Precepts Of Charity
Giới luật bác ái, giới luật yêu thương. Là hai giới luật lớn của Mặc khải, đã được nói đến lần đầu tiên trong Luật Cũ, sau đó được Chúa Kitô khẳng định lại trong Tin Mừng. Đó là: 1. “Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn và hết sức lực ngươi"; và 2. “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Đnl 6:4-5; Lv 19:18; Mc 12:30-31). Cụm từ “hết trí khôn” được Chúa Kitô thêm vào cho lời dạy của Cựu Ước, và chính Chúa nhận xét rằng “Chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó" (Mc 12:31).
Precious Blood
Bửu huyết, Máu Châu Báu, Bảo huyết Chúa Kitô. Là máu của Chúa Kitô đang sống như là một phần đầy đủ của bản tính con người, được kết hợp với Ngôi Hai của Ba Ngôi. Được gọi là Máu Châu Báu, bởi vì, theo Đức Giáo hòang Clement VI, “giá trị của Máu Chúa Kitô, do hiệp nhất với Logos (Ngôi Lời), là quá lớn lao đến nỗi chỉ cần một giọt máu nhỏ là đủ để cứu chuộc tòan thể nhân lọai” (Unigentius Dei Filius) (Denzinger, 1025).
Precious Blood (Worship)
Lễ Máu Châu Báu. Là Máu của Chúa Giêsu Kitô được nhắc đến rõ ràng nhiều lần khác nhau trong Tân Ước. Đây là biểu tượng sống động của công cuộc Cứu Độ và của cái chết của Chúa Cứu Thế trên Thánh giá. Máu Châu báu là đối tượng việc thờ phượng, như là một phần của Nhân tính thánh thiêng, khi Nhân tính kết hiệp với Ngôi Hai của Ba Ngôi. Hơn nữa, Máu là một phần của Chúa Kitô, Đấng thực sự hiện diện trong Phép Thánh thể. Năm 1849, Đức Giáo hòang Piô IX mở rộng lễ Máu Châu Báu cho tòan thể Giáo hội, qui định mừng lễ vào Chủ nhật đầu tiên của tháng Bảy, sau đó từ năm 1914 được thánh Giáo hòang Piô X qui định mừng lễ vào ngày 1-7 hàng năm. Kể từ Công đồng chung Vatican II, lễ này được nhập chung vào lễ Corpus (Mình) Chúa Kitô, do đó lễ mới mang tên Lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô (Festum Corporis et Sanguinis Christi) và mừng vào ngày thứ Năm sau Chủ Nhật lễ Ba Ngôi. Tại một số quốc gia lễ được dời vào Chủ nhật kế tiếp, tức Chủ nhật sau Chủ Nhật Ba Ngôi.
Precious Blood, Society Of
Dòng Bửu Huyết. Là Dòng Thừa Sai Máu Châu Báu Chúa Kitô (1786-1836), được thánh Caspar del Bufalo thành lập năm 1815. Đây là dòng giáo sĩ có đời sống chung, với mục đích là cổ vũ việc tôn thờ Máu Châu Báu, giáo dục giới trẻ, truyền giáo và làm công tác mục vụ giáo xứ. Có nhiều cộng đoàn nữ tu cũng đặc biệt tôn thờ Máu Châu Báu.
Precious Blood Scapular
Áo Bửu Huyết. Là áo của phụng hội Bửu Huyết. Áo màu đỏ, và một phần mang hình ảnh của một Chén thánh được các thiên thần tôn thờ.
Preconciliar
Tiền Công đồng. Là từ ngữ dùng để mô tả thời kỳ trước Công đồng chung Vatican II. Nó thường so sánh thời kỳ này với sự phát triển của Giáo hội kể từ Công đồng trở về sau.
