Tại Đền Các Thánh Tử Đạo Haemi
Chúa Nhật ngày 17 tháng 8 năm 2014
Trong chuyến Tông Du Hàn Quốc nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu
Tôi muốn gửi đến các hiền huynh lời chào huynh đệ và thân ái trong Chúa khi chúng ta họp nhau ở nơi linh thiêng này, là nơi mà rất nhiều Kitô hữu đã hy sinh mạng sống của mình vì trung thành với Đức Kitô. Tôi được cho biết rằng có nhiều vị tử đạo vô danh, vì chúng ta không biết tất cả tên của các ngài: đó là các vị thánh vô danh. Nhưng điều này làm cho tôi nghĩ đến quá nhiều người, quá nhiều Kitô hữu thánh trong các hội thánh của chúng ta: các trẻ em, các người trẻ, đàn ông, phụ nữ, người già... rất nhiều người! Chúng ta không biết tên họ, nhưng họ là thánh. Thật tốt cho chúng ta khi nghĩ đến những người dân bình thường đang kiên trì sống cuộc đời Kitô hữu của họ; chỉ có Chúa mới nhận ra sự thánh thiện của họ. Chứng từ của họ trong đức ái đã mang lại ân sủng và phúc lành không những chỉ cho Hội Thánh tại Hàn Quốc mà còn vượt ra ngoài biên giới: chớ gì lời cầu nguyện của họ có thể giúp chúng ta trở thành những mục tử trung thành của các linh hồn được trao pháo cho chúng ta chăm sóc. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Gracias vì những lời chào đón thân ái của ngài và công việc của Liên Hội đồng Giám mục Á châu trong việc nuôi dưỡng tình đoàn kết và thúc đẩy hoạt động mục vụ hữu hiệu trong các Hội Thánh địa phương.
Trên lục địa rộng lớn này, trong đó có những nền văn hóa lớn khác biệt nhau, Hội Thánh được mời gọi trở nên tháo vát và sáng tạo trong việc làm chứng cho Tin Mừng của mình bằng cách đối thoại và cởi mở với tất cả mọi người. Đây là thách đố của các hiền huynh! Thực ra, đối thoại là một phần thiết yếu của sứ vụ của Hội Thánh tại Á châu (x Ecclesia in Asia, 29). Tuy nhiên, trong việc thực hiện con đường đối thoại với những cá nhân và các nền văn hóa, đâu là điểm khởi hành và điểm quy chiếu cơ bản của chúng ta, là những điều hướng dẫn chúng ta đi đến cùng đích của mình? Chắc chắn nó phải là căn tính riêng của chúng ta, căn tính của chúng ta như những Kitô hữu. Chúng ta không thể tham gia vào cuộc đối thoại thật sự trừ khi chúng ta ý thức về căn tính riêng của mình. Chúng ta không thể đối thoại, chúng ta không thể bắt đầu đối thoại từ nhưng không, từ con số không, từ một cảm giác mờ hồ về căn tính của chúng ta. Đằng khác, cũng không có thể đối thoại đích thực nếu chúng ta không có khả năng mở trí khôn và tâm hồn của của mình ra, trong sự cảm thông và đón nhận chân thành, với những người mà chúng ta đối thoại. Đó là một sự chú ý, và trong sự chú ý mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Như thế, một thức rõ ràng về căn tính riêng của mình và một khả năng cảm thông chính là khởi điểm của tất cả mọi cuộc đối thoại. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với những người khác một cách tự do, cởi mở và có hiệu quả, chúng ta phải biết rõ mình là ai, những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, và những gì Ngài muốn nơi mình. Và nếu không muốn việc truyền thông của mình thành một cuộc độc thoại, thì tâm hồn và trí khôn của chúng ta phải mở ra để chấp nhận những cá nhân và những nền văn hóa khác. Đừng sợ, vì sợ hãi là kẻ thù của những cởi mở này.
