1. Tiến Sĩ George Weigel: Chủ tịch Tập Cận Bình có được một chỗ ngồi tại bàn của Đức Giáo Hoàng
Tiến sĩ George Weigel là thành viên cao cấp của Trung tâm Đạo đức và Chính sách Công cộng Washington, và là người viết tiểu sử Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Ông vừa có bài viết nhan đề “Chairman Xi Gets a Seat at the Pope’s Table”, nghĩa là “Chủ tịch Tập Cận Bình có được một chỗ ngồi tại bàn của Đức Giáo Hoàng”. Nguyên bản tiếng Anh có thể xem tại đây. Dưới đây là bản dịch toàn văn sang Việt Ngữ.
Trong số 368 vị tham dự Thượng hội đồng về tính đồng nghị trong tháng này, có 272 vị là giám mục. Các ngài là một nhóm tiêu biểu đáng chú ý của nhân loại, chứng minh rằng Giáo Hội Công Giáo là cộng đồng tôn giáo đa văn hóa nhất trên thế giới. Giữa sự đa dạng đó, hai tham dự viên nổi bật một cách đặc biệt: đó là Giám mục Vinh Sơn Chiêm Tư Lộc (Zhan Silu, 詹思祿) của Giáo phận Phúc Ninh/Mân Đông và Giám mục Giuse Dương Vĩnh Cường (Yang Yongqiang, 杨永强) của Giáo phận Hàng Châu đến từ Trung Quốc, nơi đang có một nỗ lực tàn bạo nhằm “Hán hóa” các cộng đồng tôn giáo, ép họ phải thay đổi cho phù hợp với “Tư tưởng Tập Cận Bình”.Nhà cầm quyền Trung Quốc đã bổ nhiệm Giám mục Chiêm Tư Lộc vào giáo phận Mân Đông vào năm 2000. Giám mục này đã bị vạ tuyệt thông vì chấp nhận việc tấn phong giám mục mà không có sự chấp thuận của Đức Giáo Hoàng, là một tội nghiêm trọng trong Giáo Hội. Sau đó, ông đã được hòa giải với Giáo Hội vào năm 2018. Tuy nhiên, một năm sau đó đã công khai tuyên thệ “sẽ quyết tâm thực hiện việc Hán hóa tôn giáo” và “tiếp tục theo đuổi con đường phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Giám mục Dương Vĩnh Cường là phó chủ tịch của Hiệp hội Công Giáo Yêu nước Trung Quốc, một công cụ của Ban Công tác Mặt trận Thống nhất của Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản, được thành lập năm 1957 để chia rẽ Giáo Hội Công Giáo. Vatican chưa bao giờ công nhận nhóm này là một cơ quan Công Giáo hợp pháp. Trong một lá thư gửi cho người Công Giáo Trung Quốc năm 2007, Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô 16 cho biết mục đích của nhóm này “không phù hợp với giáo lý Công Giáo”. Vị trí của Giám mục Dương trong Hiệp hội Công Giáo Yêu nước càng làm sâu sắc thêm hố sâu ngăn cách giữa Giáo Hội do chế độ kiểm soát ở Trung Quốc và Giáo Hội thầm lặng đang bị bao vây, vốn vẫn trung thành với Rôma ngay cả khi các giáo sĩ và giáo dân của họ bị bỏ tù hoặc bị tử đạo.
Vậy thì tại sao hai người đàn ông này, những người có lòng trung thành cuối cùng không rõ ràng, lại dành tháng 10 ở Rôma theo lời mời cá nhân của Đức Thánh Cha Phanxicô? Lịch sử hiện đại về ngoại giao Vatican gợi ý một câu trả lời.
Các nhà ngoại giao cao cấp của Vatican từ lâu đã bị ám ảnh bởi việc đạt được quan hệ ngoại giao toàn diện giữa Tòa thánh và Trung Quốc. Khuôn mẫu chiến lược của họ cho nỗ lực này là chính sách Ostpolitik của Giáo Hội vào cuối những năm 1960 và 1970. Chính sách đó tìm cách hòa giải với các chế độ cộng sản ở Trung và Đông Âu để tìm cho Giáo Hội một modus non moriendi, hay một “cách không chết”, cho đến khi các chế độ đó tự do hóa đến mức khoan dung tôn giáo, nếu không phải là tự do tôn giáo hoàn toàn, trở thành chuẩn mực.