Preconization
Công bố bổ nhiệm giám mục, nhiệm mệnh. Là việc Đức Đức Giáo hòang công bố công khai trong Hội nghị Hồng y, long trọng xác định các bổ nhiệm trước đó cho các tòa giám mục và các chức vụ khác. Đã có thời, mọi Giám mục được Đức Giáo hòang bổ nhiệm trước khi diễn ra hội nghị như thế; tuy nhiên, ngày nay việc này không luôn xảy ra như thế. Do đó, các việc bổ nhiệm được long trọng tuyên bố trong Hội nghị Hồng y. Việc công bố bổ nhiệm, chứ không phải việc bổ nhiệm trước đó, sẽ xác định thâm niên của các Giám mục. (Từ nguyên Latinh praeconizatio, công bố; từ chữ praeco, hô vang.)
Precular
Người nhận cầu nguyện. Là một người bị ràng buộc bởi một điều kiện dâng cúng nào đó để cầu nguyện, như đã hứa hoặc đồng ý, cho ân nhân. (Từ nguyên Latinh precare, cầu nguyện.)
Precursor
Tiền hô, người đi báo trước. Là thánh Gioan Tẩy Giả, người đi trước Chúa, được cả bốn Thánh sử kể khá chi tiết, và được thân phụ là ông Zechariah (Da-ca-ri-a) mô tả trong bài ca Chúc tụng (Benedictus) “Hài Nhi hỡi, con sẽ mang tước hiệu là ngôn sứ của Đấng Tối Cao: con sẽ đi trước Chúa, mở lối cho Người" (Lc 1:76). (Từ nguyên Latinh praecursor, người đi trước.)
Predefinition
Tiền định nghĩa, tiền xác định. Là ý niệm của một vật gì trong tâm trí Chúa trước khi nó được sáng tạo. Như thế mọi linh hồn con người được cho rằng đã được tiền xác định, trước khi Chúa sáng tạo nên chúng vào lúc con người thụ thai. (Từ nguyên Latinh prae, trước + definire, dựng rào chung quanh.)
Predella
Đài bàn thờ, đế tranh tượng. Là phần bệ cao trên đó một bàn thờ được đặt. Đôi khi nó có nghĩa là phần bậc cao phía sau bàn thờ. (Từ nguyên Ý predella, bậc bàn thờ, bậc lên xuống.)
Predestinarianism
Thuyết tiền định. Là thuyết chối bỏ rằng Chúa có ý muốn cứu độ toàn nhân lọai, bởi vì Chúa chỉ muốn những người được Chúa chọn vào thiên đàng mà thôi. Trong thuyết này không hề có chỗ cho sự tự do nội tại thực sự của ý chí con người, nhưng chỉ có sự tự do ngọai tại do sự ép buộc. Ý định đời đời của Chúa sẽ tiền định vinh quang hay hình phạt cho con người. Người được chọn nhận lãnh ân sủng không thể cưỡng lại được; những người khác có sự thúc đẩy của ý chí là phạm tội, và do đó không được ban ơn cứu độ. Thuyết tiền định là trung tâm học thuyết Cải cách của Gioan Calvin. (Từ nguyên Latinh prae, trước + destinare, dự định, qui định.)
Predetermination
Tiền khiến. Còn gọi là “tiền khiến thể lý,” để giải thích cách thức quyền uy của Chúa cũng bao gồm các hành vi tự do của con người. Theo thuyết này, vốn được Dominic Bañez (1529-1604) khai triển lần đầu, sau đó được Dòng Đaminh chấp nhận, Chúa đã tiền định từ cõi đời đời rằng một số người sẽ được cứu độ. Để thực hiện việc này, Chúa ban ơn công hiệu trên những người này. Như thế Chúa tác động về thể lý đến ý chí tự do của người được chọn, và bảo đảm rằng họ sẽ quyết định một cách tự do để cộng tác với ơn Chúa ban. Do đó, ơn công hiệu, nhờ sức mạnh nội tại của nó, sẽ giúp đỡ cách chắc chắn cho người được chọn, để họ đồng ý một cách tự do làm những hành vi cứu rỗi, vốn sẽ hưởng được sự cứu độ đời đời. Như thế ơn này khác hẳn với ơn túc dụng, vốn chỉ trao sức mạnh để làm một hành vi cứu rỗi. Để làm cho khả năng này có thể biến thành hành động, một ơn mới khác nũa, gọi là ơn hữu hiệu, phải xuất hiện. Từ đời đời, Chúa đã qui định rằng ý chí con người phải đồng ý tự do với ơn hữu hiệu, qua đó Chúa mang ơn cứu độ cho những người nằm trong qui định này của Chúa.
