Vai trò của người giáo dân Việt Nam dưới ánh sáng Công Đồng Vatican II

Trong môi trường xã hội Việt Nam thực tại


Như chúng ta được biết Công Đồng chung Vatican II được long trọng khai mạc vào ngày 11 tháng 10 Năm 1962 và bế mạc ngày 8 tháng 12 năm 1965.

“Ngày 14 tháng 9 năm 1965, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã mở đầu phiên họp thứ 4 của Công Đồng bằng một bài giảng thuyết đáng phải được giữ lại trong ký ức chúng ta. Người nói: ‘Công Đồng làm cho chúng ta hiểu rõ hơn rằng Giáo Hội chúng ta là một Giáo Hội được xây dựng trên sự hiệp nhất đức tin và phổ quát tính của tình yêu... Và tình yêu của chúng ta ở đây đã tiếp nhận và sẽ tiếp nhận các hình thức biểu thị mang đặc tính Công Đồng này. Giáo Hội Công Giáo lúc đó đang làm gì?.. .Giáo Hội đã yêu... đã yêu bằng một quả tim mục vụ. Giáo Hội đã yêu bằng một quả tim truyền giáo,... và Giáo Hội đã yêu bằng một quả tim đại kết...’”. (Bài giảng tại Công Đồng Vatican II).

“Ngày nay, người ta nói nhiều về một Giáo Hội trong tranh luận. Nói đúng ra là Công Đồng Vatican II đang mời gọi chúng ta tranh luận trong Giáo Hội. Là một Giáo Hội trong tranh luận bao hàm cả mối nguy hiểm tập trung những cái nhìn của chúng ta vào chính chúng ta. Đúng hơn, chúng ta hãy nói về tranh luận trong Giáo Hội. Công Đồng đã thực hiện cuộc tranh luận ấy. Trong khi khẳng định tính giám mục đoàn, Công Đồng đã cho phép lập lên ở mọi cấp độ, những cấu trúc Synode, từ Synode Roma đến các hội đồng linh mục và đến các hội đồng mục vụ trong các giáo phận chúng ta. Biết bao nhiêu địa điểm đối thoại tập hợp các tham dự viên đồng nhất cùng một quy chế, một sứ vụ hoặc một thừa tác vụ, vẫn hoàn toàn mở rộng tới cả các chuyên viên, các quan sát viên Kitô và tới cả các khách mời khác biệt nhất như Công Đồng đã làm trước đây vậy.

Giáo xứ cũng có một kinh nghiệm lớn trong những lĩnh vực đó. Sự cộng tác linh mục, giáo dân với nhau đã từ lâu là một thực tại, dù cho đây đó cũng gặp một vài khó khăn tạm thời,... Dù thế nào đi nữa thì cuộc đối thoại này cũng phải được theo đuổi, được ưu tiên, và nhất là muốn cho chính đối thoại đó nên như phần tử cấu tạo nên đời sống Giáo Hội. Việc mọi người tham dự vào đối thoại này cũng là một dấu chỉ cho xã hội đương thời của chúng ta”. (Trích trong: Vui mừng và hy vọng - 40 năm sau Công Đồng, của Đức Cha Anrê ACRAMPE - Tổng Giám Mục Besancon).

Vậy đề tài mà tôi được vinh dự trình bày ở đây là một trong những đề tài khá quen thuộc đã được đề cập tới ở những lĩnh vực khác nhau với các ý nghĩa khác nhau và do nhiều Đấng bậc lỗi lạc trong Giáo Hội, và vẫn còn mời gọi chúng ta đào sâu.

Nhưng vốn biết bản thân không đủ khả năng bước vào cuộc tranh luận đó, nên tôi chỉ đề cập tới nó như một chứng nhân lịch sử trước và sau Công Đồng Vatican II ở cả hai miền, chủ yếu là miền Bắc trong đất nước Việt Nam. Vậy nên đề tài của tôi trình bày sẽ là vai trò của người giáo dân Việt Nam dưới Ánh sáng Công đồng Vatican II trong môi trường xã hội Việt Nam thực tại.

Do hoàn cảnh đặc biệt của đất nước nhiều năm bị chia đôi, nhất là trong thời gian diễn ra Công đồng, chúng ta bắt buộc phải nói tới vai trò của người giáo dân ở các miền Nam Bắc khác nhau.

Trước khi có Công đồng Vaticanô II, tôi chỉ xin giới hạn từ năm 1945 trở đi, nhất là từ năm 1945 Miền bắc sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào dưới chính quyền Sài Gòn.

Vai trò của người giáo dân Việt Nam miền Bắc trước Công đồng.

