Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chính thức tuyên bố 16 nữ tu dòng Cát Minh nhặt phép ở Compiègne, bị hành quyết trong thời kỳ Khủng bố của Cách mạng Pháp, là những vị thánh thông qua thủ tục hiếm hoi là “phong thánh tương đương”.
Mẹ Teresa thành Saint Augustinô và 15 người bạn đồng hành của mẹ, những người bị chém đầu tại Paris khi họ đang hát thánh ca ngợi khen, có thể ngay lập tức được tôn kính trên toàn thế giới như những vị thánh trong Giáo Hội Công Giáo.
Việc phong thánh “tương đương” từ chuyên môn gọi là “equipollent”, được Vatican công bố vào hôm Thứ Tư, 18 Tháng Mười Hai, nhằm ghi nhận lòng tôn kính lâu đời đối với các vị tử đạo dòng Cát Minh, những người đã chịu chết với đức tin không lay chuyển vào ngày 17 tháng 7 năm 1794.
Hành động dũng cảm và đức tin cuối cùng của họ đã truyền cảm hứng cho vở opera nổi tiếng năm 1957 của Francis Poulenc có tên “Đối thoại của các tu sĩ dòng Cát Minh”, dựa trên cuốn sách cùng tên của tiểu thuyết gia và nhà viết tiểu luận Công Giáo nổi tiếng Georges Bernanos.
Giống như quá trình phong thánh thông thường, phong thánh tương đương là lời cầu khẩn xin Chúa ban cho Đức Giáo Hoàng ơn bất khả ngộ khi tuyên bố rằng một người đang được vinh phúc là thánh trên thiên đàng. Tuy nhiên, khác với quá trình phong thánh chính thức, phong thánh tương đương không đòi hỏi một phép lạ nhờ lời cầu bầu của vị thánh, không có lễ tuyên thánh, chỉ có việc công bố một sắc lệnh của Đức Giáo Hoàng.
Sự tôn kính lâu dài đối với vị thánh và nhân đức anh hùng đã được chứng minh vẫn là điều cần thiết, và mặc dù không cần phép lạ hiện đại nào, danh tiếng của những phép lạ xảy ra trước hoặc sau khi vị thánh qua đời cũng được tính đến sau khi bộ phận lịch sử của Thánh bộ Phong thánh Vatican thực hiện một nghiên cứu.
Mặc dù quá trình này rất hiếm, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã tuyên thánh cho nhiều người khác thông qua việc phong thánh tương đương, chẳng hạn như Thánh Peter Faber và Thánh Margaret xứ Costello. Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 cũng đã tuyên thánh tương đương cho Thánh Hildegard xứ Bingen và Đức Giáo Hoàng Pius XI đã tuyên thánh tương đương cho Thánh Albert Cả.
Những vị tử đạo ở Compiègne là ai?
Các vị tử đạo, gồm 11 nữ tu, ba nữ tu giáo dân và hai tập sinh, đã bị bắt trong thời kỳ đàn áp dữ dội chống Công Giáo. Hiến pháp Dân sự của Giáo sĩ trong Cách mạng Pháp đã cấm đời sống tôn giáo, và các tu sĩ dòng Carmelô ở Compiègne đã bị trục xuất khỏi tu viện của họ vào năm 1792.
Mặc dù bị buộc phải ẩn náu, các chị em vẫn bí mật duy trì cuộc sống cộng đoàn cầu nguyện và sám hối. Theo gợi ý của Mẹ Teresa, tu viện trưởng của Dòng Camelô nhặt phép của Thánh Augustinô, các chị em đã lập thêm một lời khấn: hiến dâng cuộc sống của mình để đổi lấy việc chấm dứt Cách mạng Pháp và phục hồi Giáo Hội Công Giáo tại Pháp.
Vào ngày bị hành quyết, các chị em bị đưa đi khắp các đường phố Paris trên những chiếc xe ngựa không mui, chịu đựng những lời lăng mạ từ đám đông tụ tập. Không nao núng, họ hát Miserere, Salve Regina và Veni Creator Spiritus khi họ tiến đến đoạn đầu đài.