Pre-Evangelization
Tiền Phúc Âm hóa, chuẩn bị rao giảng Phúc Âm. Là sự chuẩn bị cho một người hay cho nhiều người đón nhận Tin Mừng. Nhu cầu cho sự chuẩn bị này trong thế giới hôm nay nổi lên do người ta quá lơ là với Chúa và việc thiêng liêng. Công đồng chung Vatican II giải thích: “Khác với thời xưa, sự từ chối hoặc tránh né đề cập tới Thiên Chúa hay tôn giáo không còn là một hành vi dị thường và có tính cách cá nhân nữa, vì ngày nay, biết bao người coi đó như một đòi hỏi của tiến bộ khoa học hay của nền nhân bản mới” (Hiến chế Gaudium et Spes, 7). Qua các phương tiện truyền thông xã hội, tinh thần không tin Chúa này đã thấm vào mọi tầng lớp xã hội. Do đó cần có sự chuẩn bị cho con người biết lắng nghe Tin Mừng, đặc biệt trong các nền văn hóa Âu-Mỹ của Kitô giáo trước đây.
Preface
Kinh Tiền tụng. Là hành vi tạ ơn, mở đầu cho phụng vụ Thánh Thể. Qua kinh Tiền tụng, linh mục nhân danh dân Chúa dâng lời ca tụng ngợi khen Thiên Chúa là Cha, vì toàn bộ công cuộc cứu độ hoặc, vì các ơn đặc biệt được tưởng nhớ trong phụng vụ. (Từ nguyên Latinh praefatio, lời nói đầu; nghĩa đen là lời nói trước.)
Prefect Apostolic
Phủ dõan tông tòa, giám quản giáo phận. Một linh mục với các quyền tài phán trong một lãnh thổ truyền giáo, và vùng đất nơi chưa có hàng giáo phẩm. Lệ thuộc trực tiếp với Tòa Thánh, vị linh mục này hưởng các quyền giống như quyền của một Giám mục chính tòa, nhưng không thể ban phép truyền chức thánh. (Từ nguyên Latinh praefectus, người trông nom, người đứng đầu, giám quản.)
Prefecture Of The Pontifical Household
Văn Phòng Quản gia Giáo hòang, Văn phòng Đặc Trách Các Vấn Đề Nội Chính cho Đức Giáo Hoàng. Văn phòng này do Đức Giáo hòang Phaolô VI thành lập năm 1967, và mang tên này từ năm 1968. Văn phòng hợp nhất hai chức năng riêng rẽ trước đây của Thánh bộ Lễ Nghi, cùng hai văn phòng của Majordomo (Quản lý trưởng) và của Trưởng văn phòng Quản gia Giao hoàng (Maestro di Camera.) Dưới sự chỉ huy của Trưởng Văn phòng, Văn phòng quản lý kỷ luật của việc quản gia, tổ chức cuộc triều yết cho các nhân vật quan trọng, các cuộc tiếp kiến riêng, đặc biệt và chung, và các buổi lễ không thuần túy phụng vụ, các kỳ tĩnh tâm cho Đức Giáo hòang, các Hồng Y, và các Giám chức của Giáo triều Roma.
Prejudice
Thành kiến, thiên kiến. Trong đạo đức học, là một ý kiến được quan niệm trước, mà không quan tâm đến các yếu tố đã biết và thường dựa vào kiến thức sai lầm. Nó dẫn đến các phán đóan sai lầm, và làm cho con người bị mù trong lý luận, và khép kín với lý lẽ có sức thuyết phục. Nó thường xâm phạm lẽ công bình bởi vì người thiên kiến thường bỏ qua quyền lợi của người khác. Những người ấy quá quan tâm đến nhóm người và hội giống như mình, nên họ có thành kiến trái ngược với người khác. Thiên kiến là nền tảng chung cho phán đóan khinh xuất có tội.