Tuy nhiên, công tác biết rõ và diễn tả căn tính của chúng ta không phải luôn luôn dễ dàng bởi vì – là những người tội lỗi - chúng ta sẽ luôn luôn bị cám dỗ bởi tinh thần thế gian, tinh thần này được bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Trong đó tôi muốn vạch ra ba cách. Một là ánh sáng lừa đảo của thuyết tương đối, là điều che lấp sự rạng ngời của chân lý và lay chuyển vùng đất dưới chân chúng ta, kéo chúng ta về phía những bãi cát lún, cát lầy của mơ hồ và thất vọng. Đó là một cám dỗ mà hiện nay cũng ảnh hưởng đến cộng đồng Kitô hữu, khiến người ta quên rằng “đàng sau tất cả mọi thay đổi có nhiều thực tại không hề thay đổi; chúng có nền tảng chung quyết nơi Đức Kitô, là Đấng trước sau như một: ngày hôm qua, hôm nay, và mãi mãi” (Gaudium et Spes, 10; xem Dt 13: 8). Ở đây tôi không nói về thuyết tương đối chỉ đơn thuần là một hệ thống tư tưởng, nhưng về thuyết tương đối thực tế hàng ngày, là điều hầu như chúng ta không thể cảm thấy, nhưng làm yếu đi căn tính của chúng ta.
Một cách thứ nhì, trong đó thế giới đe dọa sự vững chắc của căn tính Kitô hữu của chúng ta là sự nông cạn: khuynh hướng chạy theo những mốt mới nhất, những tiện nghi và những trò tiêu khiển, thay vì tham gia vào những điều thực sự quan trọng (x Phil 1: 10). Trong một nền văn hóa tôn vinh sự phù du, và cung cấp rất nhiều nơi để tránh né và thoát ly thực tại, điều này tạo ra một vấn đề mục vụ nghiêm trọng. Đối với các thừa tác viên của Hội Thánh, vẻ bề ngoài này cũng có thể thấy trong việc mê mẩn với các chương trình và lý thuyết mục vụ, đến nỗi không còn thì giờ để trực tiếp gặp gỡ một cách có hiệu quả với tín hữu của mình, và cả với những người không phải tín hữu, đặc biệt là giới trẻ, là những người cần được học một giáo lý vững chắc và hướng dẫn tinh thần chắc chắn. Nếu không có một nền tảng nơi Đức Kitô, những chân lý mà chúng ta sống trong cuộc đởi có thể dần dần bị rạn nứt, việc thực hành các nhân đức có thể trở thành hình thức, và đối thoại có thể bị giảm xuống thành một thể thức thương lượng, hay thỏa thuận, hoặc bất đồng. Thỏa thuận về những bất đồng ... bởi mặt nước không lay động ... Sự hời hợt này gây thiệt hại lớn cho chúng ta.
Rồi đến cám dỗ thứ ba: đó vẻ an toàn nấp sau những câu trả lời dễ dàng, những công thức, luật lệ và quy tắc có sẵn. Chúa Giêsu đã đụng chạm với những người nấp đàng sau những luật lệ, quy tắc và những câu trả lời dễ dàng ... Ngài đã gọi họ là những kẻ đạo đức giả. Đức tin, tự bản chất, không đặt trọng tâm vào mình, nhưng có khuynh hướng “đi ra ngoài”. Nó tìm cách cho người ta hiểu nó; nó phát sinh ra chứng từ; nó tạo ra sứ vụ. Theo nghĩa này, đức tin cho phép chúng ta vừa can đảm vừa khiêm tốn trong việc làm chứng cho niềm hy vọng và tình yêu của mình. Thánh Phêrô khuyên chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng để trả lời cho tất cả những ai thắc mắc về lý do của niềm hy vọng nơi mình (xem 1 Pr 3:15). Căn tính của chúng ta là Kitô hữu cuối cùng hệ tại quyết tâm thờ phượng một mình Thiên Chúa, yêu thương nhau, phục vụ lẫn nhau, và chứng tỏ bằng gương lành của mình, không những chỉ những gì mình tin, mà cả những gì mình hy vọng, và Một Đấng mà nơi Ngài chúng ta đặt hết niềm tin của mình (x 2 Tim 1:12).
