Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Trung tâm Nghiên cứu Văn minh Phương Tây Benson tại Đại học Colorado Boulder đã tài trợ cho một hội thảo chuyên đề, “Lần Cháy Này: Nước Mỹ và Các Cuộc Tấn Công Boulder”, nhằm phản ứng lại vụ ném bom xăng vào những người biểu tình Do Thái ôn hòa đòi thả các con tin Israel ở Gaza hồi tháng 6 vừa qua, khiến một người sống sót sau thảm họa Holocaust tử vong do bỏng. Sau phần giới thiệu của Tiến sĩ Joseph Bottum, Tiến Sĩ George Weigel, Nghiên cứu viên Cao cấp Xuất sắc của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công Washington, đã có bài phát biểu nhan đề “Anti-Semitism: Grave Sin and Civic Cancer”, nghĩa là “Chủ nghĩa bài Do Thái: Tội lỗi nghiêm trọng và bệnh ung thư công dân”.
Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Lạy Thiên Chúa của tổ tiên chúng con, Chúa đã chọn Abraham và dòng dõi ngài để mang danh Chúa đến muôn dân. Chúng con vô cùng đau buồn trước hành vi của những kẻ, trong suốt chiều dài lịch sử, đã gây ra đau khổ cho con cái Chúa. Và xin Chúa tha thứ, chúng con muốn cam kết sống tình huynh đệ chân chính với dân giao ước. Amen.
Ba ngày trước, vào ngày 23 tháng 3 năm 2000, cũng vị Giám Mục người Ba Lan đó, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị (nay là Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị) đã đến đặt vòng hoa tưởng niệm tại ngọn lửa vĩnh cửu tôn vinh các vị tử đạo của Shoah tại Yad Vashem. Phát ngôn nhân báo chí của ngài, giáo dân người Tây Ban Nha Joaquín Navarro-Valls, đã từng hỏi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị rằng ngài có bao giờ khóc không. “Không phải ở bên ngoài”, Đức Giáo Hoàng trả lời. Không ai nhìn thấy Đức Gioan Phaolô II bước về phía ngọn lửa vĩnh cửu đó có thể nghi ngờ rằng ngài đang khóc trong lòng, khi ngài nói về “nhu cầu lớn lao về sự im lặng” ở nơi này: sự im lặng để tưởng nhớ những người đã khuất; sự im lặng để cố gắng hiểu ý nghĩa của những ký ức cứ ùa về; sự im lặng vì không có từ ngữ nào đủ để lên án Shoah. Tối hôm đó, người bạn Israel lâu đời nhất của tôi, một người lính, học giả và chính khách lỗi lạc, người đã chứng kiến rất nhiều điều trong cuộc đời mình, đã gọi điện cho tôi tại khách sạn. “Tôi chỉ muốn nói với anh rằng,” ông nói, “vợ tôi và tôi đã khóc suốt chuyến thăm của Đức Giáo Hoàng đến Yad Vashem. Đây chính là sự khôn ngoan, nhân văn và chính trực được thể hiện rõ nét. Không thiếu thứ gì; không cần phải nói thêm gì nữa.”
Chuyện này xảy ra như thế nào? Và nó có ý nghĩa gì với chúng ta ngày nay?
Đức Gioan Phaolô II hẳn là người đầu tiên khẳng định rằng ngài không hành động theo cách riêng khi đến Yad Vashem và Bức tường phía Tây. Ở đó, cũng như ở những nơi khác trong triều Giáo Hoàng đáng chú ý kéo dài hai mươi sáu năm rưỡi của mình, ngài tự coi mình là người kế thừa Công đồng Vatican II và giáo huấn của Công đồng về món nợ hiếu thảo mà Kitô giáo mắc nợ cha mẹ, Do Thái giáo. Và điều quan trọng cần nhấn mạnh là: nếu Đức Gioan Phaolô II hành động theo cách riêng, thì ngài đã không mang toàn bộ sức nặng của Giáo Hội Công Giáo và niềm tin vững chắc của mình vào những gì ngài đã nói tại Yad Vashem và những gì ngài đã cầu nguyện tại Bức tường phía Tây. Tuy nhiên, với tư cách là người viết tiểu sử của ngài, tôi phải nói rằng có điều gì đó rất riêng tư về cách ngài mang niềm tin của Giáo Hội Công Giáo vào hai nơi mang đậm tính biểu tượng và cảm xúc đó: và, theo người Do Thái và Kitô giáo, mang đậm chân lý của thế giới.