Prelate
Giám chức, giáo sĩ cao cấp. Là một chức sắc có thẩm quyền ở tòa ngòai do quyền chức vụ của họ. Có các giám chức “biệt hạt” (nullius), có quyền trên giáo sĩ và giáo dân của một lãnh thổ không thuộc quyền của một giáo phận thiết định. Do đó các viện phụ, mặc dầu không phải là giám mục, có thẩm quyền của một giám chức. Các chức giám chức này đã giảm nhiều kể từ Công đồng chung Vatican II. Trong các Dòng tu miễn trừ, các bề trên giáo sĩ, như giám tỉnh, thủ viện và bề trên tu viện, chia sẻ trong quyền tài phán của giám chức. Danh tánh và tước giám chức cũng có thể trao cho linh mục, như một dấu hiệu của Giáo hòang nhìn nhận công lao to lớn phục vụ Giáo hội của các vị. (Từ nguyên Latinh praelatus, giám chức, bề trên.)
Prelate, Domestic
Giám chức thân gia. Là một linh mục được Tòa thánh tôn vinh, vì các công tác đã làm cho Giáo hội và được ghi tên vào Niên giám Tòa thánh (Annuario Pontificio) theo bậc riêng của họ, chẳng hạn Tuyên úy của Đức Thánh Cha hoặc Giám chức Danh dự của Đức Thánh Cha.
Prelate Nullius
Prelate Nullius, Giám chức biệt hạt. Là một lãnh thổ không thuộc về một giáo phận nhưng có bề trên riêng, gọi là “Giám chức biệt hạt,” và có các giáo sĩ riêng và giáo dân riêng. Nếu lãnh thổ này có một số giáo xứ, giám chức này hưởng quyền tài phán giống như quyền tài phán của một Giám mục bản quyền.
Premonstratensians
Kinh sĩ Prémontré. Là các kinh sĩ ở Prémontré, còn gọi là kinh sĩ thánh Norbert. Dòng này được thánh Norbert thành lập năm 1120 tại Prémontré, gần Laon, Pháp, được Tòa thánh phê chuẩn lần đầu năm 1126, và phê chuẩn lại năm 1617-24. Mục tiêu của Dòng nhằm vào cử hành phụng vụ long trọng, truyền giáo, mục vụ giáo xứ, và giáo dục giới trẻ. Luật Dòng dựa vào Luật thánh Âu Tinh, với một số ảnh hưởng của Xitô, và Hiến chương bao gồm một điều khổ hạnh, chẳng hạn kiêng ăn thịt.
Preparation Of The Gifts
Chuẩn bị lễ vật. Là phần dâng lễ trong Thánh lễ. Người ta đề nghị rằng các tín hữu mang lễ vật gồm bánh và rượu, được linh mục hoặc thầy phó tế nhận lấy và đặt lên bàn thờ. Trong khi làm như thế, linh mục đọc một số kinh qui định. Tiền bạc hoặc quà khác dành cho người nghèo hoặc dành cho Giáo hội có thể được các tín hữu đóng góp lại vào lúc này, và được đem tới gần bàn thờ, nhưng đặt vào một nơi thích hợp thay vì đặt trên bàn thờ. Điệp ca dâng lễ được hát lúc rước lễ vật, sau đó bàn thờ có thể được xông hương, bay lên như hương thơm trước mặt Chúa, như một biểu tượng của lời cầu nguyện và hy lễ của tín hữu. Sau đó linh mục rửa tay như một dấu hiệu ngài mong ước thanh luyện tâm hồn. Tiếp đến ngài nói lời quen thuộc Orate Fratres (Anh chị em hãy cầu nguyện), trong đó các tín hữu được mời cầu xin rằng hy lễ chung của họ sẽ làm đẹp lòng Chúa. Lời nguyện Tiến Lễ dẫn vào đỉnh cao của Thánh lễ.
Preparing For Communion
Kinh dọn mình Rước lễ. Là kinh ngắn trong Thánh lễ sau kinh Lạy Chiên Thiên Chúa (Agnus Dei), trong đó linh mục đọc riêng để dọn mình Rước lễ. Lúc này tín hữu cũng nên thinh lặng cầu nguyện dọn mình.