Nói chung, vai trò đó được tượng trưng bằng hình ảnh quen thuộc nổi tiếng: Hình ảnh kim tự tháp, “trong đó có sự phân biệt nền tảng giữa giáo sĩ với giáo dân: giáo sĩ nắm trọn mọi quyền hành, còn giáo dân chẳng có gì. Hồng y Gasquet kể giai thoại sau: ngày kia ở giai đoạn tiền Công đồng, một người dự tòng hỏi một linh mục Công giáo về vị thế của người giáo dân trong Giáo Hội. Vị linh mục điềm nhiên trả lời: giáo dân có 2 vị thế trong Giáo hội: Thứ nhất quì gối trước bàn thờ; thứ hai ngồi trên ghế, vị Hồng y dí dỏm nói thêm người ta quên mất vai trò thứ ba là: móc ví lấy tiền để công đức cho nhà thờ”. (Sứ vụ người giáo dân trong thời đại mới trong hội thảo Sống Đạo theo cung cách Việt Nam, tác giả Lm. Nguyễn Thái Hợp, trang 114).

Ở các nước Âu châu, nền văn minh tôn trọng giá trị con người, địa vị giáo dân còn như vậy thì ở Việt Nam trong xã hội mang chút ít phong kiến chịu ảnh hưởng của Nho giáo, thường tôn sùng kính trọng quá mức đối với Bề trên, thì vai trò và địa vị của người giáo dân trước Công đồng sẽ ra sao?

Tôi còn nhớ khi làm linh mục đi làm lễ ở một xứ ngoại thành Hà Nội, trao đổi công việc với ban chánh trương trùm trưởng, thấy họ tự ti, tự hạ quá đáng đến chỗ mất hết sáng kiến, nực cười.

Tôi hỏi một vị trùm ở xứ:

- Mai lễ Chúa nhật các ông thích làm lễ mấy giờ?

- Thưa theo ý cha mọi đàng.

- Sau lễ có đi rước kiệu như mọi khi không?

- Thưa theo ý Cha mọi đàng.

- Sau lễ có dùng bữa như mọi khi không?

- Thưa theo ý Cha mọi đàng.

Tôi hơi bực mình vì có ý hỏi đùa ông,

Có thể họ bị ảnh hưởng về một số nền thần học lạc hậu trước Công đồng cho nên có thái độ:

- Khinh thường các sự việc thế gian.

- Sống co cụm trong các khu vực công giáo.

- Kỳ thị các tôn giáo khác v.v...

Cũng trong thời kỳ đó, vai trò của các giáo dân miền Nam cũng gần giống như đồng bào của họ ở miền Bắc, song nhờ vào tiếp xúc nhiều với nền văn hóa xứ tây âu, nhiều thành phần tri thức hơn, nhiều hội đoàn tiên tiến trong Giáo Hội như Công giáo tiến hành, Thanh lao công v.v... Người giáo dân cải thiện vai trò và vị trí của mình trong Giáo Hội địa phương.

Giai đoạn 1954 tới 1975 trong đó có gian đoạn diễn ra Công đồng chung Vaticanô II 1960 - 1965.

A- Miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chế độ bao cấp thịnh hành, nên người giáo dân Việt Nam ít nhiều khó tìm được vai trò đúng đắn của mình trong Giáo Hội.

Vô tri bất mộ, suốt thời gian Công đồng diễn ra cũng như sau đó một tháng, hầu như ánh sáng của Công đồng không lọt tới được miền Bắc, ngay cả tới hàng giáo sĩ, chưa nói tới hàng ngũ giáo dân. Sau khi Công đồng bế mạc tới 3, 4 năm, tôi đang dạy tại Đại Chủng Viện Hà Nội mới được một vị trong Mặt Trận Tổ Quốc T.P. Hà Nội cho một cuốn sách tài liệu về các bản văn Công đồng bằng tiếng pháp, sau khi đã ca ngợi hướng đi đúng đắn và tiến bộ của Công đồng Vatican II, phải đợi tới khi Đức Tổng Giám Mục giáo phận Hà Nội Giuse M. Trịnh Văn Căn tham dự Thượng Hội đồng thế giới về Giáo lý trở về mang được một số sách nói về Công đồng, nhất là sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975, những thông tin tốt đẹp của Công đồng được phổ biến cho giáo dân miền Bắc trong các nhà thờ, các lớp giáo lý, sự đi lại giao lưu giữa giáo dân hai miền Nam-Bắc, tất cả đã đóng góp cho các giáo dân miền Bắc thấy vai trò của họ: là sống tính cách trần thế của họ giữa cuộc đời, dấn thân phục vụ con người, nhất là con người nghèo khổ, tôn trọng những giá trị của các thực tại trần gian, đoàn kết yêu thương đối thoại với các tôn giáo, nhiệm vụ truyền giáo v.v... Nhưng do thiếu thốn các linh mục trầm trọng ở miền Bắc, thiếu người hướng dẫn tốt, thiếu sách vở, nên tình trạng người giáo dân Việt Nam ở miền Bắc ý thức được việc làm của mình trong Giáo Hội địa phương và nhất là đem ra sống thực tế trong xã hội, ở mức độ yếu kém.