Trải nghiệm cá nhân đầu tiên liên quan đến quê hương và cha ngài. Wadowice, thị trấn đồn trú của Quân đội Áo-Hung, nơi Karol Wojtyła sinh ra và sống cho đến khi tốt nghiệp trung học, có 20% dân số là người Do Thái, và có một lịch sử lâu dài, được nuôi dưỡng bởi các linh mục Công Giáo và các sĩ quan quân đội cao cấp sống ở đó, về lòng khoan dung và sự tôn trọng lẫn nhau. Vì vậy, chàng trai trẻ Karol Wojtyła sống trong một căn nhà trong một tòa nhà thuộc sở hữu của thương gia Do Thái Chaim Balmuth, nơi mà vị giáo hoàng tương lai và cha ngài thường dùng bữa. Chàng trai trẻ Karol có nhiều bạn Do Thái khi còn là một cậu bé và một thiếu niên. Một số người trong số họ vẫn là bạn của ngài suốt đời; những người khác đã chết trong cuộc diệt chủng Holocaust.
Ngài cũng noi gương cha mình, một người đàn ông chính trực, cứng rắn như đá hoa cương, một sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu, người đã dạy con trai mình lòng tôn trọng người khác, sự khoan dung và niềm tin vào một nước Ba Lan tự do, nơi các cộng đồng thiểu số đóng vai trò đầy đủ trong đời sống công dân mà vẫn giữ được sự toàn vẹn văn hóa của riêng họ. Trong suốt cuộc đời dài, niềm tin của người con trai về tình anh em giữa con người và những yêu cầu đạo đức của một xã hội tử tế đã phản ánh đúng tinh thần của người cha.
Yếu tố cá nhân thứ hai trong sự hiểu biết của Đức Gioan Phaolô II về người Do Thái và Do Thái giáo liên quan đến trải nghiệm của ngài về Thế chiến thứ hai. Cái vạc hận thù và bạo lực này là trải nghiệm hình thành nhất trong cuộc đời của Karol Wojtyła: năm năm mà, như một trong những người cùng thời với ngài đã nói với tôi, “Vấn đề không phải là không biết liệu bạn có còn sống vào sinh nhật tiếp theo hay không; mà là không biết liệu bạn có còn sống vào đêm mai hay không.” Năm 1997, khi đang dùng bữa tối, tôi đã hỏi Đức Gioan Phaolô II rằng ngài đã học được gì từ những năm tháng chiến tranh. Ngài im lặng một lúc, rồi bằng giọng đều đều pha chút buồn bã, nhìn tôi và nói, “Tôi đã học được kinh nghiệm của những người cùng thời với mình: đó là sự sỉ nhục dưới bàn tay của cái ác.” Và chính qua trải nghiệm đó mà Karol Wojtyła đã đi đến quyết định cống hiến hết mình cho việc bảo vệ phẩm giá và tự do của con người thông qua chức linh mục của Giáo Hội Công Giáo.
Phản ứng của con người trước năm năm thảm sát mang tên “Gestapoland” (tên gọi mà nhà sử học Norman Davies đặt cho vùng Ba Lan bị tạm chiếm) rất khác nhau. Một số người cùng chung trải nghiệm đó đã phát điên; những người khác thì hiến dâng mạng sống cho thế giới lý tưởng trần tục của chủ nghĩa Cộng sản; những người khác thì cố gắng làm cho mình càng ít được biết đến và ít bị chú ý càng tốt; còn những người khác thì tham gia kháng chiến vũ trang và thường bỏ mạng vì điều đó. Karol Wojtyła, thành viên của một nhóm kháng chiến văn hóa ngầm chống lại chế độ chuyên chế Đức Quốc xã bằng cách duy trì lý tưởng về một nước Ba Lan tự do, cởi mở và khoan dung, đã vượt qua năm năm rưỡi đầy khắc nghiệt đó với một cam kết cụ thể: cam kết bảo vệ phẩm giá và giá trị của mỗi sinh mạng con người.
