ đã vừa qua đi kể từ khi “Tai Ương Vĩ Đại” giáng xuống trên qúy vị. “Cuộc thảm sát lớn lao và vô nghĩa” này (Lời Chào Mừng, trong Thánh Lễ Cho Tín Hữu Nghi Lễ Armenia, 12 tháng Tư, 2015), màu nhiệm bi thảm của tội ác mà dân tộc qúy vị phải chịu trong thân xác họ, vẫn còn in hằn trong ký ức chúng ta và thiêu đốt tâm hồn chúng ta. Ở đây, tôi muốn tuyên bố một lần nữa rằng các đau khổ của qúy vị là các đau khổ của chúng tôi: “chúng là các đau khổ của các chi thể trong Nhiệm Thể Chúa Kitô” (Đức Gioan Phaolô II, Tông Thư nhân dịp Kỷ Niệm lần thứ 1,700 Phép Rửa của Nhân Dân Armenia, 4: Insegnamenti XXIV/1 [2001], 275). Không quên họ không những là một điều đúng mà còn là một bổn phận nữa. Ước chi họ là lời cảnh cáo muôn đời kẻo thế giới lại sa vào cơn lốc kinh hoàng tương tự một lần nữa!
Đồng thời, tôi cũng thán phục nhớ lại việc đức tin Kitô Giáo “ngay trong các giờ phút bi thảm nhất của lịch sử Armenia, đã là lực đẩy như thế nào trong việc khởi đầu cuộc hồi sinh của dân tộc đầy đau thương của qúy vị” (Đã dẫn, 276). Đó chính là sức mạnh thực sự của qúy vị, giúp qúy vị cởi mở đối với con đường Phục Sinh đầy mầu nhiệm và có tính cứu rỗi. Các vết thương vẫn còn đó, gây ra bởi hận thù dữ dằn và vô nghĩa, nhưng một cách nào đó, có thể đồng hình đồng dạng với các vết thương của Chúa Kitô phục sinh, những vết thương từng gây ra cho Người và thậm chí hiện nay Người vẫn còn mang nguyên trên thân xác Người. Người từng biểu lộ các vết thương vinh hiển này cho các môn đệ của Người vào tối ngày Phục Sinh (xem Ga 20:20). Các vết thương khủng khiếp, đau đớn chịu trên thập giá này, được tình yêu biến cải, đã trở nên nguồn suối tha thứ và bình an. Ngay nỗi đau lớn lao nhất, được biến cải bởi sức mạnh cứu rỗi của thập giá, điều mà người Armenia vốn là sứ giả và nhân chứng, cũng có thể trở thành hạt giống gieo hòa bình cho tương lai.
Ký ức, được tình yêu thấm nhiễm, có khả năng tạo ra những nẻo đường mới và bất ngờ, trên đó, các kế sách hận thù sẽ trở thành các dự án hòa giải, trên đó, hy vọng sẽ vươn lên đối với một tương lai tốt đẹp hơn cho mọi người, trên đó, “phúc thay những người kiến tạo hòa bình” (Mt 5:9). Tất cả chúng ta đều có lợi từ các cố gắng nhằm đặt nền cho một tương lai biết chống lại việc để mình bị cuốn hút vào quyền lực trả thù đầy tính ảo tưởng, một tương lai không ngừng cố gắng tạo ra các điều kiện thuận lợi cho hòa bình, như: việc làm xứng đáng cho mọi người, săn sóc những người túng thiếu nhất, và không ngừng tranh đấu loại bỏ tham nhũng.
Các bạn trẻ thân mến, tương lai này thuộc các bạn. Các bạn hãy trân qúy túi khôn vĩ đại của các bậc trưởng thượng và cố gắng làm những người kiến tạo hòa bình: không bằng lòng với hiện trạng, nhưng tích cực dấn thân vào việc xây dựng nền văn hóa gặp gỡ và hòa giải. Xin Thiên Chúa chúc lành cho tương lai của qúy vị và “ban cho nhân dân Armenia và nhân dân Thổ Nhĩ Kỳ tiếp nối con đường hòa giải và xin cho hoà bình cũng bừng lên tại Nagorno Karabakh (Sứ Điệp Gửi Người Armenia, 12 tháng Tư, 2015).
Sau cùng, trong viễn ảnh trên, tôi muốn nhắc đến một chứng nhân vĩ đại nữa và là người kiến tạo hòa bình của Chúa Kitô, Thánh Grêgôriô thành Narek, vị thánh mà tôi đã nâng lên hàng Tiến Sĩ Hội Thánh. Ngài cũng được xác định là “Tiến Sĩ Hòa Bình”. Vì ngài đã viết trong cuốn sách phi thường mà tôi thích coi như “hiến pháp thiêng liêng của Nhân Dân Armenia” rằng: “[Lạy Chúa], xin Chúa cũng nhớ cả những người trong nhân loại là kẻ thù của chúng con nữa, và vì ích lợi của họ, xin ban cho họ sự tha thứ và thương xót… Xin Chúa đừng tiêu diệt những người bách hại chúng con, nhưng xin Chúa sửa đổi họ; xin Chúa phá tận gốc mọi con đường của sự ác trên thế gian này, và trồng cây điều tốt trong con và trong họ” (Book of Lamentations, 83, 1-2). Thánh Narek, nhờ “ý thức sâu xa việc chia sẻ mọi nhu cầu” (đã dẫn, 3, 2) nên cũng đã tìm cách đồng hóa ngài với những người yếu đuối và tội lỗi mọi thời và mọi nơi để cầu bầu cho tất cả (xem đã dẫn 31, 3; 32, 1; 47, 2). Ngài đã trở nên “người cầu bầu cho toàn thế giới” (đã dẫn, 28, 2). Tình liên đới phổ quát với nhân loại của ngài chính là sứ điệp hòa bình vĩ đại của Kitô Giáo, lời van vỉ tận đáy lòng xin sự thương xót cho mọi người. Người Armenia đang hiện diện tại rất nhiều quốc gia trên thế giới; từ nơi đây, tôi muốn được ôm hôn mọi người trong tình anh em. Tôi khích lệ tất cả qúy vị, ở mọi nơi, lên tiếng cho ước nguyện hiệp thông này, trở thành “các đại sứ của hòa bình” (Đức Gioan Phaolô II, Tông Thư nhân dịp Kỷ Niệm Lần Thứ 1,700 Phép Rửa của Nhân Dân Armenia,7: Insegnamenti XXIV/1 [2001], 278). Toàn thế giới cần sứ điệp này, nó cần sự hiện diện của qúy vị, nó cần các chứng tá tinh ròng nhất của qúy vị. Bình an cho qúy vị!