Tóm lại, chính đức tin sống động vào Đức Kitô là căn tính sâu đặm nhất của chúng ta, nghĩa là được ăn rễ sâu nơi Chúa. Nếu chúng ta có điều này, mọi điều khác chỉ là thứ yếu. Chính từ căn tính sâu xa này - đức tin sống động trong Đức Kitô mà trong đó chúng ta được bén rễ, từ thực tại sâu sắc này, mà cuộc đối thoại của chúng ta bắt đầu, và đây là điều chúng ta được yêu cầu chia sẻ một cách chân thành, trung thực, không quá cả tin, qua việc đối thoại trong đời sống hằng ngày, cuộc đối thoại của đức ái, và trong tất cả những cơ hội chính thức hơn có thể xảy ra. Bởi vì Đức Kitô là sự sống của chúng ta (x. Pl 1:21), chúng ta nói chuyện về Người và bắt đầu từ Người một cách dễ dàng mà không do dự hay sợ hãi. Sự đơn giản của Lời Người trở thánh hiển nhiên trong sự đơn giản của đời sống chúng ta, trong sự đơn giản của việc truyền thông của chúng ta, trong sự đơn giản của việc phục vụ yêu thương dành cho anh chị em của chúng ta.
Giờ đây tôi muốn nhắc đến một yếu tố khác của căn tính Kitô hữu của chúng ta: Đó là hoa quả. Bởi vì được liên tục sinh ra và nuôi dưỡng bằng ân sủng của cuộc đối thoại với Chúa và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nó mang lại hoa quả của công lý, sự tốt lành và bình an. Vậy cho phép tôi hỏi quý hiền huynh về những hoa quả mà căn tính Kitô hữu đang mang lại trong cuộc sống của quý hiền huynh và trong cuộc sống của các cộng đồng được ủy thác cho quý hiền huynh coi sóc. Liệu căn tính Kitô hữu của Hội Thánh địa phương của quý hiền huynh có được thấy rõ ràng trong các chương trình dạy giáo lý và mục vụ giới trẻ, trong việc phục vụ người nghèo và những người bị loại ra ngoài lề cái xã hội thịnh vượng của chúng ta, và trong nỗ lực nuôi dưỡng ơn gọi linh mục và đời sống tu trì của quý hiền huynh không? Liệu nó có biểu lộ trong việc sinh hoa trái này không? Đây là một câu hỏi tôi đề ra để mỗi hiền huynh suy nghĩ.
Cuối cùng, với một ý thức rõ ràng về căn tính Kitô hữu của chúng ta, cuộc đối thoại đích thực cũng đòi hỏi một khả năng cảm thông. Bởi vì nếu muốn có đối thoại thì phải có sự cảm thông này. Thách đố của chúng ta không phải chỉ là nghe những lời người khác nói, nhưng nắm bắt được sự truyền thông không bằng lời nói về những kinh nghiệm, những hy vọng và nguyện vọng của họ, những khó khăn và những mối quan tâm sâu xa nhất của họ. Sự cảm thông này phải là kết quả của cái nhìn tâm linh và kinh nghiệm cá nhân của chúng ta, đưa chúng ta đến việc nhìn thấy những người khác như anh chị em, và “nghe thấy” những gì trái tim của họ muốn truyền thông qua và vượt qua những lời nói và hành động của họ. Theo nghĩa này, cuộc đối thoại đòi hỏi một tinh thần “chiêm niệm” thực sự: tinh thần chiêm niệm cởi mở và đón nhận người khác. Tôi không thể đối thoại nếu tôi đóng cửa lòng đối với những người khác. Cởi mở? Thậm chí nhiều hơn: đón nhận! Xin mời bạn đến nhà tôi, vào tim tôi. Trái tim tôi chào đón bạn. Nó muốn nghe bạn. Khả năng cảm thông này làm cho chúng ta có thể có một cuộc đối thoại thực sự con người, trong đó những lời nói, những tư tưởng và câu hỏi phát sinh từ kinh nghiệm của tình huynh đệ và nhân bản được chia sẻ. Nếu chúng ta muốn đi đến nền tảng thần học của điều này, chúng ta hãy đi về cùng Chúa Cha: Ngài đã dựng nên tất cả chúng ta; tất cả chúng ta là con cái của cùng một Cha. Khả năng cảm thông này dẫn đến một cuộc gặp gỡ chân chính - chúng ta phải đi vào nền văn hóa gặp gỡ này - trong đó quả tim nói