Theo bất kỳ thước đo nghiêm chỉnh nào, chính sách này là một thất bại thảm hại. Trong thời kỳ Ostpolitik, các cuộc đàn áp đằng sau Bức màn sắt thường gia tăng. Những người Công Giáo kiên định đấu tranh cho quyền tự do tôn giáo và các quyền cơ bản khác của con người cảm thấy bị Vatican phản bội. Các cơ quan tình báo bí mật của Khối hiệp ước Warsaw đã sử dụng Ostpolitik để thâm nhập sâu hơn vào các tổ chức tôn giáo và chính Vatican.
Khi được bầu vào năm 1978, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã âm thầm xóa bỏ Ostpolitik và biến giáo hoàng thành người ủng hộ mạnh mẽ nhân quyền, có ảnh hưởng đáng kể ở Ba Lan, Tiệp Khắc và Lithuania do Liên Xô xâm lược.
Những thất bại rõ ràng của Ostpolitik có thể đã khiến Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh phải suy nghĩ lại một cách tỉnh táo, nhưng có một phẩm chất Bourbon trong bộ máy quan liêu đó: Không có gì bị lãng quên và không có gì được học. Do đó, các nhà ngoại giao trẻ của Vatican đang được đào tạo ngày nay tại Trường Ngoại Giao Tòa Thánh được dạy rằng chính sách này là một thành công lớn, đỉnh cao của ngoại giao Vatican thế kỷ 20. Thái độ đó, cộng với sự thiếu kinh nghiệm toàn cầu của Đức Thánh Cha Phanxicô khi được bầu vào năm 2013, đã giải thích rất nhiều lý do tại sao các Giám mục Chiêm Tư Lộc và Dương Vĩnh Cường lại tham dự hội nghị.
Năm 2018, Đức Thánh Cha Phanxicô, người dường như vô tư không quan tâm đến dự án “Hán hóa” của ông Tập, đã chấp thuận thỏa thuận mà các nhà ngoại giao Vatican bị ám ảnh bởi Trung Quốc đã tìm kiếm từ lâu. Văn bản của thỏa thuận đó, được tái khẳng định vào năm 2021 và có khả năng sẽ sớm được tái khẳng định một lần nữa, chưa bao giờ được công khai. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng thỏa thuận này trao cho Bắc Kinh tiếng nói mạnh mẽ trong việc đề cử các giám mục Công Giáo tại Trung Quốc: đó là một sự nhượng bộ phớt lờ giáo huấn của Công đồng Vatican II, từ 1962-65, và vi phạm trắng trợn Bộ Giáo luật, trong đó nêu rõ rằng “không có quyền hoặc đặc quyền bầu cử, bổ nhiệm, đề cử hoặc chỉ định Giám mục nào được trao cho các chính quyền dân sự”.
Đức Gioan Phaolô II và Bênêđíctô XVI hoàn toàn có thể thực hiện một thỏa thuận như vậy. Nhưng cả hai vị đều không làm như thế, vì các ngài biết rằng điều đó sẽ làm tổn hại đến sự độc lập của Giáo Hội và rằng một chế độ toàn trị không thể tin cậy được. Có vẻ như Đức Thánh Cha Phanxicô đã đồng ý với thoả thuận này vì các nhà ngoại giao của ngài đã thuyết phục ngài rằng việc chấp nhận thỏa thuận đó—và sau đó chào đón những người như Giám mục Chiêm Tư Lộc và Dương Vĩnh Cường vào nhóm Thượng Hội Đồng—là một bước tiến tới quan hệ ngoại giao toàn diện. Đổi lại, điều đó sẽ mang lại cho ngoại giao Vatican một vị trí tại bàn đàm phán về tương lai của thế giới với một thế lực bá quyền toàn cầu tiềm tàng.
Tại sao bá quyền Trung Quốc lại chú ý đến những người đã cúi mình trước nó là một câu hỏi không bao giờ được trả lời. Trong khi đó, việc theo đuổi tưởng tượng ngoại giao này đã làm im tiếng nói của Vatican thay mặt cho tất cả các tín hữu bị đàn áp ở Trung Quốc, để bảo vệ Jimmy Lai, một người Công Giáo ngoan đạo, và để ủng hộ Đức Hồng Y đáng kính Giuse Trần Nhật Quân, giám mục danh dự của Hương Cảng.
Đức Giáo Hoàng cho biết ngài “hài lòng với cuộc đối thoại” và kết quả đạt được là rất “tốt”. Trên thực tế, đó là một sự ô nhục.