Presanctified, Mass Of The
Phụng vụ Rước lễ thứ sáu tuần thánh. Là Phụng vụ Thánh thể ngày thứ Sáu Tuần Thánh, trong đó linh mục và tín hữu rước Mình Thánh Chúa đã được truyền phép ngày trước đó.
Presbyter
Trưởng lão, niên trưởng, linh mục. Trong thời Giáo hội sơ khai, là thành viên của một nhóm (thường là linh mục) làm cố vấn cho Giám mục. Họ lập thành một Hội đồng cố vấn, và dưới quyển của Giám mục, họ là cơ quan quản trị cộng đòan. Vị niên trưởng này, không có các bổn phận chính thức, và thường được Giám mục ủy quyền để giảng dạy, dâng Thánh lễ, và rửa tội. Các vị thường là linh mục lớn tuổi, và cũng giống như Giám mục, được cộng đòan chọn lựa. Thứ bậc của các vị là cao hơn các phó tế, nhưng thấp hơn Giám mục. Không có qui định về số lượng các vị này.
Presbyterate
Hàng niên trưởng, chức Linh mục. Là chức Linh mục, như là bậc thứ hai của các chức thánh, cao hơn chức Phó tế nhưng thấp hơn chức Giám mục. (Từ nguyên Hi Lạp presbyteros, niên trưởng.)
Presbyteri Sacra
Thư luân lưu Presbyteri Sacra. Là thư luân lưu của Thánh bộ Giáo sĩ, giải thích chức năng của Hội đồng linh mục trong một giáo phận, hoặc trong địa hạt khác của Giáo hội. Sau khi nói rõ ràng rằng các hội đồng này chỉ có tính tham vấn, và chỉ có Giám mục quản trị giáo phận, văn kiện nêu ra nhiều cách thức mà trong đó hội đồng có thể trợ giúp cho Đấng bản quyển của giáo phận (ngày 11-4-1970).
Presbyterorum Ordinis
Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis, Sắc Lệnh của Công đồng chung Vatican II về Chức Vụ và Ðời Sống các Linh Mục. Linh mục được định nghĩa như là “những người nhờ bí tích Truyền Chức được quyền dâng thánh lễ, quyền tha tội và thực hành chức vụ linh mục nhân danh Chúa Kitô." Sứ vụ các ngài phát sinh từ chức vụ của các ngài. Đó là chia sẻ với mọi người chân lý của Tin mừng, “nhưng trong tình trạng thế giới ngày nay, lời giảng thuyết của Linh Mục thường gặp rất nhiều khó khăn.” Sự độc thân của linh mục được tái khẳng định. Sự thánh thiện của các ngài được tuyên bố là rất cần thiết và “được nuôi dưỡng bằng Ngôi Lời nơi Bàn Thánh Kinh và Bàn Thánh Thể" (ngày 7-12-1965).
Presbytery
Hội đồng cố vấn của Giám mục, Cung thánh, nhà xứ. Nguyên thủy từ này có nghĩa là một hội đồng trong các giáo phận thời kỳ đầu, để giúp đỡ giám mục quản trị giáo phận của ngài. Sau đó từ ngữ được áp dụng cho phần nhà thờ dành cho việc dâng Thánh lễ, nay gọi là cung thánh, thường chỉ dành cho các giáo sĩ khi cử hành phụng vụ, ngoại trừ người làm thừa tác viên và trong nghi lễ hôn phối. Hiện nay từ ngữ đôi khi được dùng để gọi nhà xứ hoặc nhà ở của giáo sĩ.
Prescience
Tiền thức, tiền tri. Nói chung, là sự biết trước. Đặc biệt là sự biết trước của Chúa về các sự kiện tương lai, mà sự xảy ra tùy thuộc vào ý chí tự do của các thụ tạo. Đó là các sự kiện xảy ra, nếu một số lựa chọn được thực hiện. Tiền tri cũng là sự biết trước của Chúa về các công trạng mà con người thủ đắc được, nhờ sự cộng tác cố ý với ơn Chúa. (Từ nguyên Latinh prae, trước + scientia, biết, tri thức.)