với quả tim. Chúng ta được phong phú hoá nhờ sự khôn ngoan của người khác và trở nên cởi mở để đi dọc theo con đường hiểu biết, huynh đệ và đoàn kết sâu xa hơn. “Nhưng, hiền huynh Giáo Hoàng, đây là những gì chúng tôi đang làm, nhưng có lẽ chúng tôi không làm cho ai trở lại đạo hoặc rất ít người ...” Đồng thời quý hiền huynh làm điều này: với căn tính của quý hiền huynh, quý hiền huynh đang nghe những người khác. Mệnh lệnh đầu tiên của Thiên Chúa Cha ban cho ông Abraham, tổ phụ chúng ta, là gì? “Hãy đi trong sự hiện diện của Ta và hãy sống hoàn thiện.” Và như vậy, với căn tính của tôi cùng sự cảm thông và cởi mở của tôi, tôi bước đi với người khác. Tôi không cố gắng kéo họ về phía tôi, tôi không bắt họ cải đạo. Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nói với chúng ta một cách rõ ràng: “Hội Thánh không phát triển bằng cách bắt người khác cải đạo, nhưng bằng cách thu hút.” Đồng thời, chúng ta hãy bước đi trong sự hiện diện của Chúa Cha, chúng ta hãy sống hoàn thiện: chúng ta hãy làm tròn mệnh lệnh thứ nhất này. Và sẽ có cuộc gặp gỡ, đối thoại. Với căn tính, với sự cởi mở. Đó là một con đường hiểu biết, huynh đệ và đoàn kết sâu xa hơn. Như Thánh Gioan Phaolô II đã ghi nhận một cách chính xác, việc dấn thân đối thoại của chúng ta dựa trên luận lý của việc Nhập Thể: trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở thành một người trong chúng ta, đã chia sẻ sự sống của chúng ta và đã nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của chúng ta (x. Ecclesia in Asia , 29). Trong tinh thần cởi mở với những người khác này, tôi tha thiết hy vọng rằng các quốc gia của châu lục của quý hiền huynh mà Tòa Thánh vẫn chưa có một mối quan hệ đầy đủ, sẽ không ngần ngại cổ võ một cuộc đối thoại vì lợi ích của tất cả mọi người. Tôi không chỉ đề cập đến đối thoại chính trị, nhưng đối thoại huynh đệ ... “Nhưng các Kitô hữu này không như những kẻ đi chinh phục, không đến để lấy đi căn tính của chúng ta: họ mang lại cho chúng ta căn tính riêng của họ, nhưng họ muốn cùng bước đi với chúng ta.” Và Chúa sẽ ban ân sủng của Người: có khi Người sẽ đánh động các tâm hồn, và một ít sẽ xin được rửa tội, có khi không. Nhưng chúng ta luôn luôn đi cùng nhau. Đây là điểm then chốt của cuộc đối thoại.
Quý hiền huynh thân mến, cảm ơn quý hiền huynh vì sự chào đón nồng hậu và huynh đệ của quý hiền huynh. Khi chúng ta nhìn ra lục địa châu Á vĩ đại, với những vùng đất rộng lớn, những nền văn hóa và truyền thống cổ đại của nó, chúng ta nhận thức được rằng, trong kế hoạch của Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu của quý hiền huynh thực sự là một pusillus grex, một đàn chiên nhỏ bé, nhưng dù sao cũng được uỷ thác sứ vụ mang ánh sáng Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Một hạt cải thật! Một hạt giống rất nhỏ... Nguyện xin Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng biết và yêu thương từng con chiên của mình, hướng dẫn và củng cố những nỗ lực của quý hiền huynh để kết hợp họ với Người và với tất cả các phần tử trong đàn chiên của Người trên toàn thế giới. Giờ đây, chúng ta hãy cùng nhau phó thác các Hội Thánh của quý hiền huynh, và lục địa châu Á, cho Đức Mẹ, để Mẹ là Mẹ chúng ta, có thể dạy chúng ta những gì chỉ một người mẹ mới có thể dạy được: chúng ta là ai, tên chúng ta là gì, và làm thế nào để cùng đi với những người khác trong cuộc sống. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cùng Đức Mẹ.