Source:Wall Street Journal
2. Giáo Hội Công Giáo Ba Lan có 1.662 thừa sai tại nước ngoài
Giáo Hội Công Giáo tại Ba Lan hiện có 1.662 thừa sai nam nữ đang hoạt động truyền giáo tại 99 nước năm châu.
Theo thống kê được phổ biến trên trang mạng Ekai, Công Giáo Ba Lan, nhân Ngày Thế giới Truyền giáo, Chúa nhật, ngày 20 tháng Mười tới đây, các thừa sai Ba Lan hoạt động đông nhất tại Phi châu và Madagascar, với 660 vị, gồm 66 linh mục giáo phận, 257 nam tu sĩ và 322 nữ tu, 15 giáo dân. Đứng đầu trong số các nước có đông thừa sai Ba Lan là Cameroon, với 101 vị, tiếp đến là 65 vị tại Tanzania.
Mỗi năm, vào ngày 01 tháng Mười, Ủy ban Giám mục Ba Lan về truyền giáo, công bố các thống kê về các nhân sự và các hoạt động thừa sai của Giáo hội nước này. Tại Mỹ châu Latinh, có 646 thừa sai Ba Lan, đứng đầu là tại Brazil với 193 vị.
Tại Á châu, có 280 thừa sai Ba Lan hoạt động. Từ nhiều năm nay, quốc gia có số thừa sai Ba Lan đông nhất vẫn là Kazachstan, với 97 vị. Nhật Bản có 24 và Philippines có 23 thừa sai Ba Lan.
Có 23 thừa sai Ba Lan là giám mục, hầu hết thuộc các dòng tu, đông nhất tại Mỹ châu Latinh và Caraibí, với 11 vị. Tiếp đến là 5 vị tại Phi châu, 2 tại Á châu và 3 vị tại Úc châu, 2 giám mục tại Bắc Mỹ.
Con số trên đây tuy có vẻ nhiều, nhưng thực ra số thừa sai Ba Lan tại nước ngoài liên tục giảm sút, vì số ơn gọi linh mục và nữ tu trong nước tiếp tục suy giảm, nên cũng không gửi các thừa sai ra nước ngoài. Trung tâm đào tạo thừa sai ở thủ đô Varsava, những năm trước đây thường có khoảng 30 học viên, năm ngoái chỉ có 15 người và năm nay còn 7 người.
3. Sự cần kíp phải cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.
Truyền thống cầu nguyện cho những người đã qua đời có nguồn gốc từ Cựu Ước:
Sách Macabêô quyển thứ hai ghi lại như sau:
“Ông Giuđa quyên được khoảng hai ngàn quan tiền, và gửi về Giêrusalem để xin dâng lễ đền tội; ông làm cử chỉ rất tốt đẹp và cao quý này vì cho rằng người chết sẽ sống lại. Thực thế, nếu ông không hy vọng rằng những chiến binh đã ngã xuống sẽ sống lại, thì cầu nguyện cho người chết quả là việc dư thừa và ngu xuẩn. Nhưng vì ông nghĩ đến phần thưởng rất tốt đẹp dành cho những người đã an nghỉ trong tinh thần đạo đức. Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết, để họ được giải thoát khỏi tội lỗi” (2 Mcb 12,43-46).
Giáo Hội từ những thế kỷ đầu, cũng đã có cầu nguyện cho các tín hữu đã qua đời.
Thánh Augustinô, thế kỷ IV, đã nói: “Nếu chúng ta không lưu tâm gì đến người chết, thì chúng ta sẽ không có thói quen cầu nguyện cho họ.”
Các dòng tu đặc biệt quan tâm đến việc này. Thánh Ôđilô, Tu viện trưởng Dòng Cluny, vào giữa thế kỷ XI (1048) đã có sáng kiến cho dòng của ngài cầu nguyện cho những người đã qua đời vào ngày 2/11, ngay sau lễ Các Thánh. Sáng kiến này được Giáo Hội đưa vào lịch Phụng vụ Rôma.
Công Đồng Triđentinô (1545-1563) nhấn mạnh rằng lời cầu nguyện của người sống có thể rút bớt thời gian thanh luyện của linh hồn người chết.
Vì thế, Giáo Hội dùng cả tháng 11 để cầu nguyện cho các linh hồn, được bắt đầu bằng Lễ Các Đẳng Linh Hồn vào ngày 2 tháng 11. Nhiều nơi trên thế giới vẫn gọi tháng 11 là tháng cầu cho các đẳng linh hồn.