Đàng khác do một số giáo dân vào Nam học tập không thấu đáo về những điểm tiến bộ của Công đồng chung Vatican II đem về phổ biến cho giáo dân nên gây ra tình trạng lộn xộn, tranh dành quyền lợi với hàng giáo sĩ và với nhau.

Dẫu thế, cuộc sống của người giáo dân miền Bắc mặc dù sống trong hoàn cảnh không nhiều thuận lợi nhưng nhờ vào tác động của Chúa Thánh Thần, đã có những nét tốt đẹp khác phù hợp với nội dung Công đồng chung Vatican II: như đức tin sống mạnh mẽ, lòng trung thành tuyệt đối với Giáo Hội, sự sùng kính mãnh liệt đối với Đức Mẹ Maria. Trong bài phát biểu tại Thượng Hội Đồng thế giới về giáo dân, tôi đã từng nói: “Giáo dân Việt Nam đã sống các lý tưởng của Công đồng trước khi biết đến Công đồng theo đúng câu phương ngôn Latinh: Primum vivere, Deinde Philosophare: “Đầu tiên là sống trước đã rồi triết lý sau”. Và trong bài phát biểu khác ở Thượng Hội Đồng thế giới về Á châu, tôi tả vẽ hình ảnh một người mẹ công giáo Việt Nam đầu đội thúng gạo, tay trái dắt con nhỏ, tay phải cầm tràng hạt lần kính Đức Mẹ, và trích câu nói của nhà văn, đại ý:

“Đạo đức mê tín đến như vậy làm sao cải tạo được, mọi cố gắng ở đây đều như hòn đá ném xuống ao tù, mặt ao đầy váng có tan ra trong chốc lát, rồi lại khép vào đâu vẫn hoàn đấy”.

Sức sống của người giáo dân Việt Nam miền Bắc là như vậy.

B- Vai trò của giáo dân miền Nam.

Chúng tôi không đề cập tới khía cạnh chính trị của vấn đề để khỏi phải gọi ai là ngụy quân ngụy quyền như Cha Thiện Cẩm đã có lần viết trên tập san Công Giáo Và Dân Tộc, song phải khách quan mà nói.

Những giai đoạn từ 1954 tới khi thống nhất, cả những năm hiện tại, người giáo dân miền Nam sống trong một xã hội mở ra thế giới bên ngoài.

Đã mở cửa thì phải chịu hậu quả tốt xấu. Đón làn gió mát thời cũng hứng chịu những ruồi muỗi bay vào.

Những nếp sống xa đọa của thế giới hưởng thụ đã tràn vào phá hoại không ít những gia đình giáo dân Việt Nam, nhất là đám thanh niên nam nữ, làm lung lay những khung mộng của nền lễ giáo.

Nhưng cũng làn gió mới thổi từ Công đồng Vatican II đã đến Việt Nam nhờ vào cánh cửa rộng mở này. Các Giám Mục có thể tới dự các phiên họp Công đồng. Các sách vở báo chí thông tin về Công đồng được phổ biến rộng rãi. Cuốn sách dịch công phu của Học viện Đà lạt mang ánh sáng Công đồng đến cho dân Chúa ở Việt Nam suốt mấy chục năm qua, tạo điều kiện cho giáo dân ý thức được rõ rệt vai trò để dấn thân phục vụ kết quả hơn do tính cách thế trần của họ.

Các hội đoàn giáo dân xuất hiện ngày càng nhiều và làm cho sự phục vụ, dấn thân thêm đa dạng và kết quả.

Ngày nay, các khách tới thăm miền Nam đều ca ngợi một Giáo hội Việt Nam đầy sức sống. Hội đoàn có những sinh hoạt phong phú, các lớp học về Tôn Giáo đa dạng, các dòng tu hội đoàn dấn thân hoạt động hiệu quả. Tuy còn một số khó khăn nhất định, song hàng ngũ giáo dân đã ý thức được vai trò của mình trong Giáo Hội với xã hội và đem ra thực hiện để xây dựng sự hưng thịnh ngày nay.