Có những thế lực khủng khiếp đang hoạt động bên dưới lớp vỏ Trái Đất. Đôi khi chúng bùng nổ trong động đất, sóng thần, hoặc, như những vụ nổ núi lửa, phun trào dữ dội thành dung nham, nuốt chửng mọi thứ trên đường đi của nó. Nhưng một thứ khác hình thành dưới sức nóng và áp suất dữ dội đó bên dưới bề mặt của vạn vật: kim cương, vật chất cứng nhất được biết đến trong tự nhiên, những viên đá quý có khả năng cắt xuyên qua những thứ dường như không thể xuyên thủng; những viên đá quý phản chiếu ánh sáng theo những cách đẹp đẽ độc đáo. Những năm từ 1939 đến 1945 đã biến Karol Wojtyła thành một dạng kim cương sống, với lưỡi cắt có thể xuyên thủng những thứ tưởng chừng như không thể xuyên qua—như Bức tường Berlin; một dạng kim cương sống phản chiếu ánh sáng tự mặc khải của Chúa với thế giới: trước hết, thông qua dân tộc Israel; rồi qua con người, sự dạy dỗ và công việc của Chúa Giêsu thành Nazareth, một người Do Thái trung tín, trong lúc hấp hối đã cầu khẩn, khi trích dẫn phần đầu của Thi thiên 22, lời của tác giả Thi thiên về sự biện minh cuối cùng cho mục đích của Thiên Chúa: “Phải, mọi kẻ kiêu ngạo trên đất sẽ cúi lạy Ngài. … Mọi hậu thế sẽ phục vụ Ngài … và rao truyền sự giải cứu của Ngài.”
Đường lối của Đức Gioan Phaolô II đối với người Do Thái và Do Thái giáo cũng được hình thành bởi một niềm tin mà tôi hy vọng sẽ làm phong phú thêm bài suy ngẫm của chúng ta. Karol Wojtyła là một triết gia chuyên nghiệp lỗi lạc, nhưng ngài cũng là một người của Kinh Thánh. Và ngài đã mang đến cho sứ vụ giáo hoàng của mình một niềm tin vững chắc rằng câu chuyện của thế giới và câu chuyện Kinh Thánh không phải là những câu chuyện chạy song song. Đúng hơn, câu chuyện Kinh Thánh—câu chuyện mà các chương trong Kinh Thánh Hebrew lần lượt được đặt tên là Sáng Thế, Sa Ngã, Lời Hứa và Lời Tiên Tri; câu chuyện mà các Kitô hữu tin rằng vẫn tiếp tục trong Tân Ước dưới các chương mang tên Nhập Thể, Cứu Chuộc, Thánh Hóa và Vương Quốc của Thiên Chúa—chính là câu chuyện của thế giới: câu chuyện mà những nét nổi bật thường được gọi là Nền Văn Minh Cổ Đại, Hy Lạp và Rôma, Thời Kỳ Tăm Tối, Trung Cổ, Phục Hưng và Cải Cách, Thời Đại Lý Trí, Thời Đại Khoa Học, Thời Đại Dân Chủ, v.v. Câu chuyện Kinh Thánh là câu chuyện của thế giới được hiểu đúng đắn. Câu chuyện Kinh Thánh là câu chuyện của thế giới được đọc ở chiều sâu thẳm nhất và trên nền trời bao la nhất của nó. Nếu muốn, câu chuyện Kinh thánh là câu chuyện bên trong cốt truyện lịch sử thông thường: câu chuyện sâu sắc mang lại cho câu chuyện bề mặt khả năng tường thuật và cuối cùng là tính mạch lạc.