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2014/august/documents/papa-francesco_20140817_corea-vescovi-asia.html
http://giaoly.org/vn/
Chúa Nhật ngày 17 tháng 8 năm 2014
Trong chuyến Tông Du Hàn Quốc nhân dịp Ngày Giới Trẻ Á Châu
Tôi muốn gửi đến các hiền huynh lời chào huynh đệ và thân ái trong Chúa khi chúng ta họp nhau ở nơi linh thiêng này, là nơi mà rất nhiều Kitô hữu đã hy sinh mạng sống của mình vì trung thành với Đức Kitô. Tôi được cho biết rằng có nhiều vị tử đạo vô danh, vì chúng ta không biết tất cả tên của các ngài: đó là các vị thánh vô danh. Nhưng điều này làm cho tôi nghĩ đến quá nhiều người, quá nhiều Kitô hữu thánh trong các hội thánh của chúng ta: các trẻ em, các người trẻ, đàn ông, phụ nữ, người già... rất nhiều người! Chúng ta không biết tên họ, nhưng họ là thánh. Thật tốt cho chúng ta khi nghĩ đến những người dân bình thường đang kiên trì sống cuộc đời Kitô hữu của họ; chỉ có Chúa mới nhận ra sự thánh thiện của họ. Chứng từ của họ trong đức ái đã mang lại ân sủng và phúc lành không những chỉ cho Hội Thánh tại Hàn Quốc mà còn vượt ra ngoài biên giới: chớ gì lời cầu nguyện của họ có thể giúp chúng ta trở thành những mục tử trung thành của các linh hồn được trao pháo cho chúng ta chăm sóc. Tôi cám ơn Đức Hồng Y Gracias vì những lời chào đón thân ái của ngài và công việc của Liên Hội đồng Giám mục Á châu trong việc nuôi dưỡng tình đoàn kết và thúc đẩy hoạt động mục vụ hữu hiệu trong các Hội Thánh địa phương.
Trên lục địa rộng lớn này, trong đó có những nền văn hóa lớn khác biệt nhau, Hội Thánh được mời gọi trở nên tháo vát và sáng tạo trong việc làm chứng cho Tin Mừng của mình bằng cách đối thoại và cởi mở với tất cả mọi người. Đây là thách đố của các hiền huynh! Thực ra, đối thoại là một phần thiết yếu của sứ vụ của Hội Thánh tại Á châu (x Ecclesia in Asia, 29). Tuy nhiên, trong việc thực hiện con đường đối thoại với những cá nhân và các nền văn hóa, đâu là điểm khởi hành và điểm quy chiếu cơ bản của chúng ta, là những điều hướng dẫn chúng ta đi đến cùng đích của mình? Chắc chắn nó phải là căn tính riêng của chúng ta, căn tính của chúng ta như những Kitô hữu. Chúng ta không thể tham gia vào cuộc đối thoại thật sự trừ khi chúng ta ý thức về căn tính riêng của mình. Chúng ta không thể đối thoại, chúng ta không thể bắt đầu đối thoại từ nhưng không, từ con số không, từ một cảm giác mờ hồ về căn tính của chúng ta. Đằng khác, cũng không có thể đối thoại đích thực nếu chúng ta không có khả năng mở trí khôn và tâm hồn của của mình ra, trong sự cảm thông và đón nhận chân thành, với những người mà chúng ta đối thoại. Đó là một sự chú ý, và trong sự chú ý mà Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta. Như thế, một thức rõ ràng về căn tính riêng của mình và một khả năng cảm thông chính là khởi điểm của tất cả mọi cuộc đối thoại. Nếu chúng ta muốn nói chuyện với những người khác một cách tự do, cởi mở và có hiệu quả, chúng ta phải biết rõ mình là ai, những gì Thiên Chúa đã làm cho mình, và những gì Ngài muốn nơi mình. Và nếu không muốn việc truyền thông của mình thành một cuộc độc thoại, thì tâm hồn và trí khôn của chúng ta phải mở ra để chấp nhận những cá nhân và những nền văn hóa khác. Đừng sợ, vì sợ hãi là kẻ thù của những cởi mở này.