Trong các lớp đàn anh tre già nhưng vẫn còn cứng cựa, còn măng non mọc lên cũng chứa chan sức trẻ. Họ chính là chủ lực cho Giáo Hội phía Nam, còn là kho dự trữ để tiếp tế cho anh em phía Bắc.

Chúng tôi được biết rõ các giáo dân miền Bắc vào Nam lập nghiệp, song cũng là để học hỏi về giáo lý, tu đức, sinh hoạt hội đoàn ngày càng đông, và cũng khích lệ các anh chị em giáo dân trong Nam bằng cách này cách khác quan tâm và nỗ lực giúp đỡ anh chị em mình, đón ánh sáng Công đồng, sống đúng vai trò của mình trong Giáo Hội và xã hội.

C- Ngày nay trong một đất nước hoàn toàn thống nhất, đã thoát khỏi quan liêu bao cấp, mở rộng nhiều mặt về kinh tế, chính trị v.v... chúng tôi mong muốn câu nói: “Miền Nam đi trước về sau (về mặt chính trị) và miền Bắc đi trước về sau (về mặt tôn giáo) không thành sự thực.

Các giáo dân miền Nam đã ý thức vai trò của mình được ánh sáng Công đồng Vaticanô II và đóng vai trò đó mạnh mẽ trong xã hội ngày nay được tạo mọi điều kiện tốt hơn nữa để công cuộc phục vụ dấn thân với tính thế trần của họ.

Các giáo dân miền Bắc nói chung vẫn còn mu mơ trong ý thức vai trò của mình dưới ánh sáng Công đồng Vatican II, còn yếu kém hơn trong việc thực hiện vai trò đó trong Giáo Hội và xã hội. Một lý do quan trọng nhất là họ thiếu hướng dẫn, thiếu học tập, nói chung thiếu sách vở, thiếu thầy dạy. Điều này rất khó khắc phục với nhân sự hiếm hoi như lá mùa thu và yếu kém ở miền Bắc. Điều mong ước là được các chuyên viên về giáo lý, về các hội đoàn giáo dân từ miền Nam công khai được ra giúp đỡ anh em mình ở miền Bắc. Đất nước ta đã thống nhất mở ra trong nhiều lãnh vực, chúng ta đón các giáo sư, các chuyên viên quốc tế giảng dạy ở Việt Nam, tạo điều kiện cho các cuộc giao lưu mọi miền trong đất nước, vậy tại sao vẫn “bế quan tỏa cảng” đối với các vấn đề tôn giáo.

Đây là lúc chứng tỏ năng lực hữu hiệu của Ủy Ban Đoàn Kết và các Ủy ban làm cầu nối trong xã hội, không nên để tình trạng “bí quá” phải “làm chui” vừa tác hại nhiều mặt và nhiều phía.

- Về phía các tổ chức, hội đoàn, việc xử dụng giáo dân trong các cơ cấu nên rộng rãi hơn. Ủy Ban đoàn kết là của ai, gồm những ai, tôi nghĩ, có thể là một hình thức nào đó giúp giáo dân sống tính cách trần thế của mình, không nên chỉ do hàng giáo sĩ tham gia điều khiển. Tôi nghe dịp thành lập Ủy Ban đoàn kết trong giáo phận Xuân Lộc, có tới 100 linh mục đăng ký tham gia, còn “chỗ” đâu dành cho giáo dân!!!

- Ngay về phía Giáo Hội, cũng cần có sự mạnh dạn rộng rãi hơn, nhất là lòng tin vào người giáo dân. Họ là số đông trong Giáo Hội nhưng rất ít người là bè rối bè đảng hơn các Đấng các bậc. Các Hội nghị dành cho giáo dân, các phái đoàn đi “phó” hội không nên chỉ gồm có Giám mục, Linh mục, Tu sĩ nam nữ mà dành ít nhiều chỗ cho giáo dân.

Đại hội giới trẻ mỗi năm của Việt Nam ở thế giới thành phần giáo dân cũng quá ít, luôn chỉ giữ vai trò phụ: hát hò, múa nhảy, không có cơ hội phát huy khả năng là sứ ngôn của Chúa Kitô theo Bí Tích Rửa Tội.

Mấy lần công du nước ngoài, tôi gặp các bạn bè năm châu đều ca ngợi Việt Nam chúng ta có ổn định an ninh trật tự, nhất là khéo tổ chức các hội nghị lớn thành công tốt đẹp như: Tiger Cup, Seagame 22, Agribankcup, Cộng đồng nói tiếng Pháp, Asean, Assam v.v... nhưng họ chê tôi là lạc hậu: “Ông là Chủ Tịch Ủy Ban giáo dân mà không tổ chức được một hội nghị nào mang tầm vóc quốc tế như: Đại Hội giới trẻ ở Paris, Tôrôntô, Rôma, Philipin, thậm chí nơi rất ít Công giáo như Thái Lan, Ấn Độ v.v.. Ở Việt Nam, tại thủ đô Hà Nội có sân Mỹ đình có thể dùng làm nơi diễn ra các cuộc Hội nghị an toàn, trật tự, an ninh... mà sân đó cũng ít người thuê trong năm.