Hãy để tôi nói theo cách khác: Đức Gioan Phaolô II tin rằng câu chuyện nhân loại không phải là câu chuyện về hành trình tìm kiếm Chúa của con người, mà là câu chuyện về hành trình Chúa tìm kiếm chúng ta, và chúng ta học cách bước đi trên cùng một con đường lịch sử mà Chúa đã đi. Đó là điều mà câu chuyện Kinh Thánh dạy, bắt đầu bằng lời kêu gọi thiêng liêng của Chúa dành cho Abram rời khỏi Ur xứ Chaldees và hành trình đến miền đất hứa. Và Đức Gioan Phaolô II tin chắc rằng đó là câu chuyện mà thế giới phải học lại (hoặc, trong một số trường hợp, là lần đầu tiên), nếu thế giới muốn tìm lại cảm giác cao quý và khả năng của mình. Với niềm tin đó, Đức Gioan Phaolô II đã trở thành một người hành hương đến với thế giới: một người hành hương Kinh Thánh, kể cho thế giới nghe câu chuyện thực sự của mình—câu chuyện về Abraham, câu chuyện về Moses, câu chuyện về Giêsu—để, như ngài đã phát biểu tại Liên Hiệp Quốc năm 1995, “một thế kỷ nước mắt có thể sinh ra một mùa xuân mới của tinh thần con người”. Mong muốn tha thiết của Đức Gioan Phaolô II rằng người Do Thái và người Kitô giáo sẽ là “phước lành cho nhau” không phải là sự phản ánh nỗi đau trong quá khứ mà tập trung vào những khả năng trong tương lai.
Vậy thì, chúng ta nên là một phước lành cho nhau vì mục đích gì? Để thế giới, khi tìm hiểu câu chuyện đích thực của mình, có thể lấy lại sự sáng suốt về mặt đạo đức. Để các dân tộc có nền tảng đạo đức xuất phát từ Sinai có thể trở thành ánh sáng cho các quốc gia, chứng nhân cho nhân phẩm và bảo vệ tự do của con người. Để, cùng nhau, người Do Thái và Kitô hữu có thể nhắc nhở thế giới rằng lịch sử là câu chuyện của Ngài, câu chuyện của Chúa, và rằng nhân phẩm của chúng ta được nâng cao chứ không bị suy giảm, khi chúng ta bước đi trên cùng một con đường lịch sử mà Chúa của Abraham, Isaac, Jacob và Chúa Giêsu đã đi.
Vào ngày 6 tháng 4 năm 2005, bốn ngày sau khi Gioan Phaolô Đệ Nhị qua đời, Rabbi Michael Schudrich, Giáo sĩ trưởng người Mỹ của Ba Lan, đã viết những dòng sau đây trên tờ báo Tygodnik Powszechny của Ba Lan, tờ báo mà Đức cố giáo hoàng đã từng đóng góp các bài luận có chữ ký, thơ và kịch viết dưới bút danh:
Trong hai ngàn năm qua, không ai đóng góp nhiều cho đối thoại và hòa giải Do Thái-Công Giáo như Đức Gioan Phaolô II. Ngài đã dạy chúng ta, theo một cách rất đặc biệt, ý nghĩa của việc yêu thương tất cả mọi người - tất cả các tạo vật của Chúa. Cuộc chiến chống lại chủ nghĩa bài Do Thái và phân biệt chủng tộc của ngài là vô song. …
… Ngài dạy chúng ta hướng đến sự thánh thiện vốn đã ăn sâu trong mỗi người chúng ta. Ngài không chỉ chỉ cho chúng ta cách sống mà còn chỉ cho chúng ta cách chết. Thế giới đã mất đi một thẩm quyền đạo đức quan trọng – la bàn đạo đức của Ngài. Ba Lan đã mất đi người thầy và người anh hùng vĩ đại nhất của mình. Người Do Thái đã mất đi người bạn và người bảo vệ tốt nhất của mình.
Chúng ta đau buồn nhưng vẫn luôn được bao bọc bởi phước lành từ cuộc đời và giáo huấn của Đức Gioan Phaolô II. Nguyện xin ký ức về ngài là một phước lành cho tất cả chúng ta.
Trong chuyến viếng thăm lịch sử đến Giáo đường Do Thái ở Rôma năm 1986, Đức Gioan Phaolô II đã kêu gọi người Do Thái và Kitô hữu “hợp tác vì lợi ích của con người”, hợp tác để bảo vệ sự sống và phẩm giá con người. Lời kêu gọi đó đã nói lên tiếng nói của chúng ta.
