Lợi ích của cây Vả được dân Israel nhận biết từ ngàn xưa. Vả là loại cây quý và phổ thông trong đại chúng. Quí vì trái Vả không những là nguồn thực phẩm tốt, giầu chất dinh dưỡng mà còn là nguồn lợi kinh tế quan trọng. Chúng là biểu tượng giầu sang của gia đình, bảo đảm an toàn nền kinh tế quốc gia. Vả quan trọng đến độ có chỗ đứng trong ca dao, tục ngữ. Những câu như ‘an toàn dưới gốc Vả’ là câu nói diễn tả tâm tư bình an, đời sống ổn định và tương lai tươi sáng (1 Các Vua 5,5). Câu khác như ‘Mật Vả từ sỏi đá’ (Deut 32,13), hay ‘Mật Vả từ đỉnh non (Thánh Vịnh 81,17) đều là những câu diễn tả lợi ích kinh tế của cây Vả. Miền Đất Hứa chảy sữa và mật ong cũng có dính dáng đến chất mật của cây Vả. Vả mau chóng thích ứng với khí hậu, thời tiết. Vả có thể mọc nơi khô cằn, sỏi đá hay xanh tươi nơi vùng đất gần sông suối.

Các nhà khảo cổ học tìm thấy Vả khô khi họ tìm kiếm di tích thời tiền sử. Điều này cho thấy Vả được xử dụng vào danh sách thực phẩm của nhân loại hàng ngàn năm trước Công Nguyên. Vào mùa đông lá cây rụng sạch, còn trơ lại cành trơ trụi và cuối mùa đông; thu chưa đến cành bắt đầu đâm hoa và trái trước khi lá non bắt đầu xuất hiện. Vì thế khi cây Vả có lá xum xuê cũng là lúc trái của chúng trưởng thành, trái chín đầy mật ngọt (Mica7,1). Trái Vả phơi khô nguyên trái hay bổ ra phơi để dùng vào lúc trái mùa. Vả được dùng trong y khoa, nhưng thông dụng và tiện lợi dùng làm thực phẩm khi phải đi xa và chúng có chứa nhiều chất đường mật, khô quánh, gọn, nhẹ, dễ di chuyển lại lâu hư. Vải khô có thể để từ năm này qua năm khác mà không mất phẩm chất tuyệt hảo của Vả.

Trong Cựu Ước cây Vả được nhắc đến lần đầu là sau khi ông bà Adong Eva phạm tội, biết mình trần truồng lấy lá Vả che thân Gen3,7. Đất Hứa chảy sữa và mật ong diễn tả trong Dt 8,8. Dưới thời vua Solomon thường có câu ‘Judah và Israel an bình, mọi người ngồi gốc Vả, gốc nho’ nói lên cảnh thanh bình, hoan lạc (1Kg 4,25. Abigail mang hai trăm tấm bánh Vả cho vua David 1 Sam 25,18. Trong Tân Ước Đức Kitô cũng dùng dụ ngôn cây và tiên báo về thời tiết. Khi thấy lá Vả xum xuê bắt đầu chuyền mầu vàng đậm đó chính là mùa hạ đang đến Mat 24,32.

Đức Kitô và các môn đệ từ xa nhìn thấy cây Vả tươi tốt nhưng khi đến gần cây đó lại không có trái và vì thế Ngài quở mắng cây Vả không sinh trái. Bởi cây có lá tươi tốt theo đúng luật tự nhiên chúng phải có trái chín nhưng cây này lại không có trái. Đây không phải là một lần. Ba năm liền cây đều không sinh trái. Ba năm sống ngược với luật tự nhiên của loài Vả. Người làm vườn không mang ra được câu giải thích chỉ xin chủ cho thêm thời gian, thêm một năm chăm sóc hy vọng cây sinh trái tốt, nếu không thì đành chấp nhận đốn cây. Thông thường cây Vả có lá tươi tốt thì có quả nhưng trường hợp này lại bất thường, ngoại lệ đến nhiều năm. Phải chăng dụ ngôn muốn nói đến những người tự nhận mình là Kitô hữu bên ngoài xem ra đạo đức nhưng trong tâm không sinh hoa trái tốt. Hoa trái của Kitô hữu là việc bố thí, bác ái, yêu thương người khốn cùng, nghèo khổ. Nếu chỉ nói về bác ái mà thiếu thực hành có khác chi cây Vả có lá mà không hoa, không trái và Đức Kitô quở mắng cây đó. Cây Vả không sinh trái ba năm liền chưa bị đốn bỏ. Con người còn quí hơn cây Vả biết bao. Chủ vườn chắc chắn kiên nhẫn với con người hơn với loài thảo mộc. Tuy nhiên kiên nhẫn nào cũng có giới hạn vì thế con người cần xét lại cách sống, cách xử thế với đồng loại, cách đáp lại tình yêu của Thiên Chúa. Lạm dụng tình yêu là điều cần tránh hết khả năng.

Kitô hữu xét lại cách sống, cách bố thí, tránh trường hợp cho người ăn bánh vẽ vì đó không phải là hành động bác ái.

Lm Vũđình Tường
TiengChuong.org