Tuy nhiên, công tác biết rõ và diễn tả căn tính của chúng ta không phải luôn luôn dễ dàng bởi vì – là những người tội lỗi - chúng ta sẽ luôn luôn bị cám dỗ bởi tinh thần thế gian, tinh thần này được bày tỏ bằng nhiều cách khác nhau. Trong đó tôi muốn vạch ra ba cách. Một là ánh sáng lừa đảo của thuyết tương đối, là điều che lấp sự rạng ngời của chân lý và lay chuyển vùng đất dưới chân chúng ta, kéo chúng ta về phía những bãi cát lún, cát lầy của mơ hồ và thất vọng. Đó là một cám dỗ mà hiện nay cũng ảnh hưởng đến cộng đồng Kitô hữu, khiến người ta quên rằng “đàng sau tất cả mọi thay đổi có nhiều thực tại không hề thay đổi; chúng có nền tảng chung quyết nơi Đức Kitô, là Đấng trước sau như một: ngày hôm qua, hôm nay, và mãi mãi” (Gaudium et Spes, 10; xem Dt 13: 8). Ở đây tôi không nói về thuyết tương đối chỉ đơn thuần là một hệ thống tư tưởng, nhưng về thuyết tương đối thực tế hàng ngày, là điều hầu như chúng ta không thể cảm thấy, nhưng làm yếu đi căn tính của chúng ta.
Một cách thứ nhì, trong đó thế giới đe dọa sự vững chắc của căn tính Kitô hữu của chúng ta là sự nông cạn: khuynh hướng chạy theo những mốt mới nhất, những tiện nghi và những trò tiêu khiển, thay vì tham gia vào những điều thực sự quan trọng (x Phil 1: 10). Trong một nền văn hóa tôn vinh sự phù du, và cung cấp rất nhiều nơi để tránh né và thoát ly thực tại, điều này tạo ra một vấn đề mục vụ nghiêm trọng. Đối với các thừa tác viên của Hội Thánh, vẻ bề ngoài này cũng có thể thấy trong việc mê mẩn với các chương trình và lý thuyết mục vụ, đến nỗi không còn thì giờ để trực tiếp gặp gỡ một cách có hiệu quả với tín hữu của mình, và cả với những người không phải tín hữu, đặc biệt là giới trẻ, là những người cần được học một giáo lý vững chắc và hướng dẫn tinh thần chắc chắn. Nếu không có một nền tảng nơi Đức Kitô, những chân lý mà chúng ta sống trong cuộc đởi có thể dần dần bị rạn nứt, việc thực hành các nhân đức có thể trở thành hình thức, và đối thoại có thể bị giảm xuống thành một thể thức thương lượng, hay thỏa thuận, hoặc bất đồng. Thỏa thuận về những bất đồng ... bởi mặt nước không lay động ... Sự hời hợt này gây thiệt hại lớn cho chúng ta.
Rồi đến cám dỗ thứ ba: đó vẻ an toàn nấp sau những câu trả lời dễ dàng, những công thức, luật lệ và quy tắc có sẵn. Chúa Giêsu đã đụng chạm với những người nấp đàng sau những luật lệ, quy tắc và những câu trả lời dễ dàng ... Ngài đã gọi họ là những kẻ đạo đức giả. Đức tin, tự bản chất, không đặt trọng tâm vào mình, nhưng có khuynh hướng “đi ra ngoài”. Nó tìm cách cho người ta hiểu nó; nó phát sinh ra chứng từ; nó tạo ra sứ vụ. Theo nghĩa này, đức tin cho phép chúng ta vừa can đảm vừa khiêm tốn trong việc làm chứng cho niềm hy vọng và tình yêu của mình. Thánh Phêrô khuyên chúng ta phải luôn luôn sẵn sàng để trả lời cho tất cả những ai thắc mắc về lý do của niềm hy vọng nơi mình (xem 1 Pr 3:15). Căn tính của chúng ta là Kitô hữu cuối cùng hệ tại quyết tâm thờ phượng một mình Thiên Chúa, yêu thương nhau, phục vụ lẫn nhau, và chứng tỏ bằng gương lành của mình, không những chỉ những gì mình tin, mà cả những gì mình hy vọng, và Một Đấng mà nơi Ngài chúng ta đặt hết niềm tin của mình (x 2 Tim 1:12).