Bởi vì nạn dịch bài Do Thái lại một lần nữa hoành hành khắp đất nước—và khi nói “đất nước”, ý tôi là trên toàn cầu. Trong suốt lịch sử chính trị hiện đại, sự trỗi dậy của chủ nghĩa bài Do Thái đã là một dấu hiệu không thể sai lầm của sự suy tàn văn hóa. Và vì chính trị luôn là hạ nguồn của văn hóa, nên những tác động công khai và chính trị của sự suy tàn văn hóa đó có thể rất tàn khốc, như lịch sử đã dạy chúng ta—từ những cơn giận dữ bùng phát trong Vụ án Dreyfus ở Đệ tam Cộng hòa Pháp, qua sự sụp đổ văn hóa của nước Đức Weimar và kết cục chính trị diệt chủng của nó, cho đến sự man rợ điên cuồng của Hamas vào ngày 7 tháng 10 năm 2023. Và nếu chúng ta ở phương Tây đương đại tưởng tượng mình miễn nhiễm với những tác động chính trị độc hại của chủ nghĩa bài Do Thái mới ở Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và những nơi khác, thì chúng ta đang tự lừa dối mình một cách vô trách nhiệm về mặt đạo đức và chính trị.
Với bối cảnh học thuật này để chúng ta suy ngẫm tối nay, tôi xin phép nêu thêm ba điểm ngắn gọn nữa.
Thứ nhất: Chủ nghĩa bài Do Thái—ghét người Do Thái, kích động người Do Thái, kỳ thị người Do Thái—là sự phản bội di sản văn minh của chúng ta.
Những gì chúng ta biết về nền văn minh phương Tây là sản phẩm của sự tương tác hiệu quả giữa Giêrusalem, Athens và Rôma. Athens - triết học Hy Lạp cổ điển từ thời tiền Socrates đến Aristotle - đã dạy phương Tây rằng có những chân lý được xây dựng trong thế giới và trong chúng ta, những chân lý mà chúng ta có thể nhận biết bằng cách vận dụng nghệ thuật và lý trí. Từ Rôma, nền văn minh phương Tây đã học được tính ưu việt của pháp quyền so với sự thống trị của vũ lực. Còn Giêrusalem thì sao?
Tôn giáo Kinh Thánh đã mang đến cho nền văn minh phương Tây định hướng tương lai độc đáo. Kinh Thánh dạy phương Tây rằng cuộc sống là cuộc hành hương, là hành trình, là phiêu lưu: không phải sự lặp lại vô nghĩa của các chu kỳ cuộc đời, cũng không phải là một chuỗi sự kiện liên tiếp. Và ẩn dụ chính cho cách hiểu của phương Tây về lịch sử như một mục đích và có mục đích luận - lịch sử như một sự đi đến một nơi nào đó - tất nhiên là Cuộc Xuất Hành của Israel khỏi Ai Cập.
Hơn nữa, tôn giáo Kinh Thánh dạy phương Tây rằng phẩm giá của con người không phải là thứ được nhà nước, hay bất kỳ kẻ thống trị nào, gán cho những người được đặc quyền tại bất kỳ thời điểm nào. Không, tôn giáo Kinh Thánh dạy phương Tây rằng phẩm giá con người là bẩm sinh và bất khả xâm phạm bởi vì, như Sáng Thế Ký tuyên bố, chúng ta không phải là bụi sao đông đặc, mà là những tạo vật - những tạo vật - được tạo ra theo hình ảnh của Đấng Tạo Hóa. Chắc chắn, đã có một chặng đường lịch sử dài và thường gập ghềnh phải đi trước khi giáo lý Kinh Thánh đó được thể hiện công khai trong cuộc cách mạng nhân quyền hiện đại. Nhưng đừng nghi ngờ gì về nơi con đường đó bắt đầu: nó bắt đầu khi niềm tin của người Do Thái, nảy sinh từ cuộc gặp gỡ của Abram với Thiên Chúa, Đấng đã đổi tên ông thành Abraham, được thể hiện dưới hình thức văn học trong chương đầu tiên của Sáng Thế Ký.