Đức Tin của Giáo Hội Công Giáo dạy rằng, con người sau khi chết sẽ xảy ra ba tình trạng; lên Thiên Đàng, xuống Hoả Ngục hay vào Luyện Ngục.
Khi một người sống theo luân lý Công Giáo, luôn kính sợ Thiên Chúa và sống theo giới răn của Ngài. Thiên Đàng là phần thưởng Thiên Chúa dành cho họ vì công trạng và sự mong ước khi họ còn sống. Thiên Đàng là hạnh phúc bất diệt, là sự sống đời đời và là sự hiệp thông trọn hảo với Thiên Chúa, các Thiên Thần, và các Thánh.
Khi còn sống những ai đã từ chối ân sủng của Thiên Chúa, những ai biết tỏ tường điều tốt xấu nhưng vẫn phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân để chọn điều xấu thì hỏa ngục là nơi dành cho họ.
Sách Giáo Lý Công Giáo định nghĩa Luyện Ngục là nơi dành cho “những người chết trong ân sủng và tình thân nghĩa với Thiên Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, thì tuy họ chắc chắn sẽ được cứu độ muôn đời, họ còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết hầu tiến vào hưởng niềm vui thiên đàng” (số 1030).
Có một điều là những linh hồn nơi luyện hình không thể cầu nguyện cho chính họ, và họ phải cậy nhờ hoàn toàn vào lòng thương xót và lời cầu nguyện của những người đang còn sống.
Ngay từ thuở đầu, Giáo Hội luôn cầu nguyện cho những người qua đời, đặc biệt trong Thánh Lễ và các phụng vụ chung. Tất cả các Kinh Nguyện Thánh Thể đều có phần cầu nguyện cho các linh hồn. Chẳng hạn, Kinh Nguyện Thánh Thể ghi rằng: “Xin Chúa cũng nhớ đến anh chị em chúng con đang an nghỉ trong niềm hy vọng sống lại, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc chúng con đã ly trần trong tình thương của Chúa. Xin cho hết thảy được vào hưởng ánh sáng Tôn Nhan Chúa.”
Cha Piô năm dấu thánh kể câu chuyện sau cho thấy sự cần kíp phải cầu nguyện cho các đẳng linh hồn.
Một buổi tối lúc cầu nguyện một mình nơi nhà nguyện bỗng tôi trông thấy một thầy trẻ tuổi đứng nơi bàn thờ chính. Thầy có vẻ như đang lau chùi các chân nến và sửa lại các bình hoa. Lúc ấy là giờ ăn tối. Tôi đinh ninh người lo bàn thánh chính là thầy Leone nên tôi tiến lại gần và nói:
– Thầy Leone à, đang giờ ăn tối, thầy xuống phòng ăn đi, chứ đâu phải giờ lau bụi và sửa soạn bàn thánh!
Nhưng một giọng nói – không phải của thầy Leone – trả lời:
– Con không phải thầy Leone!
Tôi hỏi lại:
– Vậy thầy là ai?
Tiếng nói trả lời:
– Con là tu sĩ cùng dòng với Cha và từng là tập sinh sống ở Tu Viện này. Đức vâng lời dạy con phải luôn luôn giữ gìn bàn thánh thật sạch và thật ngăn nắp. Đáng tiếc, con thường bê trễ trong bổn phận và thiếu lòng tôn kính đối Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm. Chính vì tội thiếu tôn thờ cách trầm trọng này mà cho đến nay con vẫn còn bị hình phạt trong Lửa Luyện Hình. Nhưng giờ đây Thiên Chúa Từ Nhân, trong lòng thương xót vô biên của Ngài, cho phép con hiện về với Cha. Chính Cha là người có thể thu ngắn thời gian con phải chịu giam cầm trong Lửa Luyện Ngục. Xin Cha vui lòng giúp con.