Prescribed Prayer
Lời nguyện được qui định. Là lời nguyện đặc biệt được thêm vào, do linh mục chủ tế đọc trong Thánh lễ. Lời nguyện này có thể được qui định bởi Đức Giáo hòang hay một Giám mục cho một lý do đặc biệt, chẳng hạn hạn hán, lễ vàng, lễ bạc, sự bách hại; hoặc lời nguyện có thể được Chữ đỏ qui định cho các lễ đặc biệt; hoặc có thể đã được soạn sẵn trước để hưởng các ân xá.
Presence
Hiện diện. Là việc ở gần bên một người hay một vật, hoặc thực sự hoặc hữu hiệu, hay một cách thiêng liêng. Hiện diện thật sự có nghĩa là đối tượng hiện diện thực sự và đầy đủ ở đó; hiện diện hữu hiệu có nghĩa là tạo được ảnh hưởng lên đối tượng, mặc dầu nguyên nhân của ảnh hưởng có thể ở nơi khác thật sự; hiện diện thiêng liêng là sự đáp trả nội tại cho một người, khi người kia có thể là vắng mặt về thể xác, nhưng ảnh hưởng tâm trí và ý chí của người này, vì người kia được cho là vẫn hiện diện gần bên. (Từ nguyên Latinh prae, trước + ens, hữu thể: praesens, hiện diện, dự phần vào.)
Presence Of God
Sự hiện diện của Chúa. Là sự hiện diện của Chúa hành động có lợi cho các thụ tạo. "Chúa ở trong mọi sự, trước tiên vì Chúa là nguyên nhân của họ, thứ nhì bởi vì Chúa là đối tượng họat động của họ, như được biết trong người hiểu biết và được yêu mến trong người mến yêu, và điều riêng của linh hồn, đó là sự hiện diện đặc biệt của Chúa qua ân sủng với các thụ tạo có lý trí (tức là con người), là con người biết Chúa và yêu mến Chúa thực sự hoặc thường xuyên" (Thánh Tôma Aquinas, Summa Theologica, I, VIII, 3). Nuôi dưỡng ý thức về sự hiện diện của Chúa trong linh hồn, và trong việc Chúa quan phòng mọi loài, là cần thiết cho sự tiến triển trong đời sống thiêng liêng.
Present
Hiện nay, hiện thời, bây giờ, hiện tại. Là thời điểm hiện giờ, để phân biệt với quá khứ, là thời đã qua, và tương lai, là thời sẽ tới.
Presentation
Giới thiệu, đề cử, trình xuất. Là quyền giới thiệu một giáo sĩ cho một nhà thờ trống chủ chăn hay cho một ân bổng giáo sĩ. Đây là một trong các đặc quyền của quyền bổ nhiệm, vốn có thể được trao cho những người tài trợ cho một nhà thờ hay một ân bổng giáo sĩ. Giới thiệu một giáo sĩ không có nghĩa là bổ nhiệm vị ấy vào chức vụ. Việc bổ nhiệm chỉ thuộc về một bề trên của Giáo hội, và vị này phải chấp nhận giáo sĩ được đề cử nếu người này là phù hợp theo giáo luật.
Preservation Of Life
Duy trì sự sống, bảo vệ sự sống. Là bổn phận mà mỗi người phải sử dụng ít là các phương tiện thông thường như lương thực, ngủ nghỉ, nơi ở và thuốc men cần thiết để duy trì sự sống cơ thể. Nếu sự sống của một người là đặc biệt quan trọng cho gia đình người ấy, cho Giáo hội hay xã hội, người ấy buộc sử dụng các phương tiện ngọai thường theo tỉ lệ cân xứng để duy trì sự sống.
P.R.E.S.S.
P.R.E.S.S., Praefectura Rerum Oeconomicarum Sanctae Sedis--Văn Phòng Đặc Trách Các Vấn Đề Kinh Tế của Tòa Thánh.
Prestige Motive
Động cơ uy tín, thanh thế. Là mong ước có được sự thừa nhận của bạn bè và của xã hội nói chung. Nó được các tác giả tu đức xem như là một bản năng cơ bản của con người, cần được kiểm sóat, vì là điều kiện tiên quyết cho sự thánh thiện.