Thứ hai: Chủ nghĩa bài Do Thái là sự phản bội Kitô giáo, bởi vì thù ghét người Do Thái chính là thù ghét Chúa Kitô. Chúa Giêsu thành Nazareth sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không hiểu Ngài như chính Ngài đã hiểu về bản thân mình: là người thừa kế, là con trai của giao ước của Thiên Chúa với dân tộc Do Thái. Và Kitô giáo sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có nguồn gốc Do Thái, cũng như Tân Ước của Kitô giáo sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu không có Kinh Thánh Hebrew. Nếu không có sự ràng buộc với Do Thái giáo, Kitô giáo sẽ chỉ là một giáo phái bí ẩn khác của thế giới cổ đại, và Chúa Giêsu thành Nazareth sẽ là một phiên bản Galileo làm phép lạ của Apollonius xứ Tyana, một người theo trường phái Pythagore mới làm phép lạ vào thế kỷ thứ nhất. Vì vậy, xét về mặt lịch sử, ngay từ thuở sơ khai, Công Giáo đã bác bỏ tà thuyết Marcion, vốn bác bỏ Kinh Thánh Hebrew.
Và đó là lý do tại sao trong Tuyên bố Nostra Aetate của Công đồng Vatican II, mà chúng ta sẽ kỷ niệm 60 năm trong vài tháng tới, Giáo Hội Công Giáo đã lên án chủ nghĩa bài Do Thái và thú nhận món nợ tinh thần của mình đối với những gì các giáo phụ Công đồng gọi là “dòng dõi Abraham” theo những thuật ngữ sau:
Giáo hội của Chúa Kitô thừa nhận rằng… khởi đầu đức tin và sự lựa chọn của mình được tìm thấy nơi các tộc trưởng, Môsê và các tiên tri. … Giáo hội không thể quên rằng mình đã nhận được sự mặc khải của Cựu Ước thông qua dân tộc mà Thiên Chúa đã thiết lập giao ước cổ xưa trong lòng thương xót vô biên của Người. …
Tương tự như vậy, Giáo hội luôn ghi nhớ lời của sứ đồ Phaolô về những người bà con của ông: “Họ là người Israel, và họ được thừa hưởng quyền làm con, vinh quang, giao ước, luật pháp, sự thờ phượng và lời hứa…” Hơn nữa, Giáo hội còn lưu ý rằng các tông đồ, những trụ cột mà Giáo hội đứng trên đó, đều là người Do Thái, giống như nhiều môn đệ đầu tiên đã rao giảng Phúc âm của Chúa Kitô cho thế giới. …
Cùng với các tiên tri và, Giáo hội đang chờ đợi ngày mà chỉ có Chúa mới biết, khi mọi dân tộc sẽ kêu cầu Chúa bằng một tiếng nói. …
Nếu tôi được phép nói ngắn gọn bằng ngôn ngữ thần học luân lý: Chủ nghĩa bài Do Thái là một tội trọng. Mọi hình thức thù hận đều là tội lỗi. Chủ nghĩa bài Do Thái là một tội đặc biệt nghiêm trọng - sự đồi trụy đạo đức làm méo mó cuộc sống và xói mòn văn hóa - bởi vì nó là sự phản bội Kitô giáo và phản bội Chúa Giêsu Kitô.
Thứ ba: Một số hình thức bài Do Thái của thế kỷ 21—những hình thức xuất hiện từ cánh tả cấp tiến trong đời sống chính trị toàn cầu—phản ánh sự chối bỏ Thiên Chúa của Kinh Thánh được tìm thấy trong cái mà nhà thần học người Pháp Henri de Lubac giữa thế kỷ 20 gọi là “chủ nghĩa nhân văn vô thần”. Hiện tượng văn hóa này, mà Cha de Lubac liên kết với những nhân vật như Comte, Feuerbach, Marx và Nietzsche, dạy rằng Thiên Chúa của Kinh Thánh là kẻ thù của sự trưởng thành và giải phóng của con người và do đó phải bị bác bỏ. Tuy nhiên, như học giả người Pháp đã nhận xét, đây là một sự đảo ngược hoàn toàn (và thực sự khá phi lý) kinh nghiệm lịch sử của nhân loại. Bởi vì thông qua dân tộc Israel, Thiên Chúa của Kinh Thánh đã đi vào lịch sử như một Đấng giải phóng, Đấng kêu gọi nhân loại đến một sự trưởng thành mới và có trách nhiệm về mặt đạo đức.