Tôi nghĩ mình quả thật quảng đại đối với Linh Hồn đang đau khổ nơi Lửa Luyện Tội khi nhanh nhẹn hứa rằng: “Anh sẽ chỉ còn ở trong Lửa Luyện Tội cho đến sáng mai lúc dâng Thánh Lễ”. Nào ngờ Linh Hồn này thét lên: “Thật là tàn nhẫn!”. Thét xong câu đó Linh Hồn biến đi. Tiếng than khóc kinh khiếp của Linh Hồn như lưỡi gươm đâm xuyên trái tim tôi. Tôi thật đau đớn và mãi mãi như nghe tiếng thét vang vọng bên tai. Tôi, nhờ sự ủy quyền đặc biệt của Thiên Chúa, có thể giúp Linh Hồn đi thẳng về Trời, trái lại, tôi đã kết án giam giữ Linh Hồn ở lại trong Lửa Luyện Ngục thêm một đêm nữa cho tới sáng mai!
4. Cuộc gặp gỡ lạ lùng giữa Cha Thánh Piô thành Pietrelcina và một linh hồn từ luyện ngục
Philip Kosloski của tờ Aleteia có một bài viết nhan đề “When Padre Pio was visited by a soul from purgatory” nghĩa là “Khi Cha Thánh Piô được một linh hồn từ luyện ngục thăm viếng”. Câu chuyện thật là đánh động vì nó nhắc nhở chúng ta những lời cầu nguyện và thánh lễ thật hữu ích dường nào để cứu các linh hồn trong luyện ngục. Xin mời quý vị và anh chị em theo dõi qua lời dịch của Như Ý.
Cha Pio Năm Dấu Thánh nổi tiếng với nhiều kinh nghiệm huyền bí trong khi cầu nguyện. Ngài thường xuyên được nhìn thấu qua bức màn thiên đàng khi vẫn còn đang tại thế. Một thí dụ tiêu biểu cho các kinh nghiệm này liên quan đến một cuộc gặp gỡ bất ngờ với một linh hồn từ luyện ngục.
Một ngày nọ khi đang cầu nguyện một mình, Cha Pio mở mắt ra và thấy một ông già đang đứng trước mặt ngài. Cha Pio không chút sợ hãi nhưng rất ngạc nhiên trước sự hiện diện của một người khác trong phòng và ngài giải thích trong chứng từ của mình như sau: “Tôi không thể tưởng tượng được làm thế nào ông ta có thể bước vào nhà thờ vào lúc này vì tất cả các cửa đều bị khóa lại.”
Tìm cách làm sáng tỏ bí ẩn này, Cha Pio hỏi người đàn ông “Bạn là ai? Bạn muốn gì?”
Người đàn ông trả lời Cha Pio: “Tôi là Pietro Di Mauro, con trai của Nicola, biệt danh là Precoco. Tôi đã chết trong căn nhà này vào ngày 18 tháng 9 năm 1908, tại phòng số 4, khi đó nơi đây vẫn còn là một viện tế bần. Một đêm nọ, khi đang ở trên giường, tôi ngủ thiếp đi với một điếu xì gà đang hút dở. Điếu xì gà làm cháy nệm và tôi chết vì nghẹt thở và bị đốt cháy. Tôi vẫn còn trong luyện ngục. Tôi cần một thánh lễ để được giải thoát. Chúa cho phép tôi đến và nhờ Cha giúp đỡ tôi.”
Pio an ủi linh hồn tội nghiệp này “Hãy yên tâm tôi bắt đầu cầu nguyện cho ông ngay, và ngày mai tôi sẽ cử hành thánh lễ cầu sự giải thoát của bạn.”
Người đàn ông biến đi và ngày hôm sau Cha Pio đã thực hiện một số công việc điều tra và phát hiện ra tính chân thực của câu chuyện. Sổ bộ của tòa thị chính Rotondo ghi nhận có người đàn ông cùng tên chết vào ngày đó năm 1908 vì biến cố cháy nhà như đã kể. Mọi thứ đã được xác nhận và Cha Pio đã cử hành nhiều Thánh lễ cho linh hồn của người quá cố.
Đây không phải là sự xuất hiện duy nhất của một linh hồn từ luyện ngục yêu cầu Cha Pio cầu nguyện cho. Cha Pio cho biết: “Số linh hồn những người đã chết đến tu viện này xin cầu nguyện cũng đông như linh hồn những người còn sống đến đây xin cầu nguyện cho sự giải thoát khỏi các đam mê và tính hư nết xấu.”
Nhiều lần các linh hồn xin ngài cử hành một Thánh lễ cầu cho họ. Điều này làm nổi bật tầm quan trọng của một Thánh lễ và cho chúng ta thấy cách thức những lời cầu nguyện và Thánh lễ có thể giúp giảm bớt thời gian một người phải trải qua trong luyện ngục trước khi được hưởng vinh quang thiên đàng.