Tóm lại, chính đức tin sống động vào Đức Kitô là căn tính sâu đặm nhất của chúng ta, nghĩa là được ăn rễ sâu nơi Chúa. Nếu chúng ta có điều này, mọi điều khác chỉ là thứ yếu. Chính từ căn tính sâu xa này - đức tin sống động trong Đức Kitô mà trong đó chúng ta được bén rễ, từ thực tại sâu sắc này, mà cuộc đối thoại của chúng ta bắt đầu, và đây là điều chúng ta được yêu cầu chia sẻ một cách chân thành, trung thực, không quá cả tin, qua việc đối thoại trong đời sống hằng ngày, cuộc đối thoại của đức ái, và trong tất cả những cơ hội chính thức hơn có thể xảy ra. Bởi vì Đức Kitô là sự sống của chúng ta (x. Pl 1:21), chúng ta nói chuyện về Người và bắt đầu từ Người một cách dễ dàng mà không do dự hay sợ hãi. Sự đơn giản của Lời Người trở thánh hiển nhiên trong sự đơn giản của đời sống chúng ta, trong sự đơn giản của việc truyền thông của chúng ta, trong sự đơn giản của việc phục vụ yêu thương dành cho anh chị em của chúng ta.
Giờ đây tôi muốn nhắc đến một yếu tố khác của căn tính Kitô hữu của chúng ta: Đó là hoa quả. Bởi vì được liên tục sinh ra và nuôi dưỡng bằng ân sủng của cuộc đối thoại với Chúa và sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, nó mang lại hoa quả của công lý, sự tốt lành và bình an. Vậy cho phép tôi hỏi quý hiền huynh về những hoa quả mà căn tính Kitô hữu đang mang lại trong cuộc sống của quý hiền huynh và trong cuộc sống của các cộng đồng được ủy thác cho quý hiền huynh coi sóc. Liệu căn tính Kitô hữu của Hội Thánh địa phương của quý hiền huynh có được thấy rõ ràng trong các chương trình dạy giáo lý và mục vụ giới trẻ, trong việc phục vụ người nghèo và những người bị loại ra ngoài lề cái xã hội thịnh vượng của chúng ta, và trong nỗ lực nuôi dưỡng ơn gọi linh mục và đời sống tu trì của quý hiền huynh không? Liệu nó có biểu lộ trong việc sinh hoa trái này không? Đây là một câu hỏi tôi đề ra để mỗi hiền huynh suy nghĩ.
Cuối cùng, với một ý thức rõ ràng về căn tính Kitô hữu của chúng ta, cuộc đối thoại đích thực cũng đòi hỏi một khả năng cảm thông. Bởi vì nếu muốn có đối thoại thì phải có sự cảm thông này. Thách đố của chúng ta không phải chỉ là nghe những lời người khác nói, nhưng nắm bắt được sự truyền thông không bằng lời nói về những kinh nghiệm, những hy vọng và nguyện vọng của họ, những khó khăn và những mối quan tâm sâu xa nhất của họ. Sự cảm thông này phải là kết quả của cái nhìn tâm linh và kinh nghiệm cá nhân của chúng ta, đưa chúng ta đến việc nhìn thấy những người khác như anh chị em, và “nghe thấy” những gì trái tim của họ muốn truyền thông qua và vượt qua những lời nói và hành động của họ. Theo nghĩa này, cuộc đối thoại đòi hỏi một tinh thần “chiêm niệm” thực sự: tinh thần chiêm niệm cởi mở và đón nhận người khác. Tôi không thể đối thoại nếu tôi đóng cửa lòng đối với những người khác. Cởi mở? Thậm chí nhiều hơn: đón nhận! Xin mời bạn đến nhà tôi, vào tim tôi. Trái tim tôi chào đón bạn. Nó muốn nghe bạn. Khả năng cảm thông này làm cho chúng ta có thể có một cuộc đối thoại thực sự con người, trong đó những lời nói, những tư tưởng và câu hỏi phát sinh từ kinh nghiệm của tình huynh đệ và nhân bản được chia sẻ. Nếu chúng ta muốn đi đến nền tảng thần học của điều này, chúng ta hãy đi về cùng Chúa Cha: Ngài đã dựng nên tất cả chúng ta; tất cả chúng ta là con cái của cùng một Cha. Khả năng cảm thông này dẫn đến một cuộc gặp gỡ chân chính - chúng ta phải đi vào nền văn hóa gặp gỡ này - trong đó quả tim nói với quả tim. Chúng ta