Không giống như các vị thần Canaan cổ đại, Đức Chúa Trời của Kinh Thánh không đòi hỏi và nhận được nghi lễ hiến tế trẻ em, một tập tục tàn ác mà các nhà tiên tri Do Thái đã lên án trong nhiều thế kỷ. Không giống như các vị thần trong Iliad và Odyssey, Chúa Trời của Kinh Thánh không đối xử với đàn ông và phụ nữ như những món đồ chơi trên bàn cờ vũ trụ, mà trước ý muốn của chúng, những người đàn ông mạnh mẽ nhất như Achilles cuối cùng đã bất lực. Không giống như các vị thần của Trung Mỹ thời tiền Columbus, Chúa Trời của Kinh Thánh không yêu cầu phải mổ xẻ con người sống để xoa dịu.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa nhân văn vô thần, như các nhà tiên tri của nó đã tự tin dự đoán, đã không dẫn đến một nhân loại mới trưởng thành, được khoa học tự nhiên dẫn dắt, được giải phóng khỏi ảo tưởng tôn giáo và sống trong sự hòa hợp giữa các quốc gia. Thay vào đó, de Lubac lập luận, chủ nghĩa nhân văn vô thần đã tạo ra những điều kiện văn hóa cho thảm họa chính trị và những cuộc đổ máu lớn nhất trong lịch sử: từ Thế chiến thứ nhất đến thảm họa Holodomor ở Ukraine, đến các trại Gulag, và cuối cùng là Kristallnacht, rồi đến Auschwitz, Treblinka, và phần còn lại của các nhà máy tử thần của Đức Quốc xã. Đó là một phân tích đáng xem xét khi chúng ta phân tích các hình thức bài Do Thái khác nhau ngày nay.
Như các con tôi sẽ vui vẻ xác nhận, tôi hơi thiếu hiểu biết về văn hóa đại chúng, nghĩa là tôi hơi thiếu hiểu biết về những thay đổi nhanh chóng mà tiếng Anh, vốn luôn biến đổi, đang trải qua. Vì vậy, phải mất gần sáu tháng tôi mới hiểu được ý nghĩa của từ “thức tỉnh”. Và chỉ vài tuần trước, tôi mới thực sự hiểu được hình ảnh của việc di chuyển hoặc mở ra “Cửa sổ Overton”: một hình ảnh nhằm mở rộng phạm vi ngôn ngữ và ý tưởng chính trị được chấp nhận để thúc đẩy một chương trình nghị sự cụ thể. Với kiến thức mới về Cửa sổ Overton, tôi xin kết luận bằng cách nói rằng: Cửa sổ Overton liên quan đến ngôn ngữ, ẩn dụ, hình ảnh và khái niệm bài Do Thái đã được mở quá rộng trong vài năm qua và nhiệm vụ thiêng liêng của chúng ta là phải đóng sầm nó lại.
Đây là nghĩa vụ yêu nước của chúng ta đối với đất nước, nơi mà nền văn hóa công dân vốn đã mong manh nay lại càng bị làm suy yếu hơn bởi những kẻ thù ghét người Do Thái, những kẻ đang khiến việc học tập thực sự trở nên khó khăn nếu không muốn nói là không thể thực hiện được ở nhiều cơ sở giáo dục đại học.
Chúng ta có bổn phận công dân đối với những người đồng hương thuộc dòng dõi Abraham, những người dù không dễ dàng nhưng vẫn tham gia đầy đủ vào cuộc thử nghiệm dân chủ của Hoa Kỳ trong nhiều thế kỷ, như đã được chứng minh trong “Lá thư gửi Giáo đoàn Do Thái tại Newport, Rhode Island” của George Washington năm 1790, trong đó vị tổng thống đầu tiên khẳng định (liên quan đến Mikê 4:4) rằng, trong quốc gia mới, “mỗi người sẽ ngồi dưới cây nho và cây vả của mình và sẽ không có ai làm cho họ sợ hãi”.
Và đối với các Kitô hữu trong chúng ta, chúng ta có bổn phận tôn giáo đối với những người mà Đức Gioan Phaolô II đã gọi tại Đại giáo đường Do Thái ở Rôma là “những người anh cả” trong đức tin.
Chúng ta hãy làm tròn bổn phận của mình. Hãy đóng sầm và đóng chặt cửa sổ Overton về chủ nghĩa bài Do Thái, và qua đó góp phần mang lại cho đất nước chúng ta một nền tự do mới được hiểu đúng đắn.
Source:George Weigel