Tôi nghe lời trở về, đề cập điều đó với các vị có trách nhiệm, được các vị trả lời: “Xưa nay không có thói quen đó. Phải đợi”.

Từ đó đến nay, 3 năm trôi qua, chúng tôi sắp sửa đón tiếp vị Bộ Trưởng Bộ Truyền Giáo Tòa thánh Vatican sang thăm Việt Nam và dự định phong chức cho gần 100 linh mục miền Bắc. Con số người tham dự sẽ rất đông, dự liệu có thể 40 đến 50 ngàn người. Đức Tổng Giám Mục Hà Nội cũng đề nghị xin giúp cho thuê sân Mỹ đình để giải quyết các vấn đề trật tự giao thông, an ninh ổn định, và cũng một câu trả lời: “Xưa nay chưa có thói quen. Hãy đợi đấy”. Hay là các vị chưa thực sự tin vào giáo dân Công giáo Việt Nam. Hãy điểm lại các vi phạm luật lệ, an ninh trật tự từ khi đất nước thống nhất cho tới nay: có thể là rất ít người Công giáo so với các tổ chức và cộng đoàn khác.

Tôi cũng tâm đắc với bài báo của cụ Nguyên Thủ Tướng Võ Văn Kiệt đăng trên báo Tuổi trẻ số 96/2005, ra ngày 30/4/2005 có đoạn viết: “Nhìn những cháu bé đang chơi với nhau ấy, làm sao có thể phân biệt được cháu nào là con Quốc Gia, cháu nào là con Cộng Sản (tôi xin thêm: cháu nào là theo đạo Công giáo, hay Phật giáo v.v...). Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình nhất trí với tôi: “Chỉ có người lớn mới phải chịu trách nhiệm về những sự phân biệt ấy”.

Nhất là chúng ta đánh giá thế nào về suy nghĩ của Thủ Tướng đương nhiệm:

Mùa Xuân năm 2000, Ban Thường vụ Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tới chào Thủ tướng Phan Văn Khải, chúng tôi được nghe Thủ tướng nói: “Nơi nào có đồng bào (giáo dân) công giáo sống, nơi đó ít có nếp sống tiêu cực, xì ke ma túy, nơi đó có an toàn và giữ dìn trật tự an ninh tốt”.

Chúng tôi cám ơn Thủ tướng và xin Ngài tạo mọi điều kiện cho chúng tôi giúp đỡ giáo dân duy trì và phát triển nếp sống tốt lành đó.

Ngày nay giáo dân Việt Nam ý thức được vai trò của mình dưới ánh sáng Công đồng Vatican II, vẫn còn rực sáng soi trên mọi nẻo đường, đang và sẽ làm cho cuộc sống của giáo dân “tốt đời tươi đạo”. Tôi muốn đổi câu nói thường ngày “tốt đời đẹp đạo” lại thành “tốt đời tươi đạo”, vì câu đối trên không chỉnh trong lãnh vực văn chương, nhất là dưới ánh sáng của Công Đồng Vatican II: giáo dân Việt Nam phải lạc quan yêu đời, tôn trọng thực tại trần thế sống đạo tươi vui như những bông hoa tươi rực rỡ muôn màu, như các các bạn trẻ xinh tươi, hứa hẹn một cuộc sống sáng tươi. Chúng ta hãy nghe lời khuyên của các Đức Giám Mục trong bức thư mục vụ năm 2005 gửi cộng đồng dân Chúa tại Việt Nam: “Trong một xã hội còn thiếu tôn trọng sự thật, Kitô hữu phải tập và nêu gương sống ngay thẳng. Trong một xã hội còn thiếu tôn trọng sự sống con người, Kitô hữu quyết tâm cổ võ và bảo vệ nền văn hóa sự sống. Trong một xã hội chạy theo lợi nhuận, thiếu tôn trọng phẩm giá con người, gạt người nghèo sang bên lề cuộc sống... Kitô hữu được mời gọi dấn thân xây dựng nền văn minh tình thương”.

Đúng như nghị quyết của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam khóa IX: “Vì tôn giáo chính là nhu cầu tinh thần đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc”.

Giám Mục Thái Bình