Presumption
Tự phụ, tự cao tự đại. Là ước muốn đảm nhận, hoặc đang đảm nhận, điều gì vượt quá khả năng của mình. Đây là kết quả của tự phụ, vốn làm cho một người đánh giá quá cao khả năng của mình, và làm cho mình không nhìn thấy các điểm yếu của mình. Nó cũng dẫn một người hy vọng vào các ơn của Chúa, mà không làm điều gì để đạt được kết quả, và thậm chí làm điều ngược lai, và khi phạm tội, người ấy cứ nghĩ rằng mình chắc chắn có sự tha thứ của Chúa. (Từ nguyên Latinh praesumere, giả thiết, cứ cho là.)
Preternatural
Ngọai nhiên. Là điều gì vượt quá tự nhiên, nhưng chưa phải là siêu nhiên đúng nghĩa. Gọi là ngoại nhiên, hoặc bởi vì các sức mạnh tự nhiên được Chúa sử dụng để tạo ra công hiệu vượt quá khả năng bình thường, hoặc bởi vì các sức mạnh cao hơn con người, như của thiên thần hay ma quỷ, hoạt động trong thế giới của không gian và thời gian. (Từ nguyên Latinh praeter, vượt quá + natural, thiên nhiên.)
Preternatural Gifts
Ơn ngọai nhiên. Là các ơn do Chúa ban vượt quá sức mạnh hoặc khả năng của thiên nhiên, vốn tiếp nhận các ơn ấy nhưng không vượt quá khả năng của loại thụ tạo. Các ơn này làm cho thiên nhiên thêm hoàn hảo, nhưng không đem thiên nhiên vượt quá giới hạn của thiên nhiên được tạo thành. Các ơn này bao gồm ba đặc ân lớn mà con người có được—đó là tri thức được phú bẩm, vắng bóng dục vọng, và bất tử thể xác. Ông Adam và bà Eva có các ơn này trước khi Sa ngã.
Preventing Grace
Ơn dự phòng. Là ơn đi trước sự đồng ý tự do của ý chí. Nó lay động ý chí một cách tự phát, hướng ý chí về Chúa. Ơn dự phòng có thể là một tư tưởng tốt hoặc một xung năng tốt, mà không cần nỗ lực của con người, để thực hiện một số hành động dẫn về thiên đàng.
Pride Of Life
Yêu thế gian. Là xu hướng tự nhiên đến tính ích kỷ, vốn là kết quả phần nào của tội tổ tông, nhưng chủ yếu là ước vọng bí mật của con người để làm theo ý mình, ngay cả khi điều đó là trái với ý Chúa. Nó là sự thúc đẩy đi đến tự tôn thờ mình, hoặc tự thần thánh hóa mình, và là nằm ở gốc rễ của mọi tội.
Prie-Dieu
Bàn quỳ. Là một bàn quỳ được sử dụng trong nhiều nhà thờ châu Âu, và chủ yếu dùng để cầu nguyện riêng tư. Hình dáng hiện nay của nó đã xuất hiện từ thế kỷ 17. Nó giống như một bàn gỗ có một phần nghiêng phía trước để kê tay, và thường có hộc đựng sách vở nữa.
Priesthood
Bí tích Truyền chức thánh. Là bí tích của Luật Mới, được Chúa Kitô thiết lập trong Bữa Tiệc Ly, vốn ban cho một người có quyền truyền phép và dâng Mình và Máu Chúa Kitô, và có quyền tha tội hay không tha tội. Có hai bậc hoặc hai cấp của bí tích truyền chức, đó là chức Linh mục và chức Giám mục. Bình thường bí tích truyền chức nhắc đến chức linh mục và là cấp thứ hai của các chức thánh, trên chức phó tế. Chỉ có Giám mục mới truyền chức linh mục cho ứng viên được, sau khi các vị này đã được truyền chức phó tế. Trong việc truyền chức linh mục, “chất thể” của bí tích là việc Giám mục đặt tay trên từng ứng viên, vốn được làm trong thinh lặng, trước khi Giám mục đọc lời nguyện truyền chức, trong đó các lời sau đây gắn liền với bản tính của chức thánh, và do đó tạo nên tính hiệu lực của việc truyền chức: “Lạy Chúa toàn năng, chúng con nài xin Chúa ban Chức Linh Mục cho tôi tớ Chúa đây. Xin lại ban Chúa Thánh Thần thánh hóa trong lòng các Thầy. Lạy Thiên Chúa, xin ban cho các Thầy được lãnh nhận nơi Chúa Chức Phụ Tá và cho đời sống các Thầy nêu gương cải thiện phong hóa thế gian.”