được phong phú hoá nhờ sự khôn ngoan của người khác và trở nên cởi mở để đi dọc theo con đường hiểu biết, huynh đệ và đoàn kết sâu xa hơn. “Nhưng, hiền huynh Giáo Hoàng, đây là những gì chúng tôi đang làm, nhưng có lẽ chúng tôi không làm cho ai trở lại đạo hoặc rất ít người ...” Đồng thời quý hiền huynh làm điều này: với căn tính của quý hiền huynh, quý hiền huynh đang nghe những người khác. Mệnh lệnh đầu tiên của Thiên Chúa Cha ban cho ông Abraham, tổ phụ chúng ta, là gì? “Hãy đi trong sự hiện diện của Ta và hãy sống hoàn thiện.” Và như vậy, với căn tính của tôi cùng sự cảm thông và cởi mở của tôi, tôi bước đi với người khác. Tôi không cố gắng kéo họ về phía tôi, tôi không bắt họ cải đạo. Đức Thánh Cha Bênêđictô đã nói với chúng ta một cách rõ ràng: “Hội Thánh không phát triển bằng cách bắt người khác cải đạo, nhưng bằng cách thu hút.” Đồng thời, chúng ta hãy bước đi trong sự hiện diện của Chúa Cha, chúng ta hãy sống hoàn thiện: chúng ta hãy làm tròn mệnh lệnh thứ nhất này. Và sẽ có cuộc gặp gỡ, đối thoại. Với căn tính, với sự cởi mở. Đó là một con đường hiểu biết, huynh đệ và đoàn kết sâu xa hơn. Như Thánh Gioan Phaolô II đã ghi nhận một cách chính xác, việc dấn thân đối thoại của chúng ta dựa trên luận lý của việc Nhập Thể: trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa trở thành một người trong chúng ta, đã chia sẻ sự sống của chúng ta và đã nói với chúng ta bằng ngôn ngữ của chúng ta (x. Ecclesia in Asia , 29). Trong tinh thần cởi mở với những người khác này, tôi tha thiết hy vọng rằng các quốc gia của châu lục của quý hiền huynh mà Tòa Thánh vẫn chưa có một mối quan hệ đầy đủ, sẽ không ngần ngại cổ võ một cuộc đối thoại vì lợi ích của tất cả mọi người. Tôi không chỉ đề cập đến đối thoại chính trị, nhưng đối thoại huynh đệ ... “Nhưng các Kitô hữu này không như những kẻ đi chinh phục, không đến để lấy đi căn tính của chúng ta: họ mang lại cho chúng ta căn tính riêng của họ, nhưng họ muốn cùng bước đi với chúng ta.” Và Chúa sẽ ban ân sủng của Người: có khi Người sẽ đánh động các tâm hồn, và một ít sẽ xin được rửa tội, có khi không. Nhưng chúng ta luôn luôn đi cùng nhau. Đây là điểm then chốt của cuộc đối thoại.
Quý hiền huynh thân mến, cảm ơn quý hiền huynh vì sự chào đón nồng hậu và huynh đệ của quý hiền huynh. Khi chúng ta nhìn ra lục địa châu Á vĩ đại, với những vùng đất rộng lớn, những nền văn hóa và truyền thống cổ đại của nó, chúng ta nhận thức được rằng, trong kế hoạch của Thiên Chúa, cộng đoàn Kitô hữu của quý hiền huynh thực sự là một pusillus grex, một đàn chiên nhỏ bé, nhưng dù sao cũng được uỷ thác sứ vụ mang ánh sáng Tin Mừng đến tận cùng trái đất. Một hạt cải thật! Một hạt giống rất nhỏ... Nguyện xin Vị Mục Tử Nhân Lành, Đấng biết và yêu thương từng con chiên của mình, hướng dẫn và củng cố những nỗ lực của quý hiền huynh để kết hợp họ với Người và với tất cả các phần tử trong đàn chiên của Người trên toàn thế giới. Giờ đây, chúng ta hãy cùng nhau phó thác các Hội Thánh của quý hiền huynh, và lục địa châu Á, cho Đức Mẹ, để Mẹ là Mẹ chúng ta, có thể dạy chúng ta những gì chỉ một người mẹ mới có thể dạy được: chúng ta là ai, tên chúng ta là gì, và làm thế nào để cùng đi với những người khác trong cuộc sống. Chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cùng Đức Mẹ.
Nguồn: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/speeches/2014/august/documents/papa-francesco_20140817_corea-vescovi-asia.html
http://giaoly.org/vn/