Trước khi chết, mỗi chị em đều quỳ xuống trước nữ tu viện trưởng của mình, người đã cho phép họ được chết. Nữ tu viện trưởng là người cuối cùng bị hành quyết, bài thánh ca của bà vẫn tiếp tục cho đến khi lưỡi kiếm rơi xuống.
Trong vài ngày tiếp theo, chính Maximilien Robespierre đã bị hành quyết, chấm dứt thời kỳ Khủng bố đẫm máu.
Thi thể của 16 vị tử đạo được chôn cất trong một ngôi mộ tập thể tại Nghĩa trang Picpus, nơi có một bia mộ tưởng niệm sự tử đạo của họ. Được phong chân phước vào năm 1906 bởi Giáo hoàng Pius X, câu chuyện của họ kể từ đó đã truyền cảm hứng cho sách, phim và vở opera.
Ngày lễ các Thánh tử đạo Compiègne sẽ được giữ nguyên vào ngày 17 tháng 7, để tưởng nhớ ngày họ tử đạo.
Các án tuyên thánh khác được công nhận
Ngoài việc phong thánh tương đương, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã phê chuẩn các sắc lệnh thúc đẩy các án phong thánh khác, bao gồm việc phong chân phước cho hai vị tử đạo thế kỷ 20: Tổng giám mục Eduardo Profittlich, người đã chết dưới sự đàn áp của cộng sản, và Cha Elia Comini, một nạn nhân của chủ nghĩa phát xít Đức.
Profittlich, một tu sĩ dòng Tên và tổng giám mục người Đức, đã chết trong nhà tù Liên Xô vào năm 1942 sau khi chịu tra tấn vì từ chối từ bỏ đàn chiên của mình ở Estonia do Liên Xô xâm lược.
Comini, một linh mục dòng Salêdiêng, đã bị Đức Quốc xã hành quyết vào năm 1944 vì giúp đỡ dân làng và hỗ trợ tinh thần trong các cuộc thảm sát ở miền bắc nước Ý.
Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng công nhận các nhân đức anh hùng của ba Tôi tớ Chúa: Tổng giám mục Hung Gia Lợi Áron Márton, hay 1896-1980, linh mục người Ý Cha Giuseppe Maria Leone, hay 1829-1902, và giáo dân người Pháp Pietro Goursat, hay 1914-1991, người sáng lập Cộng đồng Emmanuel.
Márton, một giám mục chống lại cả sự áp bức của Đức Quốc xã và cộng sản ở Rumani, đã bảo vệ quyền tự do tôn giáo và giúp đỡ những người bị đàn áp trước khi bị Cộng sản kết án tù chung thân và lao động cưỡng bức vào năm 1951. Sau đó, ông được thả và qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1980.
Leone, một linh mục Dòng Chúa Cứu Thế người Ý, đã dành cả cuộc đời để rao giảng, hướng dẫn tâm linh và giúp đỡ các cộng đồng bị tàn phá bởi dịch bệnh. Nổi tiếng là một người giải tội và hướng dẫn tâm linh, ông đã giúp đổi mới đời sống tôn giáo và truyền cảm hứng cho các tín hữu giáo dân ở Ý sau khi thống nhất.
Giáo dân người Pháp Pietro Goursat đã thành lập Cộng đồng Emmanuel, một phong trào thúc đẩy cầu nguyện và truyền giáo, đặc biệt là trong giới trẻ bị thiệt thòi. Bất chấp những khó khăn cá nhân, ông đã biến Đền Thánh Tâm ở Paray-le-Monial thành một trung tâm tâm linh và sống những năm cuối đời trong sự tận tụy lặng lẽ.
Với sắc lệnh này, ba Tôi tớ Chúa hiện có danh hiệu “Đấng đáng kính” trong Giáo Hội Công Giáo.
Source:Catholic News Agency