Priesthood Of Christ
Chức Linh mục của Chúa Kitô. Là vai trò của Chúa Kitô như là vị được truyền chức thánh, để dâng lễ hy sinh và cầu nguyện cho loài người với Thiên Chúa Cha. Việc Chúa Kitô được truyền chức hoặc được xức dầu để làm Thầy cả Thượng phẩm diễn ra vào lúc Chúa Nhập thể, có nghĩa là khi Ngôi Lời mặc lấy xác con người trong cung lòng Đức Mẹ Maria. Trong cuộc sống ở trần gian, Chúa Kitô thực thi chức linh mục của Ngài bằng mọi hành vi của ý chí Ngài, và tại Bữa Tiệc Ly và trên đồi Canvê, Chúa Kitô hiệp nhất mọi hành vi thể xác vào hy tế tối cao dâng lên Thiên Chúa Cha. Cùng với hy tế, Chúa Kitô cũng cầu nguyện như một linh mục, nhất là khi Chúa thiết lập phép Thánh Thể và trong kinh nguyện linh mục được thánh Gioan ghi lại (17:1-26). Hơn nữa, chức linh mục của Chúa Kitô tiếp tục kéo dài vĩnh viễn trên thiên đàng, như được bộc lộ trong Thư gửi tín hữu Do Thái (Dt). Về cách thức Chúa thực thi chức linh mục đời đời của Ngài, mặc khải chỉ nói: “Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ" (Dt 7:25; Rm 8:34), vốn là một chức năng linh mục thật sự, bởi vì như thánh Phaolô khẳng định, chức này có liên quan mật thiết với hy tế Thập giá. Thật ra, chức linh mục tiếp diễn của Chúa Kitô là nền tảng trong đức tin cho sự hiện hữu và tính công hiệu của Hy tế Thánh lễ.
Priesthood Of The Faithful
Chức tư tế giáo dân. Là sự chia sẻ trong chức linh mục thượng phẩm của Chúa Kitô, mà mỗi người nhận được khi chịu phép Rửa tội, và được củng cố bởi phép Thêm sức và phép Thánh Thể. Điều cốt yếu của chức linh mục này là quyền nhận lãnh các bí tích khác, quyền tham dự vào phụng vụ Giáo hội, và được kết hiệp với Chúa Kitô Linh mục đời đời khi Chúa tự hiến mình, với các thành viên khác của Nhiệm thể, với Chúa Cha trên trời trong Hy lễ tạ ơn.
Priests' Council
Hội đồng linh mục. Còn gọi là hội đồng linh mục giáo phận. Đây là hội đồng linh mục được bầu chọn, được tổ chức để phụ giúp đấng Bản quyền của giáo phận. Các linh mục được bầu chọn theo qui chuẩn hiến pháp, và hội đồng được điều hành bởi một ban chấp hành, cùng với các ủy viên được bầu chọn. Chức năng của hội đồng linh mục không là thay thế cho Giám mục, nhưng là cố vấn cho Ngài để quản trị giáo phận một cách hữu hiệu hơn và thích hợp thoải mái hơn.
Primate
Giáo chủ. Là một Giám mục thực thi quyền bính, không chỉ trên giáo tỉnh của Ngài, mà còn trên cả lãnh thổ quốc gia. Quyền của Ngài còn mở rộng, chẳng hạn triệu tập và chủ tọa các công nghị quốc gia, xét các án phúc thẩm, và trao vương miện cho lãnh đạo quốc gia. Ngày nay chức Giáo chủ chỉ còn là chức danh dự mà thôi. Quyền của Giáo chủ không hề được thiết định